Tôn Thất Sang
Cali, ngày 22 tháng 3 năm 1991
Kính
dâng hương hồn các vị Giáo Sư Đức Quốc:
Giáo
Sư Gunther Krainick và Phu Nhân:
-Thạc
sĩ Y Khoa Đại Học Greifswald 1943
-Thạc
sĩ Y Khoa Đại Học Freiburg 1951
-Giáo
Sư Nhi Khoa Đại Học Freiburg 1954
-Giáo
Sư Nhi Khoa Đại Học Y Khoa Huế...
Giáo
Sư Raymund Discher:
-Giáo
Sư Bệnh Lý Nội Thương Đại Học Y Khoa Huế
-Trưởng
Khu Bệnh Lý Nội Thương Đại Học Y Khoa Huế
Bác
Sĩ Alterkoster:
-Phụ
Tá Giáo Sư Bệnh Lý Nội Thương
-Bác
Sĩ thường trú khu Truyền Nhiểm
...là
những vị đã đóng góp công lao và tâm trí rất nhiều vào việc khai sáng Đại Học Y
Khoa Huế...
Những
vị, với lương tâm chức nghiệp cao quí và lòng vị tha vô bờ đối với bệnh nhân,
đã mãi là gương sáng của chúng tôi.
Những
vị đã bỏ mình nơi quê người vì tâm hồn bác ái và tình nhân loại (Tết Mậu Thân
1968)
Lần
giở những trang trân trọng đầu tiên của cuốn luận án Y Khoa; nhìn tên, tước vị
của các Giáo Sư người Đức, bỗng nhiên tôi thấy lòng bồi hồi dâng lên niềm đau
xót vô vàn với những tiếc nuối khôn nguôi. Những thương yêu, kính mến, với biết
bao kỷ niệm và lòng tri ân với các vị; đã vì thiện tâm, chấp nhận hy sinh, xa
gia đình, xa bạn bè, xa tổ quốc thân yêu, để đem sở học và nguyện ước của mình,
đi truyền rao để khai hóa tận một xứ sở kém mở mang, xa xôi hẻo lánh, đầy dẫy
hiểm nguy, ở tận bên kia bờ Đại Dương. Ước nguyện của quí vị thật dễ thương và
hiền hòa là làm sao tạo dựng những bác sĩ Y Khoa tài năng, để đem sở học phục vụ
bệnh nhân, phục vụ con người, phục vụ Y đạo ở ngay xứ sở họ.
Thế
nhưng, những hy sinh cao quí, từ những con người nhân ái đó, đã bị trả một giá
quá đắt - bằng chính mạng sống của họ - bởi một chính quyền gọi là phát xuất từ
nhân dân, vì hạnh phúc của nhân dân “chính quyền Cộng Sản”; đã lạnh lùng ra lệnh
thủ tiêu họ, không chút tiết thương, trong biến động do chúng gây ra, cái gọi
là “Mặt trận Toàn dân nổi dậy tổng công kích”vào cố đô Huế; trong dịp hưu chiến
Tết Mậu Thân!?
Hạ
tuần tháng 4, năm 1968.
Khoảng
gần hai tháng, sau Tết Mậu Thân, cố đô Huế đã được quân lực VNCH tái chiếm (25
tháng 2 – 1968 dựng lại cờ tại kỳ đài chính của cố đô Huế; VC khai hỏa trong
đêm Giao Thừa 29-1-68)
Huế,
sau những ngày bị bọn quỉ đỏ tràn ngập, đã nhuộm máu đào và nước mắt!
Không
có phường nào, xã nào, không có xóm nào, không có gia đình nào, là không có người
thân ngã gục, cha xa con, vợ mất chồng hoặc bằng viên đạn, hoặc bằng con dao,
hoặc bằng cán cuốc...Có hàng loạt ngưòi bị chôn sống, sau khi bị cột thành từng
“xâu người”, nối kết lại bằng dây dừa, dây điện thoại...
-
Nào Phú Thứ oán khí ngất trời, với tiếng khóc và màu tang phủ trắng cánh đồng!
-
Nào chùa Áo Vàng (Tăng Quang Tự), nào lăng Tự Đức.
-
Nào Trung Học Gia Hội, với hầm chôn tập thể, nơi mà trường học biến thành lò
sát sinh, nơi mà bọn “phản sư diệt tổ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc
Xuân...và Lê Văn Hảo (Chủ Tịch Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hoà Bình tại Huế),
đã triệt để vâng lời bác Hồ dạy: "Trăm năm trồng người” để chôn sống hàng
loạt con người bằng xương bằng thịt với nỗi đau kinh khiếp, rợn người mà oán
khí chất ngất của họ chắc sẽ đời đời theo níu chân bác và gia đình mà đòi nợ xưong
máu!..
-
Nào Khe Đá Mài, Bãi Dâu, Tây Lộc..., mà mỗi địa danh là một âm vang của loài quỉ
đỏ!!
Huế
tang thương lầy lội
Huế
rách như xơ mướp!
Huế
tiêu điều với tường xiêu, mái đổ
Huế
với thép gai giăng mắc
Huế
như mặt kẻ bị đậu mùa!!
Huế
với B40, với AK47, với CKC báng đỏ,
Huế
đầy nước mắt với khăn tang,
Máu
đỏ tanh hôi chảy ngập đàng,
Hoa
cúc, mai vàng sau chẳng thấy?
Chỉ
còn hoang lạnh với ly tan?!!
Trong
cái cảnh hổn mang ấy, tôi đi giữa kinh thành Huế tang thương, đổ vỡ, lạc lỏng,
bơ vơ, không định hướng như bị mộng du. Tôi đi mà lòng ngậm ngùi thương tiếc
như lạc mất người yêu xưa! Tôi đi, nhìn, nghe, phân vân, bồng bềnh như trong
cơn ác mộng!
Mậu
Thân 1968: "Huế đầy nước mắt với khăn tang"
Bỗng
tôi hoảng hồn vì tiếng Vespa rít lên bên cạnh, đồng thời với cái vỗ vai làm tôi
giật bắn người:
-Đã
biết tin gì chưa?
Tôi
định thần nhìn lại, thì ra Đặng Ngọc Hồ, tôi hỏi.
-Tin
gì mà có vẻ gấp rút thế?
-Tìm
thấy xác của các thầy Krainick, Discher, Alterkoster và cả xác bà Krainick nữa!
-Trời
ơi, có chắc không, ở đâu?
-Nghe
đâu gần chuà Tường Vân, phía trên giốc Nam Giao. Rồi Hồ nói luôn:
-Ban
đầu dân họ tưởng Mỹ, họ báo với tiểu khu. Tiểu khu liên lạc với Lãnh sự Mỹ, thì
biết Mỹ tuy có thiệt hại khá nhiều, nhưng không có mất tích. Sau liên lạc với
viện Đại Học mình và với Lãnh Sự Quán Tây Đức thì biết Đức bị mất tích 4 công
dân: 3 nam và 1 nữ. Bây giờ thì trùng khớp.
Tôi
chưa kịp đình thần, thì trong tiếng còi inh ỏi, đã trông thấy Bùi Hửu Út xuất
hiện như một cơn lốc trên chiếc xe gắn máy, lạng và thắng nhanh như chớp! Tôi
và Hồ vừa vội vàng nhảy tránh cú lạng vừa nói cho Út biết...Đằng xa lại thấy Lê
Đình Thiềng, chở Nguyễn Quang trờ tới...
Bọn
tôi, vội vàng làm cuộc họp “bỏ túi” trên lề đường Trần Hưng Đạo, gần chi Thông
Tin ở chân múi cầu Trường Tiền, bay giờ đã gãy một nhịp – vết ô nhục do đoàn
cán binh Bắc Việt để lại, khắc một vết nhơ sâu đậm trong lòng người dân xứ Huế.
Khi
đó vào khoảng mười giờ sáng, cái lạnh của những ngày đầu Xuân len lén như dao cắt
vào da thịt, lại thêm cái nắng quái của ngày Xuân, sao hôm nay lại khác thường,
nó nhợt nhạt, vàng vàng, tai tái như da của một xác chết. Nó như bàn bạc mùi tử
khí của một thành phố đang ung mủ, đã có lắm người chết oan khiên uất hận;
chúng tôi chợt nghĩ đến các thầy và thương quá là thương.
Tôi
đề nghị anh Hồ qua tiểu khu hỏi lại tình hình an ninh vùng đó đã ổn chưa; Còn
chúng tôi, lên xe, chở nhau, nhắm vùng Nam Giao trực chỉ.
Một
hồi sau, Tiểu Khu cho một tiểu đội, trên chiếc xe Dodge, với vũ khí đầy đủ đi mở
đường, nhắm hướng vùng chùa Tường Vân. Anh Thiếu úy bảo bọn tôi ngồi chờ ở ngã
ba đường Nam Giao, ngả rẻ vào chùa Tưòng Vân để chờ họ báo tin. Khoảng nữa giờ
sau, viên sĩ quan trở lại bảo tình hình an ninh an toàn, ụ không có mìn bẩy và
hiện tiểu đội ông vẫn bám sát địa hình.
Đột
nhiên ông buồn bã, ngậm ngùi nói:
-Quân tôi, cùng một số
dân trong xóm, đang đào đất, thấy nhô lên bốn đầu tóc, trong đó có một đầu tóc
màu bạch kim, thật tội nghiệp quá!
Bọn
tôi nhìn nhau thở dài:
-Chắc là thầy Discher
rồi!
Mái
tóc màu bạch kim, hơi dợn sóng của người thầy tài ba thưong mến học trò, xem học
trò như con, không ngừng ám ảnh tâm hồn chúng tôi đến xót xa.
Bọn
tôi cám ơn viên Sĩ Quan và tất cả lên xe, nhắm hướng chùa Tường Vân trực chỉ.
Chùa
Tưòng Vân nằm về hưóng tây nam núi Ngự Bình (hưóng Nam Giao, từ phố đi lên), đi
quá chùa Sư Nữ một quảng xa thì rẽ phải, con đừờng mòn đất đỏ, thoai thoải dốc
với nhiều ổ gà và nhiều bụi rậm.
Ngôi
chùa với mái rêu phong, cỗ kính, chung quanh sân rộng là những ngọn trúc la đà.
Ở giữa là ngọn giả sơn Ngư Tiều Canh Độc. Xa xa, về phía dưói ruộng là hàng tre
bao phủ, xanh ngắt một màu, xen kẻ mấy cây lồ ô, thân vàng có sọc xanh, dịu
dàng lay động trứoc gió. Cảnh chùa tuy đẹp, nhưng bọn tôi không còn lòng dạ nào
thưởng ngoạn khung cảnh nên thơ! Vừa xuống xe tại sân chùa, đã nghe tiếng cuốc
xẻn và thấy vài người dân địa phưong tụm năm tụm ba, cùng một vài anh em quân
nhân đang xúm xít đào bới tận bờ hào tre, cách sân chùa khoảng 200 mét. Bọn tôi
vội vàng chạy lại:
-Tội quá
các anh ôi, 3 ông, 1 bà. Tất cả đều bị bắn giống nhau. Tụi VC thật quá dã man,
côn đồ! tiếng một quân nhân phát biểu.
"... Trong chiếc
hầm chật hẹp đó, 4 ngưòi ngoại quốc đều bị trói thúc ké, hai tay bị bẻ quặc ra
sau lưng, bị siết chặc bằng giây điện thoại truyền tin..."
Tôi
vội vàng nhìn theo tay anh chỉ, thấy ba quân nhân đang cùng một vài ngưòi dân,
tay cuốc, tay xẽng, nhẹ nhàng xúc đất và cát lên từ một chiếc hầm đào vội; bề
dài khoảng 3.0m, bề ngang khoảng 1.0m và bề cao khoảng 1.0m, vừa đủ cho thế quì
thẳng đứng của một ngưòi ngoại quốc! Trong chiếc hầm chật hẹp đó, 4 ngưòi ngoại
quốc đều bị trói thúc ké, hai tay bị bẻ quặc ra sau lưng, bị siết chặc bằng
giây điện thoại truyền tin. Nhìn mặt họ đều bị biến đổi. Thái dưong trái là lỗ
đạn vào, thái dưong phải là lỗ đạn ra, nên bị phá ra toang hoát; mắt lồi hẳn ra
ngoài! Đưòng đi ngọt xớt của viên dạn do chính kẻ luôn luôn rêu rao lấy lưọng
khoan hồng và nhân đạo làm nền tảng để xử thế, đã làm méo mó, biến dạng những
khuôn mặt hiền hoà của các vị thầy chúng ta. Các Thầy đã “được giải phóng” bởi
cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Bắc Bộ Phủ!! Chúng đã đang tâm đi
“giải phóng” những con ngưòi chỉ biết đem tình thương và lòng nhân ái ra cứu chữa
cho mọi ngưòi bệnh tật, nghèo đói..
Sau
đó, chúng tôi cùng nhau, ngươi một tay phụ giúp anh em chuyển xác quí thầy lên
xe của tiểu khu và đưa vào nhà xác của Bệnh Viện Trung Ương Huế.
"...
Các Thầy đã “được giải phóng” bởi cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của Bắc
Bộ Phủ!!!..."
Cả
thành phố Huế xôn xao, cả bệnh viện xôn xao! Nhiều ngưòi đã khóc nức nở. Có nhiều
tiếng khóc thầm lặng ở khu nội thưong, phòng cấp cứu, khu truyền nhiểm, khu nhi
đồng…..
-Ôi, còn đâu nữa vị Bác Sĩ trưỏng đoàn,
luống tuổi, hồn nhiên, thưong yêu sinh viên, đã luôn luôn tận tụy trong bài giảng,
trong lâm sàn, suốt đêm ngày khám bệnh ở khu Nhi Đồng. Thân mật với sinh viên,
vui đùa, xem như con; chúng tôi thưòng gọi ông là Bon Papa.
Có
lần, trong khi chuông reo, chờ giáo sư đổi giờ vào giảng, chúng tôi thuờng nghịch
ngợm “câu giờ”; mặc dầu chuông reo, nhưng chưa chịu vào lớp. Tôi cùng Lê văn Mộ,
Trần Xuân Thắng, Hoàng Thế Định…đứng cheo leo trên mép thành cửa sổ lầu hai,
nói chuyện phiếm. Ông đi lại nhắc nhở:
-C’est
l’heure!
Chúng
tôi giả bộ không nghe, ông vội trờ tới, nheo mắt, lo lắng mĩm cưòi nói:
-N’avez
vous pas peur de tomber du ciel?
Tôi
làm bộ sắp rơi từ cửa sổ đáp:
-Si,
mais je veux voler dans le ciel plein de beaux nuages, mon bon papa.
Ô ng
vội vàng chạy lại, hai tay nhẹ nhàng nhất bỗng tôi lên, đặt xuống sàn nhà, hào
hển nói:
-Oh,
Il faut faire attention, mon pauvre enfant!
Bọn
chúng tôi cười sảng khoái vì câu đựoc giờ, ù chạy vào phòng học. Bon Papa mệt
nhọc theo sau!
Còn
đâu những kỷ niệm êm đềm bên ngưòi Thầy yêu quí, ngưòi đã đem hết cuộc đời tận
tuỵ để phụng sự khoa học. Lẽ ra Thầy phải về nước dưõng bệnh một thời gian, sau
khi bị cơn bệnh “Japanese Encephalitis” vật vã một thời, tưỏng như gần “đi đứt”.
Tuy nhien ông đã ở lại vào dịp Tết Mậu Thân nghiệt ngả và bọn quỉ đỏ đã bắt Thầy
cùng vị phu nhân can đảm, yêu thưong chồng, xin được đi theo để chăm sóc chồng
cho đến ngày cuối cuộc đời thì Bà cũng bị xử bắn luôn!
Xin
vĩnh biệt thầy cùng phu nhân. Nguyện cầu Thầy cùng phu nhân thanh bình trong
cõi vĩnh hằng, ở nơi không còn hận thù, ở nơi mà bọn quỉ đỏ phải lánh xa.
-Ôi, còn
đâu nữa, Bác Sĩ Raymund Discher - ngưòi BS trẻ tuổi, điềm đạm và trầm tĩnh,
vui tính và nhân hậu nhưng nghiêm khắc, ngày đêm ở khu truyền nhiễm, với tương
lai đang rực sáng, Nhớ lại những “Family Party” thầy và cô thỉnh thoảng mở ra,
mời sinh viên một vài lớp đến dự trong căn apartment nhỏ ấm cúng, bên bờ sông Bến
Ngự. Thầy và cô hạnh phúc bên nhau như đôi vợ chồng mới cưói, thức ăn nhẹ, ruợu
chát đỏ, vừa chuyện trò với đám sinh viên và nghe những tấu khúc bất hủ của
Mozart trong không gian của buổi chiều đang tắt nắng, chỉ còn lại ánh đèn vàng
của gian phòng ấm cúng.. Hạnh phúc của thầy cô bình yên và miên viễn đến chừng
nào.
Tuy
nhiên định mệnh năm Mậu Thân đã khắc nghiệt cướp đi mạng sống của người chồng
tài hoa. Thầy vừa mới đưa vợ về nước, và đáng lẽ thầy còn được nghỉ, mọi ngưòi
đều khuyên nên ở lại, nói tình hình ngoài Huế không an ninh, nhưng thầy lại tìm
đủ mọi cách ra Huế để giảng dạy sinh viên cho kịp thời khoá biểu riêng mà thầy
đã lập sẳn!
Bọn
quỉ đỏ đã nhẫn tâm hành quyết thầy bằng viên đạn xuyên thái dương đầy thù hận!
Nguyện
cầu linh hồn Bác Sĩ Raymund Discher sẽ mãi mãi bình yên ở chốn vĩnh hằng.
-Ôi, còn đâu nữa Bác
Sĩ Alterkoster,
ngưòi Bác Sỉ trẻ tuổi, đẹp trai, tận tâm ở khu truyền nhiễm. Alterkoster với bộ
râu quai nón đầy vẻ giang hồ của một tay hải tặc khí phách “Le Viking”, đôi mắt
xanh biếc ánh lên nét thông minh và nhân từ; nhìn chung rất lôi cuốn và nhất định
phải là một “good guy”. Alterkoster rất thân mật và hoà đồng với sinh viên, ông
thưòng rũ sinh viên lên Kim Long, Thiên Mụ ăn chè, ăn bánh bèo ..Tướng ông rất
tốt, xem qua không thể chết yểu được, ngờ đâu lại bại dưới tay “sát thủ” của đảng
và bác!
Nguyện
cầu BS. Alterkoster sẽ mãi mãi ở nơi chốn Thiên Đàng.
Tối
hôm đó, chúng tôi, hầu như tất cả các sinh viên Y khoa còn tại Huế, đều tề tựu
đến bệnh viện trung ưong. Từ Đại Học Xá Nam Giao, trung tâm Xavier, trường Nữ Hộ
Sinh Quốc Gia, Cán Sự Y Tế... các bạn ở mọi nơi trong thành phố, lần lượt biết
tin, tập trung tại phòng trực bệnh viện để phân chia công việc và trực xác quí
thầy, đang tạm quàng tại nhà xác bệnh viện.
Mờ
sáng hôm sau, quan tài quí thầy được đưa lên quàn tại Toà Viện Trưỏng Viện Đại
Học Huế.
Sinh
viên Y khoa chúng tôi, quần sẩm, áo chemise trắng dài tay, cravat đen; nghiêm
trang vòng tay đứng thành hai hàng, trực bên quan tài quí thầy. Những tràng hoa
phúng điếu rải rác của các Toà Lãnh Sự, các Trưòng, các Hội Đoàn, Đoàn Thể, các
Phân Khoa bạn...
hầy
Cô và Sinh Viên Y Khoa Huế bên cạnh bia tưởng niệm các GS, BS đã bị thảm sát
trong biến cố Mậu Thân 1968
Đức
Tổng Giám Mục Địa Phận Huế – Nguyễn Kim Điền – chủ tế.
Không
khí lắng đọng, cảm xúc và trang nghiêm. Mắt mọi ngưòi đều rưng rưng, tiếng máy
quay phim đều đều, âm thanh trầm buồn như lời nguyện cầu. Đột nhiên, có tiếng
thổn thức ở phía cửa chính, mọi ngưòi xôn xao nhìn ra; nhiều ống kính hưóng
theo, ánh sáng máy ảnh lập loè: Một thiếu nữ, trong bộ đồ đen tuyền, khăn tang
trắng bịt ngang đầu, nức nở lão đảo tiến vào; hai tay ôm chặc vòng hoa tím –
Couronne Mortuaire – kết cườm đen có đính dãi băng màu tím với giòng chữ trắng
“To You With All My Sacred And Humble Love” Đức Tổng Giám Mục lặng lẽ nhìn, nét
mặt ngài dịu đi. Mọi ngưòi xúc động bàng hoàng cùng với nhiều tiếng nức nở. Ai
đây? Ngưòi thiếu nữ nhẹ đặt vòng hoa trước linh cữu của BS. Alterkoster rồi phủ
phục xuống, ôm quan tài khóc nức nở!
Mắt
tôi mờ đi, cảm xúc đến lặng ngưòi; nhìn người thiếu nữ, không còn trẻ lắm, với
nét thuỳ mị, đoan trang và kín đáo, kín đáo như trong tình yêu thiêng liêng của
chị, thắm thiết và buồn như màu tím của vành Couronne mortuaire. Những giọt nước
mắt xót thương chị đang gởi cho ngưòi mình yêu vừa ngã gục trên mãnh đất của
quê hương nầy. Máu đào của anh, vô tình đã tô thắm lên quê hưong Việt Nam mến
yêu của chị!
Tình
yêu của hai người kín đáo và thầm lặng như giòng sông xứ Huế, rất ít người được
biết.
Ở
đây, tôi xin phép chị Thảo – vâng, người ấy chính là chị – cho tôi viết ra điều;
phải chăng đó là những kỹ niệm cao quí nhất và thiêng liêng nhất của cả cuộc đời
chị; mà tôi tin rằng, nếu mọi người biết đến, cũng sẽ làm tâm hồn họ thăng hoa,
bâng khuâng và xúc động, như khi họ khám phá ra một khu vườn hoa đầy hương sắc,
kỳ bí, mong manh, dễ vở. Họ sẽ ngạc nhiên thích thú và trân trọng giữ gìn...
(Chị
là chuyên viên phòng thí nghiệm trường Y, nhưng chị thường lên thư viện để tìm
sách đọc nghiên cứu, và trò chuyện cùng chị Hưòng nên nhiều người cứ tưởng chị
là quản thủ thư viện - là chị Hường).
Sáng
hôm sau, hai chiếc máy bay màu trắng bạc “Air America”đưa bốn quan tài vào phi
trường Tân Sơn Nhất. Ở đó, ngoài phái đoàn Đại Học Y Khoa Huế, còn có phái đoàn
của sinh viên Đại Học Y Khoa Saigon chờ đón với vòng hoa phân ưu và biểu ngữ
lên án bọn quỉ đỏ đã ra tay thảm sát những người làm công việc y tế,
chỉ biết phụng sự khoa học, phụng sự nhân loại.
(**)
Linh cữu của bốn vị được đưa ra phi cơ về cố quốc trên chiếc xe có bốn ngựa
kéo, theo sau là 250 sinh viên Y Khoa Huế và Saigon, đội đưa tang và đội quân
danh dự của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sinh viên cầm biểu ngữ nói lên lòng biết
ơn công lao của quí vị...
Bia tưởng niệm các GS,
BS Krainick, Raymund Disher và ALois Altekoester như trong hình đã bị đập và vất
xuống hồ rau muống nằm giữa trường Y Khoa Huế và trường Cán sự Điều dưỡng sau
ngày đất nước thống nhất. "Qúy Thầy đã bị chôn hai lần (1968 và 1975),
nhưng mãi mãi tập thể Y Khoa Huế không bao giờ quên ơn của qúy Thầy đã góp công
xây dựng trường, đào tạo những Bác Sĩ tài năng và đã hy sinh đời mình cho lý tưởng
phụng sự Y đạo ngay trên quê hương chúng tôi."
Một
biểu ngữ ghi “Đại Học Huế không quên các giáo sư người Đức”. Trước khi linh cữu
được đưa lên máy bay, nghi lễ tiễn biệt diễn ra thật cảm động. Ông Trân, thứ
trưởng bộ giáo dục và kỹ thuật phát biểu:
"Bao nhiêu năm, tôi đã từng tham dự nhiều buổi lễ ghi nhớ các anh hùng hy
sinh cho tổ quốc, nhưng chưa bao giờ cảm động như hôm nay, khi tiễn biệt những
người Bác Sĩ dân sự này đã chết cho lý tưởng cao cả vì tha nhân và nhân loại. "
(**)
Trích “Cái chết của Bác Sĩ Krainick” của Elje Vannema, trang 98 – 99 (Cuốn Thảm
sát Mậu Thân ở Huế)
Máy
bay rời phi đạo, cất cánh lên cao dần và mất hút, mọi người vẫy tay tiễn biệt lần
cuối, ánh mắt đỏ hoe, mờ lệ...
Vĩnh biệt từ nay bóng dáng thầy
Tình sư nghĩa phụ sáng trời mây
Thương người viễn xứ thân tan nát
Lưu lại danh thơm với tháng ngày!
Tôn Thất Sang
Cali, ngày 22 tháng 3 năm 1991
No comments:
Post a Comment