19/08/2018
Thay
vì bước vào kỷ nguyên độc lập và dân chủ và bây giờ có thể đã là một nước giầu
mạnh, chúng ta đã chỉ bắt đầu cùng với Cách Mạng Tháng 8 một giai đoạn nội chiến
rồi cộng sản với thực trạng bi đát hiện nay. Chúng ta đang là một quốc gia
không đáng kể.
Một
câu hỏi lớn, rất lớn, cần được đặt ra là tại sao vào lúc đó, khi Thế Chiến II
chấm dứt và một triển vọng độc lập và dân chủ mở ra cho Việt Nam, lực lượng được
ủng hộ nhiều nhất lại là Đảng Cộng Sản ?
Một
lần nữa chúng ta lại kỷ niệm Cách Mạng Tháng 8-1945. Một câu hỏi lớn, rất lớn,
cần được đặt ra là tại sao vào lúc đó, khi Thế Chiến II chấm dứt và một triển vọng
độc lập và dân chủ mở ra cho Việt Nam, lực lượng được ủng hộ nhiều nhất lại là
Đảng Cộng Sản, một đảng theo một chủ nghĩa chuyên chính mà mục đích sau cùng là
xóa bỏ các quốc gia, hơn nữa chủ nghĩa này đã bị nhận diện là sai và bị bác bỏ
trên chính quê hương của nó từ 70 năm trước ?
Cố
gắng trả lời câu hỏi này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn giai đoạn lịch sử kế tiếp
và đồng thời cũng giúp chúng ta hiểu phải tranh đấu như thế nào để mở ra cho đất
nước kỷ nguyên dân chủ.
Ba lý
do của một quốc hận
Có
ba nguyên nhân chính khiến Đảng Cộng Sản đã được quần chúng Việt Nam ủng hộ và
đã cướp được chính quyền.
Tại
Trung Quốc cũng như tại Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện như một cải
tiến của Khổng Giáo.
Lý do thứ nhất là lòng yêu nước và tinh thần quốc gia của chúng ta
quá yếu.
Sự
thực này hầu như bị mọi người cố tình phủ nhận vì trong bối cảnh nội chiến sau
Cách Mạng Tháng 8 lòng yêu nước đã là một khẩu hiệu của mọi phe phái, không ai
dám nhận rằng mình không yêu nước dù rất ít ai thực sự yêu nước. Tuy vậy nếu ta
suy nghĩ bình tĩnh thì sự thiếu vắng của lòng yêu nước và tinh thần quốc gia của
người Việt Nam chỉ là đương nhiên. Yêu nước trước hết là yêu đồng bào mình và
tinh thần quốc gia trước hết là nguyện ước xây dựng và chia sẻ một tương lai
chung với đồng bào mình. Chúng ta không thấy, hay cùng lắm chỉ thấy được một
cách rất mờ nhạt, tình yêu và nguyện ước đó khi nhìn vào lịch sử.
Trong
suốt quá trình lập quốc của chúng ta, từ thời tiền sử cho đến thế kỷ 10 khi Ngô
Quyền mở đầu kỷ nguyên tự chủ, chúng ta đã chỉ thấy những cuộc chiến giữa các
phe phái môn phiệt để tranh giành quyền thống trị trên một khối dân chúng bị
coi như những kẻ nô lệ. Không hề có dấu vết của tình dân tộc nghĩa đồng bào.
Vào cuối thế kỷ thứ 3 Đào Hoàng là tướng Đông Ngô cai trị nước ta. Đào Hoàng đã
đàn áp thẳng tay mọi ý đồ tự trị và thực hiện một chính sách Hán hóa quả quyết,
buộc những thành phần bất khuất phải rút vào rừng núi và trở thành người Mường.
Tuy vậy khi Đào Hoàng qua đời dân chúng đã khóc thương ông như khóc cha chỉ vì
ông đã để cho họ sống yên.
Trong
suốt dòng lịch sử, đối với tuyệt đại bộ phận quần chúng, các lãnh chúa địa
phương hay các quan cai trị Trung Quốc đều chỉ là những kẻ thống trị trong khi
họ vẫn chỉ là những người nô lệ. Các giai đoạn tự chủ chỉ thay thế một ách nô lệ
ngoại bang bằng một ách nô lệ bản xứ. Những người nô lệ không có lý do để yêu
nước.
Sự
vắng mặt của tinh thần quốc gia dân tộc vẫn tiếp tục dưới hai triều đại Lý và
Trần. Nhà Trần còn chủ trương lấy lẫn nhau trong họ để máu hoàng tộc không bị pha
trộn với dân gian. Phải đến thế kỷ 15, trong bài Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi
mới nhắc tới "dân" khi buộc tội quân Minh "nướng dân đen
trên lửa hung tàn". Nhưng cũng chỉ có thế. Ngay cả sau thế kỷ 19
nhà Nguyễn cũng vẫn chỉ tự coi là một lực lượng thống trị. Các vua nhà Nguyễn
dành những đặc quyền lớn cho tỉnh Thừa Thiên của mình và rất ít khi vào Nam hay
ra Bắc.
Người
ta có thể biện luận rằng mọi quốc gia đều bắt đầu từ một tham vọng thống trị của
một nhóm nhỏ, tinh thần quốc gia và dân tộc chỉ hình thành chậm chạp sau đó với
thời gian. Đúng, nhưng vấn đề là đối với chúng ta tinh thần này đã gần như
không có trong gần suốt dòng lịch sử khá dài. Chúng ta không có tinh thần quốc
gia và dân tộc bởi vì nền tảng ý thức hệ của chúng ta là Khổng Giáo, một ý thức
hệ vừa rất sơ đẳng vừa vô tổ quốc. Các nho sĩ theo phương châm "nước nguy
không đến, nước loạn không ở" (nguy bang bất nhập loạn bang bất
cư). Họ chỉ mong ước được làm tôi tớ cho các vua chúa để sống sung túc và
tiếp tay ức hiếp khối dân chúng nghèo khổ.
(Chính
bản chất vô tổ quốc của Khổng Giáo đã khiến các nước nhỏ bé như Mông Cổ và Mãn
Thanh có thể chinh phục và thống trị Trung Quốc trong một thời gian dài trước
khi sụp đổ vì phân hóa nội bộ chứ không phải vì bị chống đối như những lực lượng
ngoại xâm).
Một
trong những chủ trương nền tảng của chủ nghĩa Marx là xóa bỏ các quốc gia,
nhưng điều này nhiều người Việt Nam không biết, hoặc có biết cũng không khiến
nó bị từ khước bởi vì lòng yêu nước và tinh thần quốc gia của chúng ta gần như
không có. Trái lại lời kêu gọi đấu tranh giai cấp, xóa bỏ giầu nghèo của nó có
sức thu hút đặc biệt, nhất là sau nạn đói đầu năm 1945 khiến gần hai triệu người
chết.
Vả
lại tại Trung Quốc cũng như tại Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản đã xuất hiện như một
cải tiến của Khổng Giáo. Về bản chất hai chủ nghĩa này gần giống nhau. Cũng
giáo điều chuyên chính, cũng kỳ thị giai cấp, cũng thù ghét thương mại, cũng vô
tổ quốc. Điều khác biệt chỉ là chủ nghĩa cộng sản, ít nhất trên danh nghĩa, chủ
trương bênh vực người nghèo trong khi Khổng Giáo công khai phục vụ giai cấp quyền
quý.
Chủ
nghĩa Marx đã xuất hiện dưới mắt nhiều người như một tư tưởng chính trị mới, mạch
lạc và thuyết phục
Lý do thứ hai là sự thiếu vắng tư tưởng, tư tưởng nói chung cũng
như tư tưởng chính trị.
Chúng
ta tự hào có lịch sử dài, bốn ngàn năm hay hai ngàn năm, nhưng chúng ta không
có một nhà tư tưởng nào hay một tác phẩm tư tưởng nào. Nguyễn Trãi có được một
câu nói đúng "chính trị cốt mưu tìm hòa bình, chiến tranh trước hết là để
trừ bạo ngược", nhưng ông cũng chỉ dừng lại ở đó thôi.
Tư
tưởng của chúng ta cho đến rất gần đây chỉ là Khổng Giáo du nhập từ Trung Quốc,
nhưng Khổng Giáo không phải là một triết lý mà trái lại còn là một phản triết bởi
vì nó chỉ lặp lại những xác quyết chứ không lý luận trong khi lý luận là nền tảng
của triết. Mãi đến đầu thế kỷ 20 mới có Phan Châu Trinh, nhưng Phan Châu Trinh
mới chỉ mở đầu cho tư tưởng chính trị và đã không được tiếp nối. Phạm Quỳnh là
một học giả chân chính nhưng cũng mới chỉ là một học giả. Dầu vậy Phan Châu
Chinh và Phạm Quỳnh đã là hai trí thức lỗi lạc bậc nhất của chúng ta trong thế
kỷ 20.
Vào
thời điểm của Cách Mạng Tháng 8 chúng ta không có một tư tưởng chính trị nào cả.
Việt Nam Quốc Dân Đảng chỉ lặp lại qua loa khẩu hiệu Tam Dân của Trung Hoa Quốc
Dân Đảng. Các đảng Đại Việt -ra đời từ cuối thập niên 1930- nói chung chỉ sao
chép lại chủ nghĩa Nazi, một chủ nghĩa tồi tệ sắp gây ra Thế Chiến II và bị đào
thải. Chủ nghĩa "dân tộc sinh tồn" của Đại Việt Quốc Dân Đảng, do đảng
trưởng Trương Tử Anh viết trên hai trang giấy, chỉ tóm lược một cách rất thô sơ
chủ nghĩa quốc gia cực đoan của Quốc Xã Đức. Đại Việt Dân Chính của nhóm Tự Lực
Văn Đoàn thì theo lời ông Nguyễn Tường Bách, một đảng viên cốt cán, chỉ có một
cương lĩnh luộm thuộm nửa Tam Dân nửa Phát Xít. "Chủ nghĩa Duy Dân"
cũng hoàn toàn trống rỗng. Việc Lý Đông A được nhiều trí thức khoa bảng coi là
một lý thuyết gia chỉ chứng tỏ chúng ta không có tư tưởng. Các đảng phái quốc
gia không chịu đầu tư vào học tập tư tưởng chính trị chủ yếu vì không hiểu tư
tưởng chính trị là gì để nhìn thấy sự cần thiết của nó.
Trong
giai đoạn Pháp thuộc chúng ta đã có nhiều người học được nhiều kiến thức phương
Tây ở mức độ cao, nhưng họ chủ yếu học để thi lấy bằng và làm quan chứ không
quan tâm tới tư tưởng, càng không quan tâm tới tư tưởng chính trị. Về mặt tư tưởng
chúng ta vẫn chưa có gì. Chính vì sự trống vắng tư tưởng đó mà vào thời điểm
Cách Mạng Tháng 8 đại đa số người Việt, kể cả trí thức, không biết một sự thực
khổng lồ là chủ nghĩa Marx đã bị nhận diện là sai và bị loại bỏ ngay trên quê
hương của nó từ 70 năm rồi, chính xác là từ đại hội Gotha của Đảng Xã Hội Dân
Chủ Đức năm 1875. Nếu Hồ Chí Minh có kiến thức hơn một chút thì khi được biết tới
chủ nghĩa cộng sản, gần 50 năm sau khi nó đã bị bác bỏ, ông đã không say sưa đến
độ mê sảng và không làm nhiều người mê sảng theo ông và điên cuồng tàn sát những
người mà họ nghi ngờ là không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.
Bi
đát hơn nữa là trong sự trống vắng tư tưởng đó, chủ nghĩa Marx đã xuất hiện dưới
mắt nhiều người như một tư tưởng chính trị mới, mạch lạc và thuyết phục, nhất là
khi nó lại quả quyết đứng về phía những người nghèo khổ và kêu gọi họ đứng dậy
đoàn kết đấu tranh đòi quyền sống. Và như đã nói nó còn có sức động viên mãnh
liệt sau nạn đói Ất Dậu kinh khủng vừa xẩy ra vài tháng trước đó và vẫn chưa chấm
dứt hẳn.
Vào
thời điểm tháng 8/1945, trong khoảng trống chính trị và quyền lực toàn diện khi
Nhật đầu hàng, quân Đồng Minh chưa tới và chính quyền Trần Trọng Kim tan rã, Đảng
Cộng Sản là lực lượng duy nhất.
Lý do thứ ba là quần chúng Việt Nam vào lúc đó cũng không có chọn
lựa nào khác.
Việt
Nam Quốc Dân Đảng đã hoàn toàn tê liệt từ năm 1930 sau khi bị đàn áp dã man. Đảng
viên cơ sở vẫn còn nhiều, kể cả ở nông thôn, chủ yếu là những người tham gia vì
cảm phục sau sự hy sinh anh dũng ngày 17/6/1930 tại Yên Bái, nhưng đầu não thì
đã bị tiêu diệt gần hết, số nhỏ thoát nạn thì phần lớn đã đào thoát qua Trung
Quốc. Việt Nam Quốc Dân Đảng thực ra không có lãnh đạo sau năm 1930 để vận dụng
cảm tình của dân chúng. Các đảng Đại Việt chỉ mới thành lập và cũng chỉ là những
tổ chức lỏng lẻo không có dự án chính trị và chỉ giới hạn trong giới trí thức
đô thị. Điểm chung của tất cả các đảng phái quốc gia là một sai lầm : tất cả đều
tin rằng chỉ có con đường đấu tranh võ trang dù không có và cũng không thể có
phương tiện. Như vậy tất cả đều rất yếu và đã mang sẵn thất bại ở trong lòng.
Nhiều
người thường nhắc lại với sự tiếc nuối là vào thời điểm Cách Mạng Tháng 8 chính
phủ Trần Trọng Kim đã thiếu quả quyết. Nhưng chính phủ Trần Trọng Kim chưa bao
giờ là một chính phủ. Nó chỉ có trên danh nghĩa và giấy tờ vài tháng trước đó,
sau cuộc đảo chính của Nhật ngày 9/3/1945. Các bộ trưởng chỉ được phong chức chứ
chưa nhận chức. Họ ở rải rác trên ba miền Nam Trung Bắc và hình như chưa bao giờ
họp lại. Khi họ họp lại, có lẽ là lần đầu, hai tuần lễ trước Cách Mạng Tháng 8,
họ cãi lộn rồi tất cả từ chức. Chính quyền Trần Trọng Kim không nhượng bộ Đảng
Cộng Sản vào ngày 19/8/1945 như nhiều người nghĩ, nó chưa bao giờ có thực và
đàng nào cũng đã tan rã rồi.
Ông
Trần Trọng Kim không phải là một chính trị gia. Ông chỉ là một nhà giáo và một
nhà sử hoàn toàn không có kinh nghiệm lãnh đạo nào trên bất cứ địa hạt nào. Khi
được vua Bảo Đại mời làm thủ tướng ông đã mời một số nhân sĩ có tiếng tăm làm bộ
trưởng. Những người này không có một kiến thức và kinh nghiệm chính trị nào. Họ
không phải là một đội ngũ và cũng không biết nhau để có thể đồng ý. Họ chỉ là
những nhân sĩ cùng lắm có thể tham gia vào một guồng máy có sẵn, khi không có
guồng máy họ bối rồi và bỏ cuộc. Đó là điều đã xảy ra. Sau này tại Paris tôi đã
có nhiều dịp trao đổi với bác sĩ Hồ Tá Khanh, bộ trưởng kinh tế trong chính phủ
Trần Trọng Kim. Ông Hồ Tá Khanh là một người tốt nhưng ông nhìn nhận là không
biết gì về cả kinh tế lẫn chính trị. Ông hoàn toàn đồng ý với những nhận xét của
tôi về chính phủ Trần Trọng Kim.
Trong
cuốn hồi ký Một cơn gió bụi ông Trần Trọng Kim đã nhìn nhận rằng
vào lúc đó Đảng Cộng Sản gần như là lực lượng duy nhất và họ đã rất mạnh. Có thể
lực lượng quân sự của họ chưa mạnh nhưng họ có tổ chức và hậu thuẫn, ngay cả
trong hàng ngũ vệ binh của triều đình Huế. Các cấp lãnh đạo của họ cũng đã được
huấn luyện tại Liên Xô và Trung Quốc. Họ đáng lẽ còn mạnh hơn nữa nếu không tổ
chức cuộc "Nam Kỳ Khởi Nghĩa" dại dột và vụng về vào cuối năm 1940 để
rồi thảm bại và phần lớn các cơ sở miền Nam bị tiêu diệt. Tuy vậy vào thời điểm
tháng 8/1945, trong khoảng trống chính trị và quyền lực toàn diện khi Nhật đầu
hàng, quân Đồng Minh chưa tới và chính quyền Trần Trọng Kim tan rã, Đảng Cộng Sản
là lực lượng duy nhất. Thắng lợi của họ là đương nhiên. Chỉ tiếc một điều là họ
đã là chính họ, nghĩa là Đảng Cộng Sản.
Ngày
19/8/1945 xứng đáng được coi là một ngày quốc hận lớn trong lịch sử Việt Nam.
Ân hận, đáng tiếc và đáng buồn chứ không thù hận. Thay vì bước vào kỷ nguyên độc
lập và dân chủ, và bây giờ có thể đã là một nước giầu mạnh, chúng ta đã chỉ bắt
đầu cùng với Cách Mạng Tháng 8 một giai đoạn nội chiến rồi cộng sản với thực trạng
bi đát hiện nay. Chúng ta đang là một quốc gia không đáng kể. Nghèo khổ, tụt hậu
và ô nhiễm, không một công ty, một phát minh khoa học kỹ thuật hay một sáng tác
văn học nghệ thuật, hay ngay cả một thành tích thể thao nào được thế giới biết
đến. Đã thế còn mất biến, mất đất, mất đảo, mất cả một phần chủ quyền. Người Việt
Nam vẫn còn bị từ chối những quyền làm người căn bản nhất, vẫn còn bị thống trị
bởi một đảng coi mình cao hơn đất nước, thẳng tay vơ vét và đàn áp không khác một
lực lượng chiếm đóng. Trên thực tế chúng ta đang ở trong một tình trạng nội chiến.
Tất cả đã bắt đầu ngày 19/8/1945.
Những
bài học vẫn còn rất thời sự
Như
chúng ta cùng vừa nhìn lại, ba lý do đã khiến Cách Mạng Tháng 8 diễn ra như nó
đã diễn ra là vào thời điểm đó lòng yêu nước và tinh thần quốc gia của chúng ta
quá yếu, tư tưởng chính trị của chúng ta thiếu vắng và nhân dân Việt Nam không
có chọn lựa nào khác ngoài Đảng Cộng Sản. Chúng ta có thể rút ra những bài học
nào cho tương lai ?
Trước
hết chúng ta cần thực thà nhìn nhận rằng lòng yêu nước và tinh thần quôc gia,
hay tinh thần trách nhiệm với đất nước, là điều chúng ta phải tạo ra, củng cố
và tăng cường chứ chưa phải là điều đã sẵn có để có thể sử dụng và lạm dụng. Một
dân tộc sau một cuộc nội chiến, dù chỉ một vài năm, chỉ có hai chọn lựa. Một là
hòa giải dân tộc để đất nước tiếp tục, hai là không hòa giải và chấp nhận tan vỡ.
Như thế chúng ta phải đồng ý với nhau rằng cuộc đấu tranh cho dân chủ hiện nay
và mọi chính sách của chính quyền dân chủ sau này phải đặt nền tảng trên tinh
thần hòa giải và hòa hợp dân tộc một cách thành thực, quả quyết và trọn vẹn.
Tư
tưởng chính trị thiếu vắng vào giai đoạn Cách Mạng Tháng 8 đã khiến chúng ta
trôi dạt vào thảm kịch bởi vì một quốc gia không có tư tưởng chính trị không
khác một con tầu đi biển không có la bàn, không đụng vào đá ngầm này thì cũng
đâm vào một băng đảo khác. Tai họa là chắc chắn. Chúng ta cần chấm dứt tức khắc
và dứt khoát thái độ vô lễ với kiến thức để đầu tư một cách nghiêm túc vào tư
tưởng và kiến thức chính trị. Mọi hợp tác phải được quyết định trước hết theo
tiêu chuẩn này. Phải dứt khoát tẩy chay sự nông cạn và hời hợt, nhất là khi nó
đi đôi với sự tự mãn.
Và
tại sao không có một lực lượng chính trị đáng kể nào trước mặt Đảng Cộng Sản
vào thời điểm 1945 ? Đó là vì một tổ chức đấu tranh chính trị đúng nghĩa chỉ có
thể là thành quả của một cố gắng xây dựng bền bỉ trong nhiều năm, bắt đầu bằng
một đội ngũ nòng cốt, đặt nền tảng trên một tư tưởng chính trị lành mạnh và một
dự án chính trị vừa nghiêm túc vừa khả thi.
Chúng
ta cần khẩn cấp rút ra những bài học vẫn còn rất thời sự này.
Nguyễn
Gia Kiểng
(19/08/2018)
No comments:
Post a Comment