(Phát biểu của George Soros tại Diễn Đàn Kinh Tế Thế giới)
Người dịch: Nguyễn Quang A
Davos, Thuỵ Sĩ, 24-1-2019
Chào và cảm ơn tất cả các bạn đã đến.
Tôi muốn dùng thời gian của mình tối nay để cảnh báo
thế giới về một mối nguy hiểm chưa từng có đang đe doạ chính sự sống sót của
các xã hội mở.
Năm ngoái khi tôi đứng trước các bạn tôi đã dùng hầu
hết thời gian của mình để phân tích vai trò bất chính của các hãng IT độc quyền.
Tôi đã nói thế này: “Một liên minh đang nổi lên giữa các nhà nước độc đoán và
các hãng IT lớn, độc quyền, giàu dữ liệu mà cùng nhau tạo ra các hệ thống mới
sinh giám sát công ty với một hệ thống giám sát được nhà nước tài trợ đang phát
triển rồi. Việc này rất có thể dẫn đến một mạng lưới kiểm soát toàn trị mà những
thứ giống thế ngay cả George Orwell đã không thể tưởng tượng nổi.”
Tối nay tôi muốn lưu ý đến mối nguy hiểm chí tử đối
mặt các xã hội mở từ các công cụ kiểm soát mà học máy (machine learning) và trí
tuệ nhân tạo (AI, Artificial Intelligence) có thể đặt vào tay của các chế độ áp
bức. Tôi sẽ tập trung vào Trung quốc, nơi Tập Cận Bình muốn nhà nước độc đảng
thống trị.
Nhiều thứ đã xảy ra từ năm ngoái và tôi đã học được
nhiều về hình thức kiểm soát toàn trị sẽ hình thành ở Trung quốc.
Tất cả thông tin tăng nhanh sẵn có về một người sẽ
được hợp nhất trong một cơ sở dữ liệu tập trung để tạo ra một “hệ thống tín nhiệm
xã hội.” Dựa vào dữ liệu đó, người dân sẽ bị các thuật toán đánh giá, xác định
liệu họ có gây ra một mối đe doạ cho nhà nước độc đảng hay không. Rồi người dân
sẽ được xử trí một cách phù hợp.
Hệ thống tín nhiệm xã hội vẫn chưa hoạt động đầy đủ,
nhưng là rõ nó hướng tới đâu. Nó sẽ làm cho số phận của cá nhân lệ thuộc vào
các lợi ích của nhà nước độc-đảng theo những cách chưa từng có trong lịch sử.
Tôi thấy hệ thống tín nhiệm xã hội là khủng khiếp và
ghê tởm. Đáng tiếc, một số người Trung quốc thấy nó khá hấp dẫn bởi vì nó cung
cấp thông tin và các dịch vụ không sẵn có hiện nay và cũng có thể bảo vệ các
công dân tuân theo pháp luật chống lại các kẻ thù của nhà nước.
Trung quốc không phải là chế độ độc đoán duy nhất
trên thế giới, nhưng không nghi ngờ gì nó là (chế độ độc đoán) giàu nhất, mạnh
nhất và phát triển nhất về học máy và AI. Việc này làm cho Tập Cận Bình là kẻ
thù nguy hiểm nhất của những người tin vào khái niệm xã hội mở. Nhưng Tập không
đơn độc. Các chế độ độc đoán đang tăng nhanh trên khắp thế giới và nếu như
chúng thành công, chúng sẽ trở thành toàn trị.
Với tư cách nhà sáng lập của các Quỹ Xã hội Mở
(OSF-Xã hội mở Foundations), tôi đã hiến dâng đời mình cho việc chiến đấu chống
các ý thức hệ tổng thể hoá (totalizing), cực đoan, mà cho một cách sai lầm rằng
mục đích biện minh cho phương tiện. Tôi tin rằng khát vọng của nhân dân cho tự
do không thể bị đè nén mãi mãi. Nhưng tôi cũng thừa nhận rằng hiện tại các xã hội
mở bị nguy hiểm sâu sắc.
Cái tôi thấy đặc biệt đáng lo là, những phương tiện
kiểm soát được AI phát triển trao cho các chế độ độc đoán ưu thế cố hữu đối với
các xã hội mở. Đối với chúng, các phương tiện kiểm soát cung cấp một công cụ hữu
ích; đối với các xã hội mở, chúng gây ra một mối đe doạ chí tử.
Tôi dùng “xã hội mở” như sự tốc ký cho một xã hội
trong đó luật trị (rule of law) thịnh hành ngược với sự cai trị của một cá nhân
và nơi vai trò của nhà nước là để bảo vệ các quyền con người và quyền tự do cá
nhân. Theo quan điểm riêng của tôi, một xã hội mở phải đặc biệt chú ý đến những
người chịu sự phân biệt đối xử hay sự loại trừ xã hội và những người không thể
tự bảo vệ mình.
Ngược lại, các chế độ độc đoán sử dụng bất cứ phương
tiện kiểm soát nào chúng có để duy trì quyền lực với sự thiệt hại của những người
mà chúng bóc lột và đàn áp.
Làm thế nào các xã hội mở có thể được bảo vệ nếu như
các công nghệ mới này cho các chế độ độc đoán một lợi thế gắn liền? Đó là câu hỏi
làm tôi bận tâm. Và nó phải làm cho tất cả những người thích sống trong một xã
hội mở bận tâm.
Các xã hội mở cần điều tiết các công ty sản xuất ra
các phương tiện kiểm soát, trong khi các chế độ độc đoán có thể tuyên bố chúng
là “các quán quân quốc gia.” Đó là cái đã cho phép một số công ty Trung quốc để
đuổi kịp và thậm chí vượt qua các hãng đa quốc gia khổng lồ.
Điều này, tất nhiên, không phải là vấn đề duy nhất
làm làm cho chúng ta lo ngày nay. Thí dụ, sự thay đổi khí hậu do con người gây
ra đe doạ chính sự sống sót của nền văn minh của chúng ta. Nhưng thế bất lợi cấu
trúc đối mặt các xã hội mở là một vấn đề đã làm tôi bận tâm và tôi muốn chia sẻ
với các bạn những ý tưởng của tôi về làm thế nào để giải quyết nó.
Mối lo sâu sắc của tôi cho vấn đề này nảy sinh từ lịch
sử cá nhân của tôi. Tôi sinh ra ở Hungary trong năm 1930 và tôi là người Do
Thái. Tôi 13 tuổi khi bọn Nazi chiếm đóng Hungary và đã bắt đầu trục xuất những
người Do Thái tới các trại huỷ diệt.
Tôi đã rất may bởi vì cha tôi đã hiểu bản chất của
chế độ Nazi và đã dàn xếp những giấy căn cước giả và những chỗ ẩn náu cho tất cả
các thành viên gia đình của ông, và cho cả một số người Do Thái khác nữa. Hầu hết
chúng tôi đã sống sót.
Năm 1944 đã là trải nghiệm hình thành của đời tôi.
Tôi đã học vào tuổi còn non về loại nào của chế độ chính trị thịnh hành là quan
trọng đến thế nào. Khi chế độ Nazi được thay bằng sự chiếm đóng Soviet tôi đã rời
Hungary càng nhanh càng tốt và đã tìm thấy nơi ẩn náu ở Anh Quốc.
Tại Trường Kinh tế học London (School of Economics)
tôi đã phát triển khung khổ quan niệm của mình dưới sự ảnh hưởng của người thầy
của tôi, Karl Popper. Khung khổ đó đã tỏ ra hữu ích không ngờ khi tôi kiếm được
một việc làm cho mình trong các thị trường tài chính. Khung khổ chẳng liên quan
gì đến tài chính, mà nó dựa vào tư duy phê phán. Cái này đã cho phép tôi phân
tích những khiếm khuyết của các lý thuyết thịnh hành hướng dẫn các nhà đầu tư định
chế. Tôi đã trở thành một nhà quản lý quỹ tự bảo hiểm rủi ro (hedge fund) và
tôi đã tự hào là nhà phê bình được trả (tiền) cao nhất trên thế giới.
Vận hành một hedge fund đã rất căng thẳng. Khi tôi
đã kiếm được nhiêu tiền hơn tôi cần cho bản thân mình và gia đình tôi, tôi đã
trải qua một cuộc khủng hoảng tuổi trung niên. Vì sao tôi phải giết mình để kiếm
nhiều tiền hơn? Tôi đã suy ngẫm lâu và kỹ về cái tôi thực sự quan tâm và vào
năm 1979 tôi đã lập ra Quỹ Xã hội Mở. Tôi đã xác định các mục tiêu của nó là để
giúp mở các xã hội đóng, làm giảm các khuyết tật của các xã hội mở và thúc đẩy
tư duy phê phán.
Những cố gắng đầu tiên của tôi đã nhắm đến việc làm
xói mòn hệ thống apartheid ở Nam Phi. Rồi tôi đã chuyển sự chú ý của mình đến
việc mở hệ thống Soviet. Tôi đã lập một liên doanh với Viện Hàn lâm Khoa học
Hungari, mà đã dưới sự kiểm soát Cộng sản, nhưng các đại diện của nó đã âm thầm
có thiện cảm với những cố gắng của tôi. Sự dàn xếp này đã thành công vượt quá
những ước mơ rồ dại nhất của tôi. Tôi đã bị móc câu vào cái tôi thích gọi là “từ
thiện chính trị.” Đó đã là trong năm 1984.
Trong những năm tiếp sau, tôi đã thử nhân bản thành
công của tôi tại Hungary và tại các nước Cộng sản khác. Tôi đã làm khá tốt
trong đế chế Soviet, kể cả bản thân Liên Xô, nhưng tại Trung quốc nó đã là một
câu chuyện khác.
Cố gắng đầu tiên của tôi ở Trung quốc đã có vẻ khá
hy vọng. Nó đã gồm một sự trao đổi những cuộc thăm viếng giữa các nhà kinh tế học
Hungari những người được ngưỡng mộ hết sức trong thế giới Cộng sản, và một nhóm
từ một think tank (viện nghiên cứu chính sách) Trung quốc mới được thành lập mà
đã háo hức để học từ những người Hungari.
Dựa vào thành công ban đầu đó, tôi đã đề xuất với Trần
Nhất Tư (Chen Yizi), lãnh đạo của think tank đó, để nhân bản mô hình Hungari ở
Trung quốc. Trần đã nhận được sự ủng hộ của Thủ tướng Triệu Tử Dương (Zhao
Ziyang) và thư ký chính sách có đầu óc cải cách của ông là Bào Đồng (Bao Tong).
Một liên doanh được gọi là Quỹ Trung Hoa (China
Fund) đã được khai trương trong tháng Mười 1986. Nó đã là một tổ chức không giống
tổ chức khác nào ở Trung quốc. Trên giấy tờ, nó đã có sự tự trị hoàn toàn.
Bào Đồng đã là nhà quán quân của nó. Nhưng rất đông
địch thủ của các cải cách cấp tiến đã tụ hợp với nhau để tấn công ông. Họ đã
cho rằng tôi là một đặc vụ CIA và đã yêu cầu cơ quan an ninh đối nội điều tra.
Để bảo vệ mình, Triệu Tử Dương đã thay thế Trần Nhất Tư bằng một quan chức cao
cấp của cảnh sát an ninh đối ngoại. Hai cơ quan đã ngang hàng và chúng đã không
thể can thiệp vào công việc của nhau.
Tôi đã đồng ý với sự thay đổi này bởi vì tôi đã khó
chịu với Trần Nhất Tư về việc trao quá nhiều grant (trợ cấp) cho các thành viên
của viện riêng của ông ta và tôi đã không biết về sự đấu đá chính trị đằng sau
sân khấu. Nhưng những ứng viên cho Quỹ Trung Hoa mau chóng đã để ý rằng tổ chức
đã bị kiểm soát của cảnh sát chính trị và đã bắt đầu tránh xa. Chẳng ai đã can
đảm để giải thích cho tôi lý do của việc đó cả.
Cuối cùng, một người Trung quốc được grant (grantee)
đã thăm tôi ở New York và đã bảo tôi, với rủi ro đáng kể cho bản thân anh ta.
Không lâu sau đó, Triệu Tử Dương đã bị truất quyền và tôi đã sử dụng lý do đó để
đóng quỹ lại. Việc này đã xảy ra ngay trước cuộc thảm sát Thiên An Môn trong
năm 1989 và nó đã để lại một “vết đen” trên hồ sơ của những người đã gắn với quỹ.
Họ đã hết sức cố gắng để làm trong sạch thanh danh của họ và cuối cùng họ đã
thành công.
Nhìn lại, rõ ràng tôi đã phạm phải một sai lầm trong
việc thử để lập một quỹ hoạt động theo những cách xa lạ với người dân ở Trung
quốc. Vào lúc đó, việc trao một grant đã tạo ra một cảm giác về nghĩa vụ lẫn
nhau giữa nhà tài trợ (donor) và người nhận và đã buộc cả hai để vẫn trung
thành với nhau mãi mãi.
Ngần ấy về lịch sử. Bây giờ hãy để tôi quay lại những
sự kiện xảy ra trong năm vừa qua, vài trong số đó đã làm tôi ngạc nhiên.
Khi tôi bắt đầu lần đầu tiên đi Trung quốc, tôi đã gặp
nhiều người trong những vị trí quyền lực đã là những người tin nhiệt thành vào
các nguyên tắc của xã hội mở. Trong thời thanh niên của họ, họ đã bị lưu đày về
nông thôn để được cải tạo lại, thường đã chịu khổ sở nhiều hơn tôi đã bị ở
Hungary rất nhiều. Nhưng họ đã sống sót và chúng tôi đã có nhiều điểm chung.
Chúng tôi tất cả đã ở bên nhận của một chế độ độc tài.
Họ đã háo hức để học về các tư tưởng của Karl Popper
về xã hội mở. Trong khi họ đã thấy khái niệm rất hấp dẫn, sự diễn giải của họ
đã vẫn hơi khác với của tôi. Họ đã quen với truyền thống Khổng giáo, nhưng đã
không có truyền thống bầu cử nào ở Trung quốc. Tư duy của họ đã vẫn mang tính
thứ bậc và đã mang theo một sự tôn trọng gắn liền cho chức vụ cao. Mặt khác,
tôi đã là người bình quân chủ nghĩa hơn và đã muốn mỗi người có một phiếu bầu.
Như thế, tôi đã không ngạc nhiên khi Tập Cận Bình vấp
phải sự đối lập nghiêm trọng ở trong nước; nhưng tôi đã bị ngạc nhiên bởi hình
thức nó đã lấy. Tại cuộc hội nghị ban lãnh đạo hè vừa qua ở khu nghỉ dưỡng Bắc
Đới Hà, Tập Cận Bình đã có vẻ bị co vòi lại. Mặc dù không có thông báo chính thức
nào, đã có lời đồn đoán rằng hội nghị đã không tán thành việc bỏ giới hạn nhiệm
kỳ và sự sùng bái cá nhân mà Tập đã xây dựng quanh mình.
Là quan trọng để nhận ra rằng những sự chỉ trích như
vậy đã chỉ là một cảnh báo đối với Tập về những sự thái quá của ông, nhưng đã
không đảo ngược việc bỏ giới hạn hai nhiệm kỳ. Hơn nữa, “Tư tưởng Tập Cận
Bình,” mà ông đã đề xướng như sự chưng cất của ông về lý luận Cộng sản đã được
đề cao lên cùng mức như “Tư tưởng Mao Trạch Đông.” Như thế Tập đã vẫn là lãnh tụ
tối cao, có lẽ suốt đời. Kết cục cuối cùng của sự đấu đá chính trị hiện thời đã
vẫn không được giải quyết.
Tôi đã tập trung vào Trung quốc, nhưng các xã hội mở
có nhiều kẻ thù hơn, Nga của Putin đứng đầu trong số chúng. Và kịch bản nguy hiểm
nhất là khi các kẻ thù này hiệp lực lại với nhau, và học lẫn nhau về làm thế
nào để áp bức nhân dân họ khéo hơn.
Câu hỏi tự đặt ra là, chúng ta có thể là gì để chặn
chúng lại?
Bước thứ nhất là để nhận ra mối nguy hiểm. Đó là vì
sao tôi đang nói ra tối nay. Nhưng bây giờ đến phần khó hơn. Những người trong
số chúng ta mà muốn bảo vệ xã hội mở phải làm việc cùng nhau và lập một liên
minh hữu hiệu. Chúng ta có một nhiệm vụ mà không thể phó mặc cho các chính phủ.
Lịch sử đã chứng tỏ rằng ngay cả những chính phủ, mà
muốn bảo vệ quyền tự do cá nhân, có nhiều lợi ích khác và chúng cũng trao ưu
tiên cho quyền tự do của các công dân của riêng chúng hơn là quyền tự do cá
nhân như một nguyên tắc chung.
Các Quỹ Xã hội Mở của tôi tận tuỵ để bảo vệ các quyền
con người, nhất là cho những người không có một chính phủ bảo vệ chúng. Khi
chúng tôi bắt đầu bốn thập kỷ trước đã có nhiều chính phủ ủng hộ những cố gắng
của chúng tôi nhưng những đội ngũ của họ đã thưa đi. Hoa Kỳ và châu Âu đã là những
đồng minh mạnh nhất của chúng tôi, nhưng bây giờ họ bận với những vấn đề của
riêng họ.
Vì thế, tôi muốn tập trung vào cái tôi xem là câu hỏi
quan trọng nhất cho các xã hội mở: cái gì sẽ xảy ra ở Trung quốc?
Câu hỏi chỉ có thể được nhân dân Trung quốc trả lời.
Tất cả những gì chúng ta có thể là là đưa ra một sự phân biệt rõ rệt giữa họ và
Tập Cận Bình. Vì Tập đã tuyên bố sự thù địch của ông với xã hội mở, nhân dân
Trung quốc vẫn là nguồn hy vọng chính của chúng ta.
Và, thực ra, có cơ sở cho sự hy vọng. Như một số
chuyên gia Trung quốc đã giải thích cho tôi, có một truyền thống Khổng giáo, mà
theo đó các cố vấn của hoàng đế được kỳ vọng để nói thẳng khi họ không đồng ý mạnh
mẽ với một trong những hành động hay các chỉ dụ của ngài, cho dù việc đó có thể
dẫn đến sự lưu đày hay xử trảm.
Điều này đã đến như một sự làm khuây khoả lớn đối với
tôi khi tôi đã trên bờ vực tuyệt vọng. Những người bảo vệ tận tuỵ của xã hội mở
ở Trung quốc, những người khoảng tuổi tôi, hầu hết đã về hưu và chỗ của họ đã
được những người trẻ hơn lấp đầy mà họ lại phụ thuộc vào Tập Cận Bình cho việc
cất nhắc. Nhưng một elite chính trị mới đã nổi lên mà sẵn sàng giữ vững truyền
thống Khổng giáo. Điều này có nghĩa rằng Tập sẽ tiếp tục có một đối lập chính
trị ở trong nước.
Tập giới thiệu Trung quốc như một hình mẫu lý tưởng
cho các nước khác để bắt chước, nhưng ông ta đói mặt với những sự chỉ trích
không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài nữa. Sáng kiến Vành Đai và Con Đường của
ông đã hoạt động đủ dài để tiết lộ những thiếu sót của nó.
Nó đã được nghĩ ra để thúc đẩy các lợi ích của Trung
quốc, không phải lợi ích của các nước nhận; các dự án cơ sở hạ tầng của nó đã
chủ yếu được cấp tài chính bằng các khoản vay, không phải bằng các khoản trợ cấp
(grant), và các quan chức nước ngoài đã thường được đút lót để chấp nhận chúng.
Nhiều trong số các dự án này đã tỏ ra là phi kinh tế.
Trường hợp mang tính biểu tượng là ở Sri Lanka.
Trung quốc đã xây dựng một cảng phục vụ các lợi ích chiến lược của mình. Nó đã
không thu hút được đủ lưu lượng vận tải thương mại để trả được nợ và đã cho
phép Trung quốc chiếm đoạt cảng. Có nhiều trường hợp tương tự ở những nơi khác
và chúng đang gây ra sự phẫn uất lan rộng.
Malaysia đang dẫn đầu sự đẩy lùi. Chính phủ trước do
Najib Razak đứng đầu đã bán hết cho Trung quốc nhưng trong tháng Năm 2018 Razak
đã bị một liên minh do Mahathir Mohamed dẫn đầu đẩy ra khỏi chức vụ. Mahathir
ngay lập tức đã ngừng vài dự án cơ sở hạ tầng lớn và hiện nay đang thương lượng
với Trung quốc về Malaysia sẽ phải trả bao nhiêu tiền đền bù.
Tình hình là không rõ ràng ở Pakistan, mà đã là nước
nhận lớn nhất của các khoản đầu tư Trung quốc. Quân đội Pakistani hoàn toàn chịu
ơn Trung quốc nhưng lập trường của Imran Khan người đã trở thành thủ tướng
tháng Tám vừa qua có tính nước đôi hơn. Vào đầu năm 2018, Trung quốc và
Pakistan đã công bố những kế hoạch đồ sộ về hợp tác quân sự. Vào cuối năm,
Pakistan đã ở trong một khủng hoảng tài chính sâu sắc. Nhưng một thứ đã trở nên
hiển nhiên: Trung quốc có khuynh hướng sử dụng Vành Đai và Con Đường cho cả các
mục đích quân sự nữa.
Tất cả những sự đình đốn này đã buộc Tập Cận Bình để
sửa đổi thái độ của ông đối với Vành Đai và Con Đường. Trong tháng Chín, ông đã
tuyên bố rằng “các dự án phù phiếm” sẽ bị tránh xa để ủng hộ các sáng kiến được
hình thành một cách cẩn trọng và trong tháng Mười, Nhân dân Nhật
Báo đã cảnh báo rằng các dự án phải phục vụ cho các lợi ích của các nước
nhận.
Các khách hàng bây giờ đã được cảnh báo trước và vài
trong số họ, trải từ Sierra Leone đến Ecuador, đang nghi ngờ hay đàm phán lại
các dự án.
Quan trọng nhất, chính phủ Hoa Kỳ bây giờ đã nhận diện
Trung quốc như một “địch thủ chiến lược.” Tổng thống Trump là không thể tiên
đoán được một cách khét tiếng, nhưng quyết định này đã là kết quả của một kế hoạch
được chuẩn bị kỹ lưỡng. Kể từ đó, ứng xử mang phong cách riêng của Trump phần lớn
đã bị bỏ qua bởi một chính sách Trung quốc được chấp nhận bởi các cơ quan chính
quyền và được giám sát bởi cố vấn về các vấn đề Á châu của Hội đồng An ninh Quốc
gia Matt Pottinger và những người khác. Chính sách đã được phác hoạ trong một
bài phát biểu có ảnh hưởng sâu rộng của Phó Tổng thống Mike Pence và ngày 4
tháng Mười.
Tuy nhiên, việc tuyên bố Trung quốc là địch thủ chiến
lược là đơn giản quá mức. Trung quốc là một diễn viên toàn cầu quan trọng. Một
chính sách hữu hiệu đối với Trung quốc không thể được quy giản về một khẩu hiệu.
Nó cần phải tinh vi, chi tiết và thực tiễn hơn rất
nhiều; và nó phải gồm một sự đáp lại kinh tế của Mỹ đối với Vành Đai và Con Đường.
Kế hoạch Pottinger không trả lời câu hỏi liệu mục tiêu cuối cùng là để làm phẳng
sân chơi hay để tách xa (disengage) khỏi Trung quốc hoàn toàn.
Tập Cận Bình đã hiểu đầy đủ mối đe doạ mà chính sách
mới của Hoa Kỳ đã đặt ra cho sự lãnh đạo của ông. Ông đã đánh bạc về một cuộc gặp
gỡ cá nhân với Tổng thống Trump tại cuộc họp G20 tại Buenos Aires. Giữa chừng,
sự nguy hiểm của chiến tranh thương mại đã leo thang và thị trường chứng khoán
đã lao vào một đợt bán tháo nghiêm trọng trong tháng Mười Hai. Việc này đã gây
ra những vấn đề cho Trump người đã tập trung mọi cố gắng của mình vào các cuộc
bầu cử giữa kỳ 2018. Khi Trump và Tập gặp nhau, cả hai đã háo hức cho một thoả
thuận. Không ngạc nhiên rằng họ đã đạt một thoả thuận, nhưng rất không quyết định:
một cuộc đình chiến chín mươi ngày.
Giữa chừng, có những chỉ báo rõ ràng rằng một sự sa
sút kinh tế có cơ sở rộng đang hình thành ở Trung quốc, mà tác động đến phần
còn lại của thế giới. Sự giảm sút (tăng trưởng) toàn cầu là thứ cuối cùng thị
trường muốn thấy.
Khế ước xã hội bất thành văn ở Trung quốc dựa vào
các tiêu chuẩn sống tăng lên đều đặn. Nếu như sự sa sút trong nền kinh tế Trung
quốc và thị trường chứng khoán là đủ nghiêm trọng, khế ước xã hội này có thể bị
làm xói mòn và thậm chí cộng đồng kinh doanh có thể quay ra chống Tập Cận Bình.
Một sự suy giảm hoạt động kinh tế như vậy cũng có thể kéo hồi chuông báo tử cho
Vành Đai và Con Đường, bởi vì Tập có thể hết nguồn lực để tiếp tục tài trợ nhiều
khoản đầu tư lỗ lã như vậy.
Về câu hỏi của sự quản trị internet, có một cuộc chiến
tranh không tuyên bố giữa phương Tây và Trung quốc. Trung quốc muốn đề ra các
quy tắc và các thủ tục cai quản nền kinh tế số bằng cách chi phối thế giới đang
phát triển bằng các nền tảng (platform) và công nghệ mới của nó. Đấy là một mối
đe doạ đối với quyền tự do Internet và trực tiếp đối với bản thân xã hội mở.
Năm ngoái tôi đã vẫn tin rằng Trung quốc nên được
nhúng sâu hơn vào các định chế quản trị toàn cầu, nhưng từ khi đó ứng xử của Tập
Cận Bình đã làm thay đổi ý kiến của tôi. Quan điểm hiện nay của tôi là, thay vì
tiến hành một cuộc chiến tranh thương mại với toàn bộ thế giới, Hoa Kỳ phải tập
trung vào Trung quốc. Thay cho việc tha ZTE và Huawei một cách nhẹ nhàng, cần
trừng trị chúng thẳng tay. Nếu như các công ty này thống trị thị trường 5G,
chúng sẽ là một rủi ro an ninh không thể chấp nhận được đối với phần còn lại của
thế giới.
Đáng tiếc, Tổng thống Trump có vẻ đi theo một hướng
khác: đưa ra những nhượng bộ cho Trung quốc và tuyên bố chiến thắng trong khi
khôi phục lại những cuộc tấn công của ông ta chống lại các đồng minh của Hoa Kỳ.
Việc này chắc làm xói mòn mục tiêu chính sách của Hoa Kỳ về việc kiềm chế những
sự lạm dụng và sự vượt quá giới hạn của Trung quốc.
Để kết luận, hãy để tôi tóm tắt thông điệp tôi đang
đưa ra tối nay. Điểm mấu chốt của tôi là, sự kết hợp của các chế độ áp bức với
các độc quyền IT trao cho các chế độ đó một lợi thế gắn liền đối với các xã hội
mở. Các phương tiện kiểm soát là các công cụ hữu ích trong tay của các chế độ độc
đoán, nhưng chúng gây ra một mối đe doạ chí tử cho các xã hội mở.
Trung quốc không phải là chế độ độc đoán duy nhất
trên thế giới nhưng nó là giàu nhất, mạnh nhất và tiên tiến nhất về mặt công
nghệ. Điều này khiến cho Tập Cận Bình là địch thủ nguy hiểm nhất của các xã hội
mở. Đó là vì sao lại quan trọng đến vậy để phân biệt các chính sách của Tập Cận
Bình với những khát vọng của nhân dân Trung quốc. Hệ thống tín nhiệm xã hội, nếu
như nó hoạt động, sẽ cho Tập sự kiểm soát hoàn toàn đối với nhân dân. Vì Tập là
kẻ thù nguy hiểm nhất của xã hội mở, chúng ta phải gim chặt hy vọng của chúng
ta vào nhân dân Trung quốc, và nhất là vào cộng đồng doanh nghiệp và một elite
chính trị sẵn sàng giữ vững truyền thống Khổng giáo.
Điều này không có nghĩa rằng những người trong chúng
ta mà tin vào xã hội mở nên vẫn thụ động. Thực tế là chúng ta ở trong một cuộc
Chiến tranh Lạnh mà đe doạ trở thành một cuộc chiến tranh nóng. Mặt khác, nếu
như Tập và Trump không còn nắm quyền nữa, một cơ hội sẽ xuất hiện để phát triển
sự hợp tác lớn hơn giữa hai siêu cường-cyber.
Có thể để mơ ước về cái gì đó giống Hiệp ước Liên hiệp
Quốc mà đã nảy sinh ra từ Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai. Đấy sẽ là sự kết
thúc thích hợp cho chu kỳ xung đột hiện thời giữa Hoa Kỳ và Trung quốc. Nó sẽ
thiết lập lại sự hợp tác quốc tế và cho phép các xã hội mở hưng thịnh. Điều đó
tóm tắt thông điệp của tôi.
-----------------------------------
Nguồn
:
Davos, Switzerland, January 24, 2019
No comments:
Post a Comment