Ngô
Thế Vinh
(Gửi
Nhóm Bạn Cửu Long)
12/02/2018
https://www.voatiengviet.com/a/song-me-kong-uy-hoi-ngo-the-vinh-dong-bang-song-cuu-long/4249106.html
Water,
water, every where,
Nor
any drop to drink.
Samuel
Taylor Coleridge [1772-1834]
Thế
kỷ 21 của tỵ nạn môi sinh, đã có 2 triệu người
phải
rời bỏ quê hương ĐBSCL ra đi tìm kế sinh nhai
Hình ảnh một dòng sông
đang chết dần; cũng để hiểu tại sao đã có 2 triệu người phải rời bỏ quê hương
ĐBSCL đi tìm kế sinh nhai; từ phải: TS Lê Anh Tuấn, Th.S Nguyễn Hữu Thiện.
[photo by Ngô Thế Vinh]
XỨ SỞ CÂY THỐT NỐT VÀ
NGƯỜI KHMER HIỀN HÒA
Tới
An Giang, tới hai quận Tân Biên và Tri Tôn không thể không thấy hàng cây thốt
nốt nổi bật trên những cánh đồng lúa xanh. Cây thốt nốt thuộc họ cau, tên khoa
học Borassus flabellifer, có nhiều ở các nước Đông Nam Á. Cây thốt nốt sống cả
trăm năm dài hơn tuổi thọ một đời người. Thân cây thẳng và cao tới 30 mét. Cây
đực không trái, cây cái cho tới 60 trái mỗi cây. Trái thốt nốt có vỏ xanh đen,
nhỏ hơn trái dừa bên trong có những múi trắng mềm, ngọt và mát. Hoa cây thốt
nốt cho nước ngọt có vị thơm, có thể nấu thành đường, ngon hơn đường mía. Nếu
Quảng Ngãi, quê Hương Nghiêu Đề bạn tôi, từng nổi tiếng về đường phổi, đường
phèn thì An Giang, vùng Tịnh Biên Tri Tôn nổi tiếng với đường thốt nốt. Chè đậu
xanh nấu với đường thốt nốt ngọt dịu và rất thơm ngon. Hình như tất cả mọi
thành phần cây thốt nốt đều có công dụng: thân làm cột nhà, lá dùng lợp mái.
Trong nền văn hóa cổ Khmer, các Chùa chiền còn lưu giữ được những văn bản viết
trên lá cây thốt nốt. Cây thốt nốt cũng được xem như biểu tượng của xứ Chùa
Tháp. [Hình 2]
Hàng cây thốt nốt
đứng soi bóng bên hồ nơi khu đền đài Angkor; cây thốt nốt được xem như biểu
tượng của xứ Chùa Tháp. [tư liệu Ngô Thế Vinh]
Khắp
xứ Chùa Tháp xuống tới Đồng Bằng Sông Cửu Long, đi đâu cũng chỉ gặp những người
dân Khmer hiền hòa, và rồi không thể nào hiểu được những gì đã xảy ra giữa họ
và những người Việt trong quá khứ. Chỉ có thể giải thích họ là một đám đông nạn
nhân của những khích động thù hận mà động cơ là những mưu đồ chánh trị đen tối.
Trong
y khoa, khi khảo sát não trạng vô thức của đám đông, qua nghiên cứu hành vi/
behavior của loài cá, khoa học gia Đức đã làm một thử nghiệm: thả một con cá bị
hủy não bộ vào một hồ cá, không có gì ngạc nhiên là con cá ấy mất định hướng
bơi tán loạn, nhưng điều kỳ lạ là đàn cá lành mạnh thì lại ngoan ngoãn bơi theo
con cá mất não ấy. Phải chăng "thử nghiệm hành vi" của
nhà khoa học Đức, đã phần nào giải thích hiện tượng cả một dân tộc Đức văn minh
đã có một thời kỳ nhất loạt tuân theo một lãnh tụ như Hitler xô đẩy cả thế giới
vào lò lửa của cuộc Thế chiến thứ Hai.
Từ trên xuống: hàng
cây thốt nốt huyện Tri Tôn tỉnh An Giang; bà Ngoại ngồi chặt đống trái cây thốt
nốt; con gái Ngoại thì đang gỡ những múi thốt nốt trắng mềm để mời khách, đây
là quán Thốt Nốt Võng cho khách đường xa ghé uống ly nước thốt nốt mát và tạm
Từ trên xuống: Được
ăn những chiếc bắp nóng trên đường đi, phải, vựa dứa thơm ngon nổi tiếng quận
Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng, từ trái: TS Dương Văn Ni, Ngô Thế Vinh, TS Lê Phát
Quới. [photo by Ngô Thế Vinh, Nguyễn Văn Hưng]
Cùng bác nông dân với
bài học đập lúa đầu tiên trên ĐBSCL, kết quả người viết bị đánh rớt /
disqualified ngay, vì đập không hết hạt và lúa thì vương vãi ra tứ tung, học
làm nông dân khổ và khó lắm. [photo by Nguyễn Văn Hưng]
Từ trên xuống: Từ
ruộng hành xã Vĩnh Hải huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng những thố hành tím được
chất thành ngọn lên xe tải để phân phối tới các chợ; phải: TS Lê Anh Tuấn đứng
bên túi trữ nước ngọt lấy từ giếng bơm, anh Lê Anh Tuấn cũng cho biết: 100% nước
CÓ MỘT NỀN VĂN HÓA
NƯỚC LỢ
Trên đường dọc theo Sông Hậu, xe dừng lại Hộ Phòng là một phường của thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Xuống xe đi bộ lên chiếc cầu xi măng có tên Hộ Phòng 2, bắc qua con kênh lớn Gành Hào [được xây từ năm 2011 do quỹ ODA/ Official Development Assistance của Nhật].
Bấy
lâu, các chuyên gia Bộ Nông nghiệp từ ngoài Bắc vào vẫn có cái nhìn rất giản
đơn về hệ sinh thái sông nước Cửu Long: họ chỉ thấy có triều cường và triều
kiệt. Rồi đề xuất kế hoạch làm những cống đập chặn triều cường để ngăn mặn giữ
ngọt. Từ suy nghĩ giản đơn ấy, họ đã và đang gây ra bao nhiêu hệ lụy cho hệ
sinh thái ĐBSCL như hiện nay.
Đoàn
đứng trên cầu phía hướng ra Biển Đông, nơi có cống đập ngăn mặn. Ngoài mặn
trong ngọt. Anh Dương Văn Ni sinh ra và lớn lên từ vùng sông nước Miền Tây, khi
nói về nhịp đập của hệ sinh thái ĐBSCL, anh Ni thông thuộc như với đường chỉ
tay của chính mình; với một giọng thuần Nam Bộ trầm tĩnh bắt đầu một bài giảng:
"ĐBSCL
chỉ nói riêng phía Biển Đông, không đơn giản chỉ có triều cường và triều kiệt.
Hỏi người nông dân thì họ biết rất rõ. Thuỷ triều từ Biển Đông là nhật triều,
sáng và chiều hai lần trong ngày; hai lần nước lớn tiếp theo hai lần nước ròng,
mực nước lên xuống bốn lần trong một ngày. Trong tháng, người nông dân biết
chừng nào thì "nước rong" vào ngày rằm, khi nào "nước kém"
vào cuối tháng âm lịch. Trong năm, thì họ có mùa "nước nổi" và mùa
"nước hạn".
Từ
mấy trăm năm, trải qua bao thế hệ, người nông dân Miền Tây đã quen chung sống
với nhịp đập thiên nhiên ấy của những dòng sông: trong ngày, trong tháng, trong
năm và đã hình thành một nền "văn minh sông nước." Họ
đã quen chung sống với cả ba tình huống: nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Lãnh
đạo bộ Nông nghiệp đa số mang theo họ một nền văn hoá từ châu thổ sông Hồng,
biết rất ít về hệ sinh thái ĐBSL vốn rất đặc thù. Với đầu óc duy lý giản đơn,
với những con số thống kê, nhưng họ có biết đâu rằng chuỗi những con số đó
chính là những tín hiệu đã nằm ngay trong nền "văn hoá sông
nước" mà người nông dân từ đời này sang đời nọ vẫn đọc được.
Người nông dân bấy lâu đã biết nương theo sức mạnh của thiên nhiên để chung
sống. Văn hoá sông nước thực ra gồm bốn phần tương tác Sông-Biển-Châu
thổ-Con người cùng hòa nhập nhau theo từng nhịp đập.
Một
ví dụ, chỉ riêng chuyện di chuyển ghe thuyền trên sông, người nông dân biết
tính trước khi nào thì cho ghe xuôi theo con "nước ròng",
khi nào thì ghe ngược theo con "nước lớn", và cũng để
thấy cấu trúc của lòng ghe bấy lâu là làm sao dùng sức đẩy tối ưu của dòng
chảy.
Và
rồi trong tháng họ biết lúc nào thì cho nước vào ruộng, khi nào thì xả, khi nào
thì thả con giống cá tôm... mà không cần tốn nhiều công sức, để phải dùng gầu
tát nước hay phải dùng tới máy bơm.
Chính
nhịp đập của "mẹ thiên nhiên / natural pulse" là bạn
đồng hành thân thiết bấy lâu của họ. Và nay thì bị phá vỡ và cắt đứt một cách
thô bạo.
Cũng
từ bao trăm năm, nông dân ĐBSCL biết rất rõ là sông rạch nối liền với biển, có
thủy triều lên nên mới có được con nước lớn, và thủy triều xuống mới có con
nước ròng, và cũng nhờ đó mà sông rạch được làm sạch, có cá tôm và đã hình
thành cả một nền văn hóa sông nước.
Chúng
tôi cùng hiểu rằng: với cống đập kia, con sông bị cắt làm hai: chỉ còn một bên
ngọt, một bên mặn, mất hẳn một vùng nước lợ / blackish. Bên trong không còn
nước lớn, nước ròng mà sông biến thành hồ tù đọng, tích lũy đủ mọi loại ô
nhiễm, và không còn cá tôm. Bên ngoài, hệ sinh thái ven biển cũng bị nghèo đi
và nông ngư dân cho biết, từ ngày có cống đập không còn đâu nguồn tôm cá phong
phú của cả một vùng nước lợ. Đó là chưa nói tới tình trạng gián đoạn giao thông
trên sông.
Rồi
anh Ni đưa ra một ví dụ rất tượng hình: "Cũng giống như khai quật
được một kho tàng cổ sử, người không chuyên môn thì chỉ thấy được đó là những
mảnh đá mảnh sành, cùng lắm là thấy thêm được mấy nét vẽ ngoằn ngoèo vô nghĩa
trên đó, nhưng với con mắt của nhà khảo cổ thì khác, đó là dấu vết và tín hiệu
của cả một nền văn minh."
Và tôi cũng hiểu rằng, bấy lâu với các
chuyên gia nông nghiệp từ ngoài Bắc vào, chưa từng chung sống và chết với nền
văn minh sông nước ấy, họ đã có những chánh sách can thiệp thô bạo chống lại mẹ
thiên nhiên để phải trả giá rất đắt và nạn nhân không ai khác hơn là chính ngót
20 triệu cư dân phải ngày đêm sống với những bất cập ấy như hiện nay.
Từ trên xuống: Cầu Hộ
Phòng II là cây cầu mới trên khúc đường vòng/ detour, (do quỹ ODA / Official
Development Assistance của Nhật xây 2011, còn Hộ Phòng I là cây cầu cũ thì nằm
trên đường thẳng của Quốc lộ). Đứng trên hướng ra Biển Đông TS Dương Văn Ni đ
CÔNG TRÌNH CỐNG ĐẬP
BA LAI: MỘT HỐI TIẾC
Hai
Mươi Năm qua 1997-2017, lãnh đạo Bộ Nông Nghiệp, qua nhiệm kỳ của 3 bộ trưởng:
1.
Lê Huy Ngọ, nhiệm kỳ 7 năm, 1997-2004
2.
Cao Đức Phát, nhiệm kỳ 12 năm, 2004-2016
3.
Nguyễn Xuân Cường, nhiệm kỳ 2016 đương nhiệm
Họ
đến từ miền Bắc đã và đang có những quyết định phải nói là sinh tử với hệ sinh
thái ĐBSCL, một vùng thổ nhưỡng phải nói là rất xa lạ với họ.
Chỉ
thấy đơn giản nơi ĐBSCL có triều cường triều kiệt, coi nước mặn là kẻ thù nên
đã có một chiến lược ồ ạt xây những đại công trình mà người ta gọi là Cống Đập
Ngăn Mặn, mà Cống đập Ba Lai là một điển hình.
Được
khởi công ngày 27.02.2000, dự án công trình cống đập Ba Lai chắn ngang cửa sông
Ba Lai từ xã Thạnh Trị kéo sang xã Tân Xuân (Ba Tri). Kinh phí ban đầu lên tới
hơn 66 tỷ đồng VN. Con đập dài 544 m gồm 10 cửa với khẩu độ 84 m được vận hành
bằng một hệ thống van tự động hai chiều. Quy hoạch trên lý thuyết, thì cống đập
Ba Lai có chức năng: ngăn mặn, giữ ngọt phục vụ cho 115,000 hecta đất trong đó
có 88,500 hecta là đất canh tác, cấp nước ngọt sinh hoạt cho hơn 600 ngàn dân
cư Thành phố Bến Tre và các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Bình Đại, Châu Thành;
cùng kết hợp với phát triển giao thông thuỷ bộ và cải tạo môi trường sinh thái
vùng dự án. [sic]
Hai
năm sau, từ ngày 30.04.2002 cống đập Ba Lai được đưa vào hoạt động, được vinh
danh là một công trình thuỷ lợi lớn nhất của ĐBSCL. Và từ đây, cửa sông Ba Lai,
một trong 9 cửa của Cửu Long chính thức bị ngăn lại.
Từ ngày có cống đập
Ba Lai, cửa sông Ba Lai nhánh thứ 8 bị chính con người đóng lại. Cửa Ba Thắc đã
bị bồi lấp từ cả trăm năm nay, và hiện giờ Cửu Long Giang nay chỉ còn 7 nhánh:
Thất Long. [photo by Lê Quỳnh, báo Người Đô Thị]
Tính
cho tới nay, cống đập Ba Lai đã vận hành được 16 năm [2002-2018], hiệu quả công
trình Cống đập Ba Lai ấy ra sao? Chỉ có những lời ta thán.
Hàng
trăm cống ngăn mặn không đạt mục đích vì còn chằng chịt những cửa sông kinh
rạch không có cống ngăn mặn đã tập hậu nước mặn vào bên sau hệ thống cống đập
đã xây.
Bến Tre nước ngọt
khan hiếm, phải dùng cả xe máy kéo để chở nước, có nơi dân phải mua 100,000
đồng / mét khối nước [photo by Bình Đại, Zing VN 20.02.2016]. Bệnh viện lớn
nhất tỉnh Bến Tre thiếu nước ngọt. mỗi ngày được xe tải cung cấp 10 mét khối
nước ngọt
Sông
Ba Lai ngừng chảy. Thay vì biến sông Ba Lai thành một hồ nước ngọt thì cư dân
Bến Tre phải sống với nước sông Ba Lai mặn hơn trước kia nhất là vào mùa khô.
Hậu quả là tỉnh Bến Tre thiếu nước ngọt, đưa tới tình cảnh bệnh viện lớn nhất
Bến Tre mỗi ngày được xe tải cung cấp 10 mét khối nước ngọt chỉ đủ cho các khoa
phòng chia nhau từng lít nước, còn người dân thì sống trong tình trạng thiếu
nước ngọt kinh niên, phải mua nước ngọt có khi phải trả tới 100,000 đồng VN/
mét khối. [Tuổi Trẻ online 22.02.2016]
Giải
thích của nhà nước về "hiệu quả ngược" của công trình cống đập Ba Lai
như hiện nay là: do thiếu vốn để làm tiếp nhiều công trình khác tiếp theo,
trong đó có hai hạng mục quan trọng, đó là phải xây thêm cống đập và cả âu
thuyền* trên hai con sông Giao Hoà và Chẹt Sậy vẫn tiếp tục đem nước mặn từ
sông Cửa Đại đổ vào "hồ nước ngọt Ba Lai".
*Âu
thuyền /
canal lock: là một từ tương đối mới, chỉ một công trình chắn ngang sông hoặc
kênh, có cửa hai đầu để tăng hoặc giảm mực nước, giúp cho thuyền hay tàu đi qua
nơi có mực nước chênh lệch nhiều.
Theo
phóng viên TTXVN Phan Văn Trí, trích dẫn: "Ông Cao Văn Trọng, Chủ
tịch UBND tỉnh cho biết để thi công hai hạng mục đập và âu thuyền và một số
hạng mục khác cần nguồn vốn khoảng 200 triệu USD. Vì vậy, tỉnh đã kiến nghị
Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tranh thủ nguồn vốn ODA của
Chính phủ Nhật Bản. Ông Trọng cũng cho biết tổ chức JICA (Nhật Bản) đã đến Bến
Tre khảo sát địa điểm xây dựng đập và âu thuyền. Tuy nhiên, việc khởi
công có thể còn phải chờ đến… năm 2020. Dù gì thì hình ảnh những chiếc xe
máy cày hay xe bò kéo chở nước đem đổi cho người dân, với giá từ 70,000 đồng
đến 100.000 đồng/m3, chắc chắn vẫn còn diễn ra trong những mùa khô cho tới
2020. Điều đáng nói là nước đó được lấy từ những chiếc giếng đào trên giồng
cát, chưa qua xử lý…" [2]
Cửu
Long Chín Cửa Hai Dòng nay chỉ còn có 7 cửa. Nam Thất Nữ Cửu, như
hình ảnh một ĐBSCL bị triệt sản. Bởi thế dân gian tỉnh Bến Tre mới có câu:
Ba
Lai là cái cửa mình
Trung ương đem lấp dân tình ngẩn ngơ
Trung ương đem lấp dân tình ngẩn ngơ
Một
câu hỏi được đặt ra: với những tác hại do cống đập Ba Lai gây ra, ai -
Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, hay Bộ Tài Nguyên Môi trường hay
chánh phủ trung ương sẽ nhận trách nhiệm với phong cách "đem
con bỏ chợ" như hiện nay, phải chờ cho tới 2020 cho đến khi ODA
của Nhật chịu rót vốn vào?
Từ
bài học thất bại của đại công trình cống đập Ba Lai, nhiều nhà khoa học và giới
hoạt động môi sinh như một "think tank" đã không
ngừng lên tiếng cảnh giác rằng: nếu không có một đánh giá môi sinh chiến lược
cho toàn ĐBSCL mà chỉ đơn giản nhắm giải quyết tình hình hạn mặn, rồi lập ngay
quy hoạch xây dựng xây một loạt hệ thống cống đập chỉ để ngăn mặn nơi các cửa
sông lớn là phá vỡ cả một hệ sinh thái và hậu quả sẽ khôn lường.
Khảo
sát của nhóm IUCN / International Union for Conservation of Nature Liên minh
Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên tại VN đưa ra nhận định là do hệ thống cống đập
khiến hai bên bờ sông Ba Lai đang khép lại dần.
TS
Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hận, ĐH Cần Thơ đã
dùng một cụm từ rất gợi hình để chỉ hệ thống cống đập Ba Lai khi ông gọi đó
là "dòng sông bị cưỡng bức." Sông nay biến thành hồ
chứa, ô nhiễm thì tích lũy nước đổi màu do rong tảo sinh sôi phía trong cống
đập.
Th.S
Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia về nước ngập/ Wetlands cho rằng hàng năm vào mùa
mưa do lượng nước mùa lũ đổ về, toàn thể phù sa trong lượng nước đó sẽ lắng
xuống đáy sông Ba Lai - nay trở thành hồ và với thời gian sông Ba Lai sẽ chết
hẳn do bị bồi lấp. [1]
Khi
đưa ra cái nhìn toàn cảnh hiện trạng và tương lai ĐBSCL, các anh trong đoàn đưa
ra một cái nhìn tổng quan không mấy lạc quan:
Đất bị mất do sạt lở bờ sông bờ biển,
trong những năm gần đây, đất bị lún với tốc độ 10 lần nhanh hơn so với nước
biển dâng, và đất đai còn lại thì bị vắt kiệt. Sông ngòi ô nhiễm đủ thứ, từ
nước thải sinh hoạt, công nghiệp, thủy sản đổ thẳng vào sông, cũng như lượng
lớn phân bón, thuốc trừ sâu từ nông nghiệp do 3 vụ thâm canh.
Theo
một nghiên cứu về lịch sử đất lún do nhà khoa học Minderhoud và một nhóm chuyên
gia Hà Lan, Hoa Kỳ và Việt Nam thực hiện công bố năm 2017 trên Environmental
Research Letters, độ lún và vận tốc lún tại châu thổ ĐBSCL đã xuống sâu 25
cm và thậm chí đến 50 cm theo biểu đồ KS Phạm Phan Long trích dẫn chú thích và
cung cấp sau đây. [Hình 10]
Biểu đồ độ lún và vận
tốc đất lún trong 25 năm tại Đồng Bằng Sông Cửu Long. [nguồn: Environ.Res.Lett.
12 (2017) với ghi chú của KS Phạm Phan Long, Viet Ecology Foundation]. Hiện
nay, rất nhiều giếng tầng nông và bơm bằng tay đều bị nhiễm mặn nhiễm phèn,
Trong
những thập niên tới, biển dâng được dự đoán với vận tốc 5 cm/năm, như vậy mặt
đất thấp sẽ thấp dần dưới mặt biển có thể đến 1 m trong vòng 100 năm nữa. Trước
tác động kép do sinh hoạt con người và do biến đổi khí hậu, ĐBSCL sẽ rơi vào
tình huống xấu nhất toàn cầu. Một đối sách có
tên “ASR, aquifer storage and reuse” đang được Viet Ecology
Foundation đề bạt thảo luận là lọc và trữ nước ở những túi rỗng ngầm, vừa
ngăn mặn tập kích vào thềm lục địa, vừa có nước ngọt sinh hoạt canh tác và
tránh cho mặt đất tiếp tục lún xuống.
Đã
thế nhiều sông ngòi, bị kế hoạch cống đập đã biến sông rạch thành hồ tù đọng,
tích lũy ô nhiễm. Nước sông ngòi không còn dùng được phải chuyển sang xài toàn
nước ngầm nên tầng nước ngầm cũng cạn kiệt nhanh và đất lún.
Còn
có hiện tượng "tỵ nạn môi sinh/ ecological refugees" của
người dân ĐBSCL rời bỏ quê hương đi tới vùng đất khác, tha phương cầu thực. Con
số gần 2 triệu người đã đi khỏi vùng đất này trong hai thập niên qua thì phải
có những lý do như môi trường sống bị suy thoái, nguồn tài nguyên ngày càng cạn
kiệt.
Thủy
điện thượng nguồn từ Vân Nam Trung Quốc rồi Lào làm mất ngót 90% nguồn phù sa,
không có gì thay thế; biến đổi khí hậu với nước biển dâng có thể phần nào thích
ứng nhưng còn vấn đề phát triển tự huỷ / destructive development do tự
mình gây ra đang là một nan đề lớn do chính sách "duy lý và thiếu tầm nhìn
chiến lược" đến từ trung ương đã gây nhiều tổn thương cho ĐBSCL, gây trở
ngại cho phát triển.
TỪ CỐNG ĐẬP BA LAI
TỚI SÔNG CÁI LỚN - SÔNG CÁI BÉ
Bài học thất bại của công trình thuỷ lợi Ba Lai vẫn còn đó, vậy mà, nguyên bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Cao Đức Phát, một người sinh quán Nam Định từ châu thổ Sông Hồng, vẫn bất chấp mọi lời cảnh báo của giới chuyên gia, vẫn kiêu căng tuyên bố sẽ tập trung đầu tư xây dựng các công trình cống đập lớn đến năm 2020, từ hoàn thiện hệ thống cống đập Ba Lai, và xây dựng thêm các hệ thống cống đập Sông Cái Lớn, Sông Cái Bé [SCL-SCB] tỉnh Kiên Giang, được quảng bá như một công trình của Thế kỷ, với ngân khoản lên tới 3,300 tỷ đồng (150 triệu USD) với hậu quả hay thảm hoạ trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL không biết sẽ trầm trọng tới đâu.
Bài học thất bại của công trình thuỷ lợi Ba Lai vẫn còn đó, vậy mà, nguyên bộ trưởng Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Cao Đức Phát, một người sinh quán Nam Định từ châu thổ Sông Hồng, vẫn bất chấp mọi lời cảnh báo của giới chuyên gia, vẫn kiêu căng tuyên bố sẽ tập trung đầu tư xây dựng các công trình cống đập lớn đến năm 2020, từ hoàn thiện hệ thống cống đập Ba Lai, và xây dựng thêm các hệ thống cống đập Sông Cái Lớn, Sông Cái Bé [SCL-SCB] tỉnh Kiên Giang, được quảng bá như một công trình của Thế kỷ, với ngân khoản lên tới 3,300 tỷ đồng (150 triệu USD) với hậu quả hay thảm hoạ trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL không biết sẽ trầm trọng tới đâu.
Rõ
ràng có những khoảng chống của Dự án Cống đập SCL-SCB và các câu hỏỉ:
1/
Chỉ nghe nói, bản nghiên cứu đánh giá tác động môi trường [ĐTM/ EIA]
về Dự án Cống đập SCL-SCB là do Viện Kỹ Thuật Biển thuộc Viện
Khoa học Thủy lợi miền Nam thực hiện, nhưng không thấy công bố ở đâu
hết, với sự không minh bạch / transparency như vậy thì làm sao có được sự góp
ý của giới chuyên gia.
2/
Dự án SCL-SCB bao giờ khởi công và tình hình tới đâu chỉ diễn ra sau những cánh
cửa Bộ NN & CTNT ngoài ra không có ai được biết tới để có thể theo dõi.
3/
Và cũng là điều vô cùng ngạc nhiên là với gần 2 triệu người di cư ra khỏi
ĐBSCL trong hai chục năm qua, nhưng vẫn chưa hề có cuộc điều tra cơ bản
nghiên cứu về những nguyên nhân ra đi của họ.
Sơ đồ dự án hệ thống
cống đập chắn mặn trên Sông Cái Lớn-Sông Cái Bé, sẽ tác động trên 1/4 diện tích
toàn ĐBSCL và ảnh hưởng tới đời sống hơn một triệu cư dân trong vùng. (6)
[nguồn: Ánh Sáng và Cuộc Sống]
Rõ
ràng Dự án cống đập Sông SCL-SCB đã thiếu hẳn một đánh giá chiến lược tác động
môi trường [ĐTM/ EIA/ Environmental Impact Assessment] toàn diện và khách quan,
bị ảnh hưởng bởi quan điểm của chủ đầu tư/ nhóm lợi ích chỉ để nhằm
biện minh cho sự cấp thiết của dự án, trong khi mà ai cũng biết là dự án sẽ
tác động tới toàn hệ sinh thái của cả một vùng rộng lớn chiếm 1/4 tổng diện
tích của ĐBSCL [hơn 1 triệu hecta], ảnh hưởng trực tiếp trên đời sống sản xuất
sinh kế của hàng triệu cư dân trong vùng quy hoạch, trong khi còn bao nhiêu vấn
đề kỹ thuật chưa có giải pháp rốt ráo. Và khi đã gây huỷ hoại trên hệ sinh thái
thường rất khó đảo nghịch.
TS
Lê Anh Tuấn, Phó Việt trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu ĐH Cần Thơ [Viện
DRAGON] nhận định: cắt đứt trao đổi nước giữa sông và biển chắc chắn sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới canh tác sản xuất của nông dân quen sống theo nhịp thuỷ
triều, giảm nguồn thuỷ sản bên trên và bên ngoài cống đập, và do nước tù đọng
sẽ tích luỹ mọi ô nhiễm.
Một
chuyên gia Khoa Môi trường và Tài nguyên Thiên nhiên ĐH Cần Thơ, nhận định về
sự khác biệt của hai chế độ thủy triều phía Biển Đông và Biển Tây. Phía Biển
Đông là bán nhật triều: nước lên xuống ngày 4 lần, trong khi Biển Tây là chế độ
nhật triều, nước lên xuống ngày hai lần. Riêng vùng Tây Nam Sông Hậu chế độ
thủy văn phúc tạp hơn nhiều, chịu ảnh hưởng của cả hai chế độ nhật triều và bán
nhật triều khác nhau. Trong khi các cống đập hiện nay chỉ vận hành theo một mô
hình thô thiển: đóng cổng đập khi triều cường, mở cổng đập khi triều kiệt. Hệ
thống cống đập trên SCL-SCB sẽ gây rối loạn cho chế độ thuỷ văn vùng này, làm
"mất lực hút-đẩy" của chế độ thuỷ văn thiên nhiên [sic] nước sẽ tù
đọng tích luỹ ô nhiễm từ các chất thải nông ngư nghiệp, kỹ nghệ và cả nước thải
không được xử lý đổ xuống từ các khu gia cư.
NHÂN DÂN TỈNH LONG AN ĐÃ MỘT LẦN NÓI KHÔNG
TS
Lê Phát Quới, người Long An, giảng dạy tại Khoa Tài nguyên & Môi Trường ĐH
Quốc gia TP HCM, anh có giọng nói lớn, có nét trực tính của người dân Nam Bộ,
anh nói: "Sau công trình cống đập Ba Lai, trung ương có kế hoạch
xây thêm hệ thống cống đập trên cửa con sông Vàm Cỏ là kết nối của hai con sông
Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây thuộc tỉnh Long An. Anh Lê Phát Quới thuật lại:
"Trong một cuộc họp với trung ương và cấp lãnh đạo tỉnh cùng với các nhà
khoa học - trong đó có thằng Quới, anh tự gọi mình là thằng, cuộc họp có cả ông
Sáu Dân tức Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó. Khi tỉnh Long An được hỏi ý kiến, thì
lãnh đạo tỉnh đã có câu trả lời: sau khi phái đoàn tỉnh đi thăm cống đập Ba Lai
trở về, sau khi tham khảo ý kiến nhân dân, thì toàn thể nhân dân Long
An có câu trả lời là không. Lưu ý các anh, là câu trả lời không phải từ
tỉnh uỷ hay uỷ ban nhân dân mà là toàn dân tỉnh Long An nói không. Nếu nói là
tỉnh uỷ hay uỷ ban nhân dân, thì trung ương có thể dùng quyền lực đảng hay
quyền lực trung ương để áp đặt, nhưng là tiếng nói của toàn thể nhân dân Long
An thì khác. Và rồi sau đó, kế hoạch bị gác lại."
Anh
Lê Phát Quới đi tới kết luận: "nếu cứ để thực hiện hệ thống cống
đập trên con Sông Vàm Cỏ thì không biết tai họa cho toàn hệ sinh thái tỉnh Long
An sẽ khủng khiếp như thế nào." Và anh Quới không giấu được nét
hãnh diện về tiếng nói ngăn chặn kịp thời của nhân dân tỉnh hạt mình.
UỶ HỘI MEKONG VN, VẪN MÃI MỘT ĐỊA CHỈ NGHỊCH LÝ
Từ
sau 1975, đất nước này nói chung trong đó có ĐBSCL đang được điều hành với
những "đầu óc nghịch lý".
Đứng
từ trên một chiếc phà đi ngang nhánh sông Trần Đề để qua Cù lao Dung, trong
ráng chiều chập choạng của hoàng hôn, tôi qua sang hỏi một anh trong
đoàn: "Hỏi thật lòng anh, là hiện nay người dân ĐBSCL có cảm thấy
hạnh phúc hơn không so với trước 1975." Chỉ có một câu trả lời
khẳng định, nếu có thì là các gia đình không còn bị ly tán và đất nước không
còn chiến tranh.
Tôi
đã không hỏi anh thêm nữa vì thực sự không có được câu trả lời đơn giản. Riêng
tôi thì vẫn cứ bị ám ảnh với con số đã có 2 triệu người phải từ bỏ quê hương
ĐBSCL đi tìm kế sinh nhai. Cách biện minh là với 2 triệu người bỏ đi nhưng cũng
có 700 ngàn người mới tới, không phải là một câu trả lời rốt ráo.
Vẫn
một địa chỉ nghịch lý: Uỷ Hội Quốc gia Sông Mekong Việt Nam, vẫn từ bao năm,
vẫn toạ ngự tại địa chỉ 23 phố Hàng Tre Hà Nội, nơi châu thổ Sông Hồng cách xa
ĐBSCL hơn 1,600 km, thay vì là Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu, ĐH Cần Thơ.
[tư liệu Ngô Thế Vinh]
Từ
hơn hai thập niên, người viết đã không ngừng lên tiếng về mối nguy cơ của những
con đập khổng lồ Vân Nam của Trung Quốc rồi tới chuỗi 9 đập thuỷ điện dòng
chính của Lào, rồi tới 2 dự án đập của Cambodia: ngoài những hậu quả rối loạn
về dòng chảy, mất nước nơi các hồ chứa và nhất là mất nguồn cát nguồn phù sa,
dẫn tới nguy cơ của một tiến trình đảo ngược khiến một ĐBSCL đang dần dần tan
rã.
Những
mối nguy cơ từ thượng nguồn, gần như không làm gì được. Nhưng quá trình phát
triển tự huỷ / destructive development ngay nơi ĐBSCL trong mấy thập niên qua
cũng phải kể là những hệ luỵ tích luỹ tác hại nghiêm trọng trên sự sống còn của
cả một vùng châu thổ. Có thể kể, từ sau 1975:
_
Xây đê đắp đập chắn lũ mở rộng khu gia cư để làm lúa ba vụ làm mất 2 túi nước
thiên nhiên Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười.
_
Xây hệ thống cống đập chắn mặn phá vỡ nhịp đập thiên nhiên của hệ sinh thái
ĐBSCL biến sông rạch thành một hệ thống hồ ao tù đọng.
_
Xây dựng 14 nhà máy nhiệt điện than nơi ĐBSCL gây ô nhiễm đất, nước, không khí
trên toàn vùng.
Phát
triển với những bước không bền vững / unsustainable development như trên đã làm
tổn thương trên toàn hệ sinh thái ĐBSCL và các nguồn tài nguyên thì cứ nghèo
dần đi.
Để
thay kết luận, người viết gửi tới ông Bộ trưởng NN & PTNT Nguyễn Xuân
Cường, người thay thế Bộ trưởng Cao Đức Phát sau 12 năm tại nhiệm, câu trích
dẫn và cũng là bài học đầu tiên của một sinh viên vào học Y khoa: Primum
Non Nocere / First do no harm / trước hết là không gây hại. Mọi kế
hoạch vội vã, thiếu thời gian cho một lượng giá chiến lược ảnh hưởng môi trường
[ĐTM] khách quan, với tổn phí hàng ngàn tỉ đồng mà còn gây hại cho toàn hệ sinh
thái vốn đã quá mong manh/ fragile của một vùng châu thổ mà trước đây đã từng
được đánh giá là phong phú và giàu có nhất trên hành tinh này.
Qua
kinh nghiệm 16 năm vận hành của hệ thống cống đập Ba Lai, để thấy rằng dù tốn
hàng bao nhiêu tỷ đồng, cứ với quyết tâm làm đê ngăn mặn nhưng nước sông rạch
bên trong vẫn không thể dùng được cho sinh hoạt, những công trình như thế còn
khiến nước bên trong bị ô nhiễm nghiêm trọng vì dòng chảy không lưu thông, tù
đọng. Xây dựng cống đập Ba Lai đã rất tốn kém, nhưng khi phát hiện sai lầm -
nếu có thiện chí sửa sai, thì việc phá bỏ, làm sạch môi trường và chuyển đổi
sinh hoạt của cư dân cũng sẽ rất tốn kém và không thể mau chóng và không phải
là dễ dàng.
Tiếp
tục biện pháp xây dựng công trình cống đập ngăn mặn rất tốn kém sẽ cắt đứt thô
bạo mối liên hệ cân bằng hệ sinh thái sông - biển - đồng bằng, qua công trình
cống đập Ba lai đã chứng minh là không tạo được lợi ích và giải quyết được
chuyện gì cho cư dân ĐBSCL mà còn đảo lộn điều kiện thiên nhiên, phá vỡ hệ sinh
thái của cả một vùng châu thổ.
Như
một nhắc nhở và nhấn mạnh, người viết ghi nhận lại nơi đây một đề nghị cụ thể
với Thủ Tướng chánh phủ kiến tạo Nguyễn Xuân Phúc: hãy cho hoãn ngay Dự
án xây hệ thống cống đập Sông Cái Lớn - Sông Cái Bé một thời gian/ time frame
ít nhất là 5 năm, trích 5% ngân sách 3,300 tỷ dự trù cho dự án để thành lập
ngay một nhóm nghiên cứu ĐTM độc lập [có thể bao gồm cả các chuyên gia Hoà Lan,
họ đã có kinh nghiệm và có công lớn thực hiện một số chương trình khảo sát cơ
bản cho ĐBSCL], và bảo đảm rằng Đánh giá Tác động Môi trường được thực hiện một
cách công tâm, thận trọng bởi những người không có liên hệ gì tới chủ
đầu tư hay nhóm lợi ích, để sau thời gian 5 năm đó, nhà nước sẽ có
được một bản tường trình lượng giá ảnh hưởng môi trường đầy đủ khách quan và
minh bạch, với tất cả mọi tình huống pros & consđể từ đó
mới có quyết định "nên hay không nên" triển khai dự
án được mệnh danh là công trình của Thế Kỷ ấy. Cũng trong bản tường trình ấy,
cũng không thể thiếu phần điều tra cơ bản về nguyên nhân nào đã khiến 2 triệu
cư dân ĐBSCL phải rời bỏ quê hương ra đi tìm kế sinh nhai. Được
như thế thì sẽ phù hợp với tinh thần Nghị quyết 120 về ĐBSCL
[17/11/2017] trong đó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh nguyên
tắc: “thuận thiên, tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can
thiệp thô bạo vào thiên nhiên.”
NGÔ THẾ VINH
ĐBSCL
12.2017 - 02.2018
Tham Khảo:
1/
Có còn con sông nước lớn, nước ròng? Lê Quỳnh. Báo Người Đô Thị online Thứ
hai, 20/06/2016 http://nguoidothi.net.vn/co-con-con-song-nuoc-lon-nuoc-rong-4042.html
2/
Thiếu vốn, dự án ngọt hóa sông Ba Lai trở thành ... mặn quá. Phạm Văn Tri, TTXVN
06.08.2016 https://baomoi.com/thieu-von-du-an-ngot-hoa-song-ba-lai-tro-thanh-man-qua/c/20027474.epi
3/
Chuyên gia đề nghị tạm dừng dự án thuỷ lợi 3,300 tỷ đồng ở Miền Tây. Huỳnh Xây,
Dân Việt, 03.06.2017 http://danviet.vn/nha-nong/chuyen-gia-de-nghi-tam-dung-du-an-thuy-loi-3300-ty-dong-o-mien-tay-775724.html
4/
Phát triển ĐBSCL: Tốn tiền tỷ mà trái quy luật thì trả giá đắt. Nguyễn Hữu
Thiện; VietnamNet 27.11.2017 http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/moi-truong/phat-trien-dbscl-ton-tien-ti-ma-trai-quy-luat-thi-tra-gia-dat-413188.html
5/ Ngăn
đập sông Cái Lớn - Cái Bé: ĐBSCL sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ. Phạm Anh; Tiền
Phong 02.06.2017 https://www.tienphong.vn/xa-hoi/ngan-dap-song-cai-lon-cai-be-dbscl-se-bi-anh-huong-khong-nho-1154506.tpo
6/ Băn
khoăn xây cống Cái Lớn – Cái Bé, Sáu Nghệ; Ánh Sáng và Cuộc Sống;
26.06.2017 http://anhsangvacuocsong.vn/ban-khoan-xay-cong-cai-lon-cai/
No comments:
Post a Comment