Báo Tiếng Dân
01/11/2019
LTS: Trước cái chết bi thảm của 39 nạn nhân phải bỏ nước đi tìm sự sống để rồi
phải chết ở Anh quốc, chính phủ VN hãy thức tỉnh và huỷ bỏ ngay chuyện tham gia
đầu tư vào việc xây đập thủy điện Luang Prabang ở Lào, phá hoại sinh kế của khoảng
20 triệu dân Đồng bằng sông Cửu Long. Đừng biến mình trở thành thủ phạm đẩy dân
phải ra đi, bất chấp Đồng bằng sông Cửu Long phân huỷ dưới chân Lào.
Chúng tôi xin được giới thiệu bài viết “Cái chết
của đồng bằng”, của tác giả Nguyễn Đăng Anh Thi, chuyên gia Năng lượng và
Môi trường, đăng trên trang VnExpress về thảm họa mà người dân Đồng bằng sông Cửu
Long đang hứng chịu.
______
Nguyễn Đăng Anh Thi
1-11-2019
Chị Tư dậy sớm ra mở quán như thường lệ, bỗng khựng
lại. Một vết nứt như con trăn lớn ngoằn nghèo xé con lộ làm đôi.
Bên kia “con trăn” là quán cà phê bờ sông của anh chị.
Cái quán chưa đến mười mét vuông, lợp lá dừa nhỏ xinh, bốn bề gió lộng bên quốc
lộ 91 trước nhà. “Nồi cơm” của gia đình bốn miệng ăn hàng chục năm nay bỗng trở
nên tuột khỏi tầm với. Nó quá chông chênh khi cố bám víu vào miếng mặt đường rải
nhựa chực chờ sụp xuống theo con nước của dòng Hậu giang.
Hiện trường sạt lở
bờ sông Hậu, tỉnh An Giang. Nguồn: Báo Cần Thơ
Từng nhiều lần chứng kiến nhà cửa, hàng quán trôi
sông ở miền Tây, linh tính mách bảo chị không nên mạo hiểm mưu sinh bên miệng
Hà bá. Y như rằng, sau vài ngày cầm cự, cả đoạn quốc lộ đã rã thành từng mảng
xuống sông, mang theo “nồi cơm” nhà chị Tư. Đó là một ngày cuối tháng bảy.
Quán cà phê của chị Tư cũng là nơi tôi và anh N. hay
ghé lại hàn huyên trong mỗi chuyến công tác An Giang. Tôi vừa gặp lại anh N.
khi anh dẫn con qua Vancouver, Canada du học. Là dân miền Tây chính gốc, tổ
tiên anh đã chọn An Giang làm trú quán ngót 200 năm, từ thời đào kênh Vĩnh Tế.
Anh N. nói, cái quán của chị Tư trôi sông đã làm anh suy nghĩ rất nhiều.
Chẳng ở đâu xa, vuông đất mấy công mặt tiền sông Hậu
nơi đặt xưởng xay xát của nhà cũng đang ngày càng teo lại và nham nhở vì “nước
ăn”. Cái nết hiền lành của con nước Cửu Long ngày xưa không còn nữa. Nhìn xa
xăm, anh tâm sự vừa ký hợp đồng mua dịch vụ tư vấn định cư Canada với số tiền không
hề nhỏ, 5 tỷ đồng. Cực chẳng đã, gia đình anh phải đi tìm vùng đất mới, dù rất
đau xót khi không thể tiếp nối tiền đồ của cha ông. “Ước gì được trở lại ngày
thơ ấu, dù nghèo mà bình yên”, anh bảo, “giờ thì dân miền Tây vẫn nghèo, nhưng
sự bình yên ngày càng xa vắng”.
Mekong được coi như “người mẹ” mang nặng trầm tích
suốt chiều dài hơn 4.800 cây số từ cao nguyên Tây Tạng ra tới biển Đông để sinh
“đứa con” đồng bằng Sông Cửu Long rộng lớn và màu mỡ. Những nghiên cứu về khảo
cổ và lịch sử cho thấy đây là vùng đồng bằng phù sa giàu có, song rất nhạy cảm
và dễ tổn thương.
Suốt 6.000 năm qua, dòng chảy trầm tích Mekong đã
liên tục bồi đắp, kiến tạo và duy trì sự ổn định của vùng châu thổ Cửu Long. Vậy
nhưng, những can thiệp thô bạo từ thượng nguồn đã làm đảo ngược quá trình kiến
tạo của mẹ thiên nhiên. Một chu kỳ mới, đầy khắc nghiệt đã đe dọa đồng bằng
trong gần mười năm trở lại đây: chu kỳ phân rã. Viễn cảnh đồng bằng Sông Cửu Long hoàn toàn biến mất có lẽ
là một cơn ác mộng với người Việt Nam.
Từ năm 1996 đến năm 2014, Trung Quốc đã lần lượ đưa vào hoạt động 6 đập thủy
điện trên thượng nguồn Mekong thuộc lãnh thổ của họ với tổng công suất 15.620
MW, tương đương 6,5 lần công suất thủy điện Sơn La – thủy điện lớn nhất của Việt
Nam. Kể từ đó, những “Vạn lý trường thành trên sông” này đã gây ra cơn đói trầm
tích ở đồng bằng.
Số liệu của Uỷ hội sông Mekong cho thấy, lượng trầm
tích đo được đã giảm hơn hơn một nửa từ năm 1992 đến 2014 do bị giữ lại trong
các hồ thủy điện của Trung Quốc. Không còn nguồn trầm tích bổ sung, vùng châu thổ Cửu Long chỉ còn lở mà
không thể bồi thêm.
Cuộc chiến giằng co giữa đất và nước suốt mấy ngàn
năm có kết quả đầy cay đắng cho người miền Tây. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, sạt lở đã cướp đi 300-500 hecta đất mỗi năm. Tức cứ mỗi năm, diện
tích tương đương 30 sân vận động quốc gia Mỹ Đình hay bằng cả khu đô thị Phú Mỹ
Hưng lần lượt vĩnh viễn trôi theo dòng nước.
Bên cạnh 6 đập trên, báo cáo nghiên cứu khác do Viện
thủy lực Đan Mạch thực hiện năm 2015 cho biết, việc đang xây thêm 11 đập thủy điện tại hạ nguồn Mekong
(Trung Quốc đầu tư 9 dự án, còn lại của các nước khác) sẽ gần như cắt hẳn nguồn
trầm tích, khiến quá trình phân rã đồng bằng Sông Cửu Long càng tăng tốc.
Chỉ tính riêng vùng cửa sông, ven biển từ Soài Rạp (Tiền Giang) đến Gành Hào (Bạc
Liêu) với chiều dài khoảng 250 km, mỗi năm biển sẽ xâm thực 8-13 mét đất. Tức,
11 dự án thủy điện trên mỗi năm sẽ xóa sổ thêm vài trăm hecta đất nữa của đồng
bằng.
Đó là chưa kể những thách thức khác mà đồng bằng
đang gồng mình gánh chịu: biến đổi khí hậu, nước biển dâng và lún đất do mất nước
ngầm, an ninh nguồn nước, hạn hán, xâm nhập mặn, suy thoái chất lượng đất, làm
giảm tài nguyên thủy sản và giảm năng suất nông nghiệp. Cuộc sống của gần 18
triệu cư dân nơi vốn là địa bàn trọng điểm trong chiến lược an ninh lương thực
quốc gia, vùng đóng góp 50% sản lượng lương thực, gần 70% kim ngạch xuất khẩu
thủy sản và 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Vậy nhưng, tôi rất ngạc nhiên khi một doanh nghiệp nhà nước của chúng ta, Tổng
công ty Điện lực Dầu khí (PV Power), lại đang tham gia dự án thủy điện Luang Prabang tại Lào với tư cách là một nhà
đầu tư.
Đập thủy điện Luang Prabang cách đồng bằng Sông Cửu
Long khoảng 2.036 km. Với công suất 1.460 MW, Luang Prabang nằm ở bậc trên và
có công suất lớn hơn cả dự án Xayaburi (công suất 1.285 MW) được khởi công xây
dựng năm 2012 – dự án từng bị cáo buộc là thủ phạm làm nước sông Mekong thấp kỷ
lục trong vòng 100 năm qua vì tích nước để vận hành thử vào cuối tháng bảy vừa
rồi. Chính phủ Lào đã nộp hồ sơ tham vấn về dự kiến khởi công dự án thủy điện
Luang Prabang trên sông Mekong vào năm 2020 và bắt đầu bán điện từ năm 2027. Là
đơn vị tiên phong phát triển dự án từ năm 2007, PV Power sẽ nắm 38% cổ phần của
dự án, phía Lào góp 25% và các đối tác khác góp 37%.
Mua điện, góp
vốn đầu tư hoặc thi công những dự án thủy điện đang “ăn” dòng Mekong đều là tiếp
tay góp phần xóa sổ đồng bằng quý giá của chúng ta. Dù trực tiếp hay gián tiếp,
một khi Việt Nam đã tham gia thì những tiếng nói bảo vệ đồng bằng sẽ trở nên
khôi hài và vô nghĩa.
Anh N bảo “người miền Tây giờ tha phương nhiều lắm”.
Phụ nữ thì tìm chồng ngoại, thanh niên lên thành phố tìm việc, làm công nhân,
người có chút tiền bạc thì tìm cách ra nước ngoài. Ngồi với tôi, anh không giấu
nổi luyến tiếc khi nhắc tới miền sông nước Chín Rồng từng một thời “cá tôm sẵn
bắt, lúa trời sẵn ăn”.
Việt Nam đang làm gì để chậm hóa quá trình phân rã
khắc nghiệt này? Mong Chính phủ sáng suốt chọn con đường, đừng để từ nạn nhân
trở thành tòng phạm, tự nhúng tay vào hiện thực hóa cơn ác mộng biến mất đồng bằng
vĩnh viễn.
No comments:
Post a Comment