TS Vũ Quang Việt
Thứ Hai, 3/9/2018, 12:27
(TBKTSG)
- Việt Nam hiện nợ Trung Quốc bao nhiêu là câu hỏi đáng hỏi, bởi vì chính Bộ Kế
hoạch và Đầu tư Việt Nam đã cảnh báo về các điều kiện không ưu đãi khi vay “tín
dụng ưu đãi” của Trung Quốc.
Báo cáo “Cập nhật định hướng thu hút, và sử dụng vốn
vay ODA và vay ưu đãi giai đoạn 2018-2020 và tầm nhìn 2021-2025” (3-8-2018) đã
viết như sau (trích nguyên văn): “...tín dụng ưu đãi của Trung Quốc tương tự
như các khoản tín dụng xuất khẩu, là các khoản vay có điều kiện (chỉ định thầu
cho các doanh nghiệp Trung Quốc) và có điều kiện vay kém ưu đãi hơn so với vốn
ODA của các nhà tài trợ khác tại Việt Nam. Lãi suất khoảng 3%/năm, phí cam kết
0.5%, phí quản lý 0,5%, thời hạn vay 15 năm, thời gian ân hạn năm năm... Tuy
nhiên, một số dự án sử dụng vốn vay, nhà thầu, thiết bị Trung Quốc cũng thường
xuyên chậm tiến độ, không đảm bảo chất lượng, tăng tổng mức đầu tư... ảnh hưởng
hiệu quả đầu tư. Do đó, định hướng trong thời gian tới đối với việc vay nguồn
tín dụng ưu đãi của Trung Quốc cần được xem xét, cân nhắc”.
Kể từ năm 2017, Việt Nam đã ra khỏi danh sách các nước
nghèo được ưu tiên nhận vốn ưu đãi từ tổ chức quốc tế, do đó cần thay đổi chính
sách phát triển dựa vào vốn nước ngoài. Ảnh: Internet
Lãi suất vay từ Trung Quốc như vậy là rất cao so với
lãi suất 0% của Đan Mạch, 0,2% của Tây Ban Nha, 0,6-1,2% của Nhật, 1,04% của
Pháp, 0,75% của Đức, 1,75% của Ấn Độ... Còn với các tổ chức quốc tế, lãi suất
là 0,9% (Libor 6 tháng + 0,4-0,9%) tức là hiện nay vào khoảng 1,3-1,8%/năm và với
thời hạn vay rất dài có thể tới 30 năm, thời gian ân hạn ít nhất là 5 năm.
Như vậy, câu hỏi quan trọng vẫn là cho đến nay số nợ
của Việt Nam với Trung Quốc là bao nhiêu? Tại sao Việt Nam tiếp tục vay Trung
Quốc để phải nhập công nghệ phế thải với điều kiện rất không ưu đãi? Và tình
hình chính trị sẽ ra sao nếu công ty Việt Nam vay mượn tiền Trung Quốc phải chấp
nhận chuyển giao sở hữu công trình cho ngân hàng chủ nợ của họ, một giải pháp
bình thường trong thương mại, khi không trả được nợ?
Mặc dù số nợ Trung Quốc cần theo dõi, nhưng rất tiếc
không thể tìm thấy câu trả lời trong báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nói đến ở
trên. Bản báo cáo chỉ nói đến số tiền vay ODA từ Trung Quốc là 250 triệu đô la
Mỹ, tức là chỉ khoảng 3,7% so với tổng số vay ưu đãi của Việt Nam là 6,78 tỉ đô
la trong thời gian 2016-2017.
Phải nói kể từ năm 2011, Bộ Tài chính chỉ công bố tổng
số nợ nước ngoài và đã chấm dứt việc công bố nợ từng nước. Bản tin nợ nước
ngoài số 7 công bố năm 2011 cho thấy tổng số nợ của Chính phủ Việt Nam với
Trung Quốc tính đến hết năm 2010 lên đến 552 triệu đô la Mỹ và khoản nợ do
Chính phủ bảo lãnh là 1,12 tỉ đô la. Như vậy tổng số nợ Trung Quốc tính đến cuối
năm 2010 mà Chính phủ trách nhiệm là 1,64 tỉ đô la.
Theo một nghiên cứu chi tiết về các khoản nợ của các
nước trong đó có Việt Nam với Trung Quốc, thì tổng số nợ của Việt Nam với Trung
Quốc (bao gồm cả Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư) có thể đã
lên tới 4 tỉ đô la Mỹ, chỉ có thể tính đến hết năm 2013 (xem biểu 1 đính kèm).
Số liệu trên cũng chưa thể tính trừ đi khoản nợ gốc đã trả.
BIỂU I : CÁC KHOẢN NỢ
CỦA VIỆT NAM VỚI TRUNG QUỐC 2000 - 2013
Tuy thế, nếu dựa vào số liệu nợ Trung Quốc là 4,1 tỉ
đô la năm 2013, tính ra bằng 6,3% tổng số nợ nước ngoài của Việt Nam (kể cả nợ
của doanh nghiệp) là 63,5 tỉ đô la vào năm 2013. Dựa vào cùng tỷ lệ trên, và với
số nợ nước ngoài hiện nay ước là 100 tỉ đô la Mỹ, có thể ước nợ Trung Quốc vào
năm 2018 đã trên 6 tỉ đô la. Ngân hàng Thế giới tính số nợ nước ngoài của Việt
Nam là 86,9 tỉ đô la vào cuối năm 2016.
Số nợ Trung Quốc thật sự có thể lớn hơn số trên, vì
từ sau năm 2010, Bộ Tài chính chỉ theo dõi và công bố nợ công tức là nợ của
Chính phủ và nợ của doanh nghiệp do Nhà nước bảo lãnh, theo định nghĩa của Việt
Nam. Từ 2011, bộ đã chấm dứt công bố nợ nước ngoài bao gồm cả nợ của doanh nghiệp
tư nhân. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có bản hướng dẫn về nội dung quản lý
nhà nước đối với vay và trả nợ của doanh nghiệp (03/VBHN-NHNN, 12-7-2017). Như
thế về nguyên tắc, Ngân hàng Nhà nước nắm được thông tin nhưng không công bố.
Việc quản lý nợ nước ngoài là quan trọng, chứ không
chỉ nợ công. Mất khả năng chi trả, có thể đưa đến khủng hoảng kinh tế ngay lập
tức, khi các ngân hàng nước ngoài chặn tài khoản quốc gia để đòi nợ. Đó là chưa
kể đến các doanh nghiệp nước ngoài đòi con nợ chuyển sở hữu (tức là vĩnh viễn,
chứ không chỉ là 99 năm).
Kể từ năm 2017, Việt Nam đã ra khỏi danh sách các nước
nghèo được ưu tiên nhận vốn ưu đãi từ tổ chức quốc tế, do đó cần thay đổi chính
sách phát triển dựa vào vốn nước ngoài, thay vì dựa vào mình là chính, có thể
đưa Việt Nam đến bẫy nợ Trung Quốc. Do đó, để có thể theo dõi kinh tế Việt Nam
nhằm có chính sách đúng đắn, Bộ Tài chính cần theo dõi sát sao và công bố nợ nước
ngoài của Việt Nam, dù là nợ của Chính phủ hay của doanh nghiệp. Nếu không tự
nguyện, Quốc hội nên có nghị quyết yêu cầu Bộ Tài chính thực hiện việc làm
trên.
Sri Lanka đã rơi vào bẫy nợ của Trung Quốc khi không
thể trả nợ tiền mượn xây dựng cảng nên đã phải nhượng cảng nước sâu Hambantoba
cho Trung Quốc trong 99 năm. Mới đây, Thủ tướng mới của Malaysia, ông Mahathir,
đã yêu cầu Trung Quốc xóa bỏ các công trình đầu tư chung, từ làm xe lửa cao tốc,
nới biển xây khu vực công nghệ, cảng, và dự án nhà ở cho người Trung Quốc. Ông
Mahathir lấy lý do không muốn phải rơi vào thế nhượng địa khi mất khả năng chi
trả (theo NYT ngày 20-8-2018).
No comments:
Post a Comment