Thursday,
November 8, 2012
Dưới đây là một bài
viết của nhà văn Võ Phiến, viết vào năm 1968, nói về việc chế độ miền Bắc đưa
trẻ em ra Bắc để huấn luyện để rồi đưa trở về miền Nam. Bài viết này được đặt
dưới tựa đề Bắt Trẻ Đồng Xanh. Phần đầu, Võ Phiến nhắc đến việc tập kết bộ đội
và các thiếu nhi ra Bắc sau khi ký kết Hiệp Định Genève năm 1954. Sau đó Võ Phiến
nói đến việc vào thời đó, năm 1968, nhiều toán thiếu nhi cũng được đưa ra Bắc
theo lối đường mòn Hồ Chí Minh giống như thời 1954.
----------------
Bắt
Trẻ Đồng Xanh
Trong những ngày gần đây ai nấy chỉ những xôn xao về chuyện ngưng chiến: Bao lâu nữa nhỉ? Làm gì bây giờ?
Trong
bao nhiêu năm trời, chúng ta đã quen với nếp sống chiến tranh đến nỗi hòa bình
làm chúng ta bối rối. Nhưng thiết tưởng ngưng chiến không đáng làm chúng ta bận
tâm đến thế. Chiến tranh này sắp kết thúc, bằng cách này hay cách khác, hoặc sớm
hơn một ít hoặc chậm hơn một ít. Chuyện phải đến rồi sẽ đến, nó xảy đến ra sao
dường như cũng đã được trù liệu.
Bộ
đội tập kết ra Bắc, 1954
Cái
đáng bận tâm là những điều tiếp theo cuộc ngưng chiến ấy.
—
Thì các vị lãnh đạo của chúng ta đã tiên liệu rồi: đấu tranh chính trị chứ gì?
kinh tế hậu chiến chứ gì?
Đấu
tranh chính trị, nó hiển nhiên quá, nó sờ sờ ra đấy, tưởng như rờ mó được. Nói
rằng trong giai đoạn tới ta với cộng sản phải đấu tranh chính trị với nhau, nói
thế gần như không phải là tiên liệu gì ráo. Đó là đối phó. Chuyện ấy đến ngay
trước mắt rồi, ta buộc lòng phải đối phó tức khắc, thế thôi.
Nhưng
nói thế còn là khá. Hầu hết mọi người chỉ chăm vào những cái gần hơn nữa: hàng
mấy trăm ký giả mỗi tuần bu đến phòng họp báo của các phái đoàn Hoa Kỳ và Bắc
Việt để ghi lấy dăm ba câu tuyên bố loanh quanh, các bình luận gia khét tiếng của
báo này báo kia, đài này đài nọ bóp trán suy đoán xem lúc nào thì ngưng oanh tạc
dưới vĩ tuyến 19 v.v… Thiên hạ theo dõi ý kiến của họ.
Trong
lúc ấy nhóm lãnh đạo ở Hà Nội lặng lẽ lo liệu công việc mai sau: tức một cuộc
chiến tranh khác. Một cuộc chiến tranh quân sự hẳn hòi. Và họ tiến hành thực hiện
chuẩn bị, ngoài sự chú ý của dư luận: các bình luận gia có tiếng, khét hay
không khét, gần như không mảy may quan tâm đến chuyện ấy.
Thế
mà đó mới là chuyện đáng quan tâm. Thiết tưởng là chuyện đáng quan tâm hơn cả
vào lúc này. Bởi vì nếu ta mù tịt về ý định của đối phương trong tương lai thì
trong cuộc đối thoại thương thuyết với họ hiện thời ta làm sao biết đặt ra những
điều kiện cần thiết?
Cuộc bắn giết sắp tới giữa Miền Nam và
Miền Bắc đã được cộng sản xếp đặt từ lúc này, cũng như cuộc bắn giết thê thảm
mười năm qua được họ xếp đặt từ trước tháng 7-1954, trước ngày đình chiến theo
hiệp định Genève.
Thượng
tuần tháng 7-68 một nhóm luật gia họp ở Grenoble buộc Hoa Kỳ vào tội gây chiến
tại Việt Nam. Sau đó, nhóm luật gia tranh đấu chính trị Việt Nam họp tại Sài
Gòn cãi lại: Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã thành lập từ năm 1958 và ra mắt
ngày 20-12-1960, còn người lính Mỹ đầu tiên chỉ mới tử trận trên lãnh thổ Miền
Nam ngày 22-12-61.
Người
của pháp luật, họ cãi lý với nhau, họ bắt bẻ nhau như thế. Không hiểu sao họ chỉ
nói tới Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Trước họ, nhiều người đã đi ngược lên tới
Mặt trận Tổ quốc, và xa hơn Mặt trận Tổ quốc: tới cái nghị quyết của đảng Lao động
đã đẻ ra Mặt trận này.
Mặt
trận này, mặt trận nọ…, đó là những bằng chứng đã có tên gọi. Chờ cho cộng sản
đặt tên rõ ràng các hoạt động của họ mới chịu cho rằng họ hoạt động tức là nghĩ
tệ về họ nhiều quá. Họ đâu có chậm chạp như vậy? Trước những hoạt động có tên gọi
đã từng xảy ra nhiều hoạt động không tên gọi, và trước cả các hoạt động không
tên là những toan tính xếp đặt kỹ càng.
Khi
họ nhận thấy không thể thanh toán cả nước Việt Nam một lần, mà phải chấp nhận
điều đình với Pháp để giữ lấy nửa nước, thì họ đã đặt ngay vấn đề: còn lại nửa
nước kia, phải giải quyết ra sao? Và họ đặt kế hoạch “giải quyết”, cùng lúc với
kế hoạch điều đình. Nghĩa là vào năm 1954, chứ không phải năm 1958.
Thật
vậy, hiệp định đình chiến vừa ký kết, thì những điều khoản ngưng cuộc chiến
tranh bấy giờ được họ thi hành đồng thời với những điều chuẩn bị cuộc chiến
tranh sau. Đồng thời, không muộn hơn một ngày nào.
Lúc
ấy chính quyền quốc gia lo đùm túm kéo nhau vào Nam, và tổ chức cuộc di cư cho
đồng bào Miền Bắc. Di cư là đi cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ: công chức già thì
vào theo nhà nước để lãnh hương hưu, các cụ cố thì theo con cháu vào để được
nuôi nấng và chết giữa đám con cháu v.v…
Bộ đội tập kết ra Bắc, 1954
Cũng
lúc ấy, cộng sản lo liệu công việc của họ có lớp lang:
—
Vũ khí, họ chôn giấu lại một số ở Miền Nam;
—
Cán bộ và binh sĩ, họ chọn lựa một số cho ở lại: có hạng được bố trí để len lỏi
vào các cơ quan quốc gia, có hạng trở về cuộc sống thường dân chờ thời cơ, có hạng
đổi vùng để hoạt động, có hạng vừa lẩn trốn vừa bám lấy địa phương để hoạt động
v.v…
—
Địa chủ, phú nông, trót bị ngược đãi tù tội, đều được tha thứ, giải thích, dỗ
dành để xóa bỏ hận thù. Những thành phần không dỗ dành được thì họ thủ tiêu, vì
xét nguy hiểm đối với tính mạng những cán bộ nằm vùng của họ;
—
Tập kết theo nguyên tắc: Đưa ra Bắc hạng trai trẻ có thể làm việc đắc lực và sản
xuất giỏi cùng hạng có uy tín có khả năng; bỏ lại trong Nam hạng lão nhược có
thể làm một gánh nặng cho quốc gia. Cố ý gây phân ly chia cách, làm thế nào để
mỗi gia đình đều có kẻ đi người ở;
—
Gấp rút tạo thêm nhiều liên hệ giữa thành phần tập kết ra Bắc và dân chúng Miền
Nam: đặc biệt là tổ chức những đám cưới cấp tốc khiến cho hàng chục vạn binh sĩ
và cán bộ Việt cộng ra đi bỏ lại trong Nam bấy nhiêu cô vợ trẻ, có những cô chỉ
ăn ở với chồng được đôi ba hôm.
Bấy
nhiêu cô vợ trẻ và gấp đôi gấp ba chừng ấy cha mẹ già cùng cô cậu chú bác v.v…
là một lực lượng đáng kể. Bằng chính sách tập kết và gây liên hệ này, cộng sản
cưỡng bức một số người về sau phải làm nội tuyến cho chúng.
Bộ
đội tập kết ra Bắc, 1954, Qui Nhơn
Ngay
từ đầu, tình cảm của những người này đã hướng về Bắc, theo bóng kẻ thân yêu.
Thái độ và hoàn cảnh éo le của họ khiến nhà chức trách địa phương lo ngại, đề
phòng. Do đó, họ thành một khối người dần dần sống cách biệt, nếu không là đối
lập với chính quyền miền Nam. Một vài trường hợp đối xử vụng về bị khai thác, một
vài sự hiểu lầm bị xuyên tạc: thế là mâu thuẫn giữa hai bên trở thành trầm trọng.
Rồi một ngày kia, chuyện được tính trước sẽ xảy ra. Xin thử tưởng tượng: gia
đình có đứa con hay người chồng ra Bắc năm 1954, hai năm sau, một đêm nào đó,
có kẻ lạ mặt lẻn vào nhà, lén lút trao cho xem một lá thư và một tấm hình mới
nhất của con hay của chồng từ Bắc mang vào, gia đình nọ làm sao nỡ tố giác kẻ lạ
mặt, dù biết họ đang gây loạn. Đã không tố giác được, tất phải che giấu, nuôi
dưỡng mối liên lạc. Từ việc này đến việc khác, gia đình nọ dần dần đi sâu vào sự
cộng tác với tổ chức bí mật của đối phương, chịu mệnh lệnh của họ, rốt cuộc gia
nhập hẳn vào hàng ngũ của họ.
Chính
vì như thế mà thư từ hình bóng của cán binh tập kết có giá trị đặc biệt quan trọng:
những năm 1956, 57, 58, cán bộ từ ngoài Bắc xâm nhập vào hoạt động, trong người
họ bao giờ cũng mang theo một số thư từ, hình bóng của cán binh tập kết. Đó là
lợi khí hết sức đắc dụng giúp họ đặt các cơ sở quần chúng đầu tiên.
Gây
được cơ sở quần chúng, vận động được sự đóng góp số lương thực tiền bạc cần thiết
để nuôi quân rồi, bấy giờ các lực lượng vũ trang tại chỗ bắt đầu được thành lập,
các lực lượng vũ trang ngoài Bắc kéo vào. Sau đó mới có cái Mặt trận Giải phóng
ra đời.
Như
vậy, cuộc chiến hiện nay không hề khởi đầu từ những bất mãn chống một chế độ độc
tài gia đình trị, không hề khởi đầu từ sau việc chính quyền Sài Gòn từ chối cuộc
tổng tuyển cử 1956, không hề khởi đầu từ ngày khai sanh mặt trận nọ mặt trận
kia.
Tàu
Ba Lan Kilinsky chở bộ đội và thiếu nhì ra Bắc rời bến tại vàm sông Ông Đốc, Cà
Mau, 1955. Lê Duẩn lên tàu này giả vờ làm như đi tập kết ra Bắc theo như qui định
của Hiệp Định Genève rồi ban đêm đi xuống ca nô quay trở về đất liền, ở lại miền
Nam để chỉ đạo cuộc nổi dậy lật đổ chế độ miền Nam sau này
Cuộc
chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi
trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh
trái tiệc tùng… Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình chiến,
những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa.
Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958,
1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.
Dân
chúng Miền Nam ai nấy đều biết những bận rộn tới tấp, những công việc bề bộn ngổn
ngang mà nhà cầm quyền cộng sản hồi ấy phải làm cho kịp trước khi rút ra Bắc.
Trong hoàn cảnh rộn ràng bấy giờ, nếu không vì lý do quan trọng, chắc chắc đảng
và nhà nước cộng sản hồi ấy không đến nỗi quá sốt sắng lo cưới vợ cho cán binh
như thế. Chắc chắn. Dù tìm trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào của bất cứ dân tộc
nào, cũng hiếm thấy một trường hợp chính phủ lo vợ cho quan binh túi bụi đến chừng
ấy.
Cũng
như hiện nay, trong giai đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền Nam này,
nếu không vì lý do quan trọng, đảng và nhà nước cộng sản nhất định không bao giờ
khổ công gom góp thiếu nhi ở đây đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu gian nan khó nhọc,
trong những điều kiện di chuyển nguy hiểm đến nỗi cả các binh sĩ khỏe mạnh của
họ cũng phải hao mòn suy kiệt dọc đường.
Đưa
thiếu nhi Miền Nam ra Bắc, không phải cộng sản họ nhằm làm nhẹ một gánh nặng nuôi
dưỡng, giúp các ông tổng trưởng Kinh tế hoặc Xã hội của chúng ta. Mọi người đều
rõ, tại Bắc Việt và Trung Cộng, người ta tiết giảm sinh sản rất gắt gao: họ hạn
chế hôn nhân, hạn chế luyến ái.
Đưa
thiếu nhi Miền Nam ra Bắc, cũng không phải cộng sản họ nhằm giúp ông tổng trưởng
Giáo dục của chúng ta một tay để giải quyết nạn thiếu trường ở trong này.
Trong giới quan sát nhiều kẻ bảo rằng Bắc Việt kiệt quệ rồi, không đủ sức kéo dài chiến tranh nữa, họ bối rối lắm, luống cuống lắm. Dù không tin vào nhận định ấy, ít ra cũng phải chịu rằng lúc này họ bận trăm công nghìn việc, nếu chuyện bắt trẻ Miền Nam không có một tầm quan trọng đặc biệt thì họ không hơi đâu nghĩ đến. Đàng này họ đang ra sức thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt, người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam Cộng hòa, từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam-bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh, nghĩa là bằng mọi phương tiện, một cách gấp gáp.
Họ bổ sung quân số đó chăng? — Không đâu. Trẻ bị bắt có hạng mới tám chín tuổi. Trong những trường hợp khẩn cấp, họ có thể tạm sử dụng một số trẻ con bắt được ngay tại địa phương; chứ thành lập những đơn vị con nít như thế để dùng ngay vào chiến cuộc này là chuyện điên rồ. Không phải bổ sung quân số đưa vào chiến cuộc đang kết thúc đâu, mà là họ đang tổ chức chiến cuộc mai sau đấy.
Bộ
dội tập kết ra Bắc, 1954
Đem
chút ít kinh nghiệm về lần trước để suy nghiệm về lần này, chúng ta thấy trước
dăm ba điều họ sẽ làm sau khi thỏa ước ngưng chiến được ký kết:
—
Họ sẽ bỏ lại Miền Nam tất cả những thương phế binh, những cán bộ lâm nạn, tàn tật
v.v… Mang mỗi phần tử vô dụng như thế về Bắc chỉ gây thêm xúc động tâm lý trong
quần chúng ngoài ấy; để hạng ấy ở lại, họ tạo thêm gánh nặng cho kinh tế Miền
Nam;
—
Lúc cuộc “chiến tranh chính trị” mà các nhà lãnh đạo Miền Nam vẫn nói được bắt
đầu, thì bao nhiêu ức vạn gia đình có con cháu ra Bắc (và những cô gái có chồng
lính cưới vội cưới vàng trước khi về Bắc nữa) hóa ra những thành phần mà chánh
quyền ta không sao lôi kéo tranh thủ nổi. Lòng họ hướng về những con tin ở
ngoài Bắc, phân nửa sinh mạng họ do nhà đương cuộc Miền Bắc định đoạt. Thái độ
của họ khiến nhà chức trách địa phương có thể phạm vào vài biện pháp kỳ thị vụng
về: thế là phát sinh mâu thuẫn, bất mãn, chống đối v.v…
—
Một ngày nào đó, những cán bộ từ Bắc lại lén lút xâm nhập , mang theo thư từ của
con, của chồng họ: họ mừng như mở cờ trong bụng. Họ bắt tay cộng tác với những
cán bộ nọ, cùng nhau hoạt động để tạo điều kiện cho chồng con họ sớm trở về ồ ạt
theo những đơn vị Nam xâm v.v…
Cán
binh gốc người Miền Nam đưa ra Bắc, rồi lại phái trở vào có nhiều cái lợi: khi
được lệnh vào Nam hoạt động, họ mừng rỡ vì có cơ hội về quê; họ ra đi lặng lẽ,
không có bà con thân thuộc ở Bắc nên không gây xao xuyến gì trong dân chúng, vừa
giữ được yếu tố bí mật vừa tránh được tác động tâm lý bất lợi; họ lại được mong
chờ đón đợi ở Miền Nam; và họ thông thạo am hiểu về dân tình cùng địa thế Miền
Nam.
Như
thế, chủ trương bắt đám trẻ em ở miền đồng bằng Nam Việt bát ngát, phì nhiêu
đem ra xứ Bắc đông người đất hẹp, nhà cầm quyền Hà Nội chính đang bắt đầu chiến
cuộc mai sau ngay từ lúc này, lúc mà chúng ta còn đang xôn xao mong ước ngưng
chỉ chiến cuộc hiện tại. Nói họ bắt đầu lúc này cũng chưa đúng: thực ra các tài
liệu về “Vấn đề gửi các cháu ra Miền Bắc” đã được phổ biến trong hàng ngũ cộng
sản từ tháng 4-68, và thúc giục thực hiện trước mùa mưa năm nay. Tháng 4-68, tức
là liền ngay sau khi tổng thống Mỹ mở miệng thốt ra vài dấu hiệu tỏ ý xuống
thang chiến tranh để đi tới điều đình.
Điều
đình để nghỉ ngơi, đối với Mỹ và chúng ta là thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Điều
đình đối với cộng sản là bỏ cuộc nửa chừng, là đành không ăn được keo này. Thua
keo này họ bày liền keo khác ngay, vì ngưng chiến thế nầy, theo họ, là một sự dở
dang, là chưa hoàn tất công việc. “Thế này rồi thôi luôn hả? Nói thế mà nghe được!
Sao có thể quan niệm một cách giải quyết giản đơn, vô duyên đến thế?”
Ý tưởng về ngưng chiến của chúng ta
dính liền với một mơ ước xây dựng: bao nhiêu tỷ bạc cho Miền Nam, bao nhiêu tỷ
bạc cho Miền Bắc, trao đổi kinh tế ra sao, trao đổi văn hóa thế nào v.v… Ý tưởng
về ngưng chiến của cộng sản dính liền với một kế hoạch tấn công quân sự. Và những nạn nhân đầu
tiên của trận chiến tương lai là những đứa bé con và bố mẹ chúng đã chịu đau
thương từ sáu tháng qua rồi. Trận chiến tranh tương lai đã chọn nạn nhân của nó
trong đám trẻ thơ, đàn bà Miền Nam, để biến họ thành con côi vợ góa. Xong rồi.
Việc đã bắt đầu từ nửa năm nay rồi.
Trước
một đối thủ như thế, thái độ của những chính khách Việt Mỹ hằng ngày đấm ngực đồm
độp, băn khoăn, tự trách mình cái lỗi không kết thúc được chiến cuộc, thái độ ấy
ngây ngô đã đành. Thái độ của những người hớn hở với một kế hoạch kinh tế hậu
chiến nào đó, nghĩ cho cùng cũng mỉa mai tội nghiệp: liệu rồi hưởng được mấy
năm hòa bình trước mắt mà hí hửng tính chuyện xây dựng, mà mơ cảnh thịnh vượng?
Rồi đến thái độ của những kẻ nhìn xa để báo động về một cuộc chiến tranh chính
trị: bảo rằng đối phương rồi đây chỉ có hoạt động chính trị, như vậy không khác
gì chỉ vào con cọp mà gọi là con chó. Gần như tự lừa mình, như giúp địch ngụy
trang.
Dù
cho chỉ có chiến tranh chính trị với nhau, đố ai, đố đảng phái nào, liên minh
nào, phong trào nào của chúng ta mà thuyết phục được mấy vạn ông bà cha mẹ có
con cháu ở Bắc, mấy vạn góa phụ có chồng ở Bắc, thuyết phục được họ thành thực
theo ta? Chỉ nắm lấy chừng ấy vạn người, cộng sản Bắc Việt đã có trong tay một
lực lượng to lớn hơn mọi đoàn thể chính trị của chúng ta, lực lượng nằm ngay
trong lòng quần chúng ta, hàng ngũ ta, mà hoạt động. Ấy là chỉ so sánh về lượng.
Mặt khác, trong số các đoàn viên phong trào quốc gia, đảng viên quốc gia v.v… hạng
thực sự nhiệt thành vì lý tưởng được bao nhiêu? Và riêng trong hạng nhiệt thành
có được bao nhiêu kẻ mà lòng thiết tha đối với lý tưởng có thể mạnh hơn lòng
thiết tha với chồng con của những phần tử bị cộng sản lợi dụng kia?
Dù
cho chỉ có đấu tranh chính trị với nhau thôi, chúng ta đã bất lợi như thế. Huống
chi đó chỉ là hành vi tốt lành lương thiện mà ta gán cho đối phương. Còn họ…, nếu
vạn nhất trong thời gian năm bảy năm sắp tới mà đất nước này thoát khỏi một trận
chiến tranh nữa, thì đó là ý trời, không phải là ý của họ đâu.
Ý
của họ, nó tàn nhẫn đến nỗi chúng ta không dự liệu tới, không tưởng tượng được.
Đó là chỗ nhược của ta.
Khóc
thân nhân bị giết tại Huế trong trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968
Năm
1954, sau chín năm ê chề mòn mỏi vì chiến tranh, thấy hòa bình ai nấy nhẹ nhõm;
nếu có kẻ nào lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất gan đồng dạ sắt.
— Thì Hồ Chí Minh đã xếp đặt cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ ấy.
Năm
1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói hòa bình mọi người mừng
rơn. Nghĩ tới hàng triệu người đã bỏ thây trong thời gian qua, ai cũng tưởng
làm người Việt Nam mà có kẻ dám để ý nghĩ mon men đến chiến tranh nữa, kẻ ấy thật
mặt dày mày dạn, tán tận lương tâm. — Thì Hồ Chí Minh chính đang xếp đặt thêm một
cuộc chiến tranh.
Vậy
mà ông ta vẫn an nhiên hưởng sự trọng vọng của bao nhiêu người, kể cả người Việt
Nam! Cho hay cái sản phẩm quái dị của thế kỷ văn minh này là tuyên truyền chính
trị, nó có một ma lực mê hoặc phi thường. Không phải thứ tuyên truyền yếu ớt vận
dụng một cách khó khăn trong khung cảnh các nước tự do, mà là thứ tuyên truyền
một chiều, qui mô, toàn diện, có thể sử dụng các quyền lợi kinh tế hỗ trợ cho
nó như ở tại các quốc gia độc tài: Nga xô, Trung cộng, Bắc Việt, Đức quốc xã
v.v…
Trẻ
em và thường dân bị chết trong một vụ ném lựu đạn của đặc công Cộng Sản ngày
26-10-1962, là ngày Quốc Khánh dưới thời Ngô Đình Diệm. Tại trước tòa Đô Chánh
Sài Gòn (Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố ngày nay) có trưng bày một chiếc trực thăng.
Đặc công Cộng Sản ném lựu đạn vào những người đang đứng xem chiếc trực thăng
này làm 7 người chết, 47 người bị thương.
Kẻ
vừa ném lựu đạn ngày 26-10-1962 vào đám đông bị người xung quanh xúm lại đánh
trước khi cảnh sát đến bắt giữ
Và
Hồ Chí Minh không phải chỉ được thứ tuyên truyền ấy xóa cho mình cái chân tướng
hiếu sát phi nhân. Ông ta còn hóa thành thiên tài lỗi lạc dưới mắt nhiều người
vì đã tổ chức giặc giã trong một phần tư thế kỷ để giành nửa nước, trong khi tại
khắp các nước Á Phi, những lãnh tụ bất tài nhất cũng dần dần thu hồi được độc lập
toàn vẹn cho quốc gia họ với những tổn thất nhẹ hơn nhiều. Ông ta còn hóa thành
chính trị gia khôn ngoan, thành “cha già dân tộc” dưới mắt nhiều người, trong
khi ở các xứ khác cùng lâm vào tình trạng lưỡng phân không có chính quyền nào nỡ
giải quyết tình trạng một cách vô hiệu mà bất nhân đến thế, trải bao nhiêu năm
cứ nhất mực khăng khăng chủ trương hết cuộc tàn sát này đến cuộc tàn sát nọ,
không một mảy may sờn lòng xúc cảm trước cảnh chết chóc thê thảm làm cho cả
nhân loại đều ái ngại.
Giáo
sư Nguyễn Văn Bông bị đặc công Cộng Sản ám sát ngày 10-11-1971 bằng
cách ném mìn và lựu đạn vào dưới gầm xe. Bên trên là ảnh hai người thực hiện vụ
ám sát: Vũ Quang Hùng và Lê Văn Châu
Người
như thế, không biết lòng dạ ra sao, tim óc ra sao. Bảo rằng cùng trong một người,
vừa chứa đầy những kế hoạch xua ngay đồng bào mình vào chiến tranh liên tiếp vừa
có chỗ cho tình yêu thương đồng bào, thật không thể hiểu thấu.
Những
lời trên đây không được nhã nhặn. Quả thật không nhã nhặn. Và kẻ viết ra phải lấy
làm ngượng về lời lẽ mình. Nhưng khi mình là dân một nước đã trải qua bao nhiêu
năm khói lửa, rồi lại trông thấy trước mặt một viễn tượng đầy máu me, khi ấy
nói về kẻ gây thảm họa thật khó giữ lòng bình thản để nói lời tao nhã.
Du
kích Cộng Sản bắt cóc, ám sát các viên chức xã ấp, chặt đầu để làm cho người
dân sợ hãi không dám cộng tác với chính quyền miền Nam. Tấm ảnh này ngày xưa đã
được đăng trên báo ở miền Nam
Ảnh
một người bị du kích Cộng Sản giết
Có
thể nào không giận? Ông ta bảo phải đeo đuổi cuộc tàn sát nọ là vì nguyện vọng
dân tộc? — Trời, dân tộc này ai cũng xưng biết rõ vanh vách nguyện vọng, ai
cũng đòi hành động nhân danh nguyện vọng dân; có điều mỗi người nêu lên một
nguyện vọng khác nhau, hoàn toàn khác nhau, lắm khi mâu thuẫn nhau. Đâu là nguyện
vọng đích thực, để hồi sau phân giải. Cái chắc chắn là dân tộc này không hề nằng
nặc thiết tha với cộng sản đến nỗi chịu chết năm ba thế hệ liên tiếp để rước kỳ
được chế độ ấy về. Vả ông ta chừng ấy tuổi tác rồi, tai nghe mắt thấy đã nhiều,
từng trải việc đời đã nhiều, ông ta đâu còn ngây thơ mà quáng mắt vì những danh
từ khoác lác, những hứa hẹn hão huyền xa xôi của một chủ thuyết. Ông ta hẳn thừa
rõ những gì đê tiện xấu xa xảy ra phía sau các khẩu hiệu tuyên truyền, thừa rõ
sống ở Đông Đức đâu bằng ở Thụy-điển, Hòa-lan, thừa rõ con đường từ Hung-gia-lợi,
Lỗ-ma-ni tiến đến dân chủ và hạnh phúc, phải xa hơn con đường từ Thụy-sĩ, Phần-lan.
Cảnh
một trong những vụ đặt chất nổ tại Sài Gòn vào những năm 1965 - 1967
Mà
dù ông ta có không nghĩ như thế, có cho rằng Tiệp-khắc sung sướng và tự do hơn
Thụy-điển đi chăng nữa, thì sự hơn thua chút ít cũng không đến nỗi bắt phải đổi
lấy bằng ba bốn cuộc chiến tranh trong đôi ba mươi năm liền. Đáng lẽ ông ta để
cho dân tộc nhỏ bé đã chịu quá nhiều đọa đày vì ngoại thuộc này được yên thân để
làm ăn, để sống cho ra sống trong ít lâu.
Đã
không vì nguyện vọng, quyền lợi dân tộc, ông ta hành động vì lẽ đảng ông ta nhất
định phải thắng các đảng khác, vì lẽ người như ông ta không chịu thất bại nửa
đường?
—
Chừng ấy tuổi tác rồi, lẽ nào vì tranh hơn tranh thua, mà ông mạnh tay sát hại
đồng bào không xót thương đến thế? Người ta có thể vì tức khí, nóng giận mà tàn
nhẫn, vung tay quá đà. Đó là chuyện nhất thời. Còn ông, ông dai dẳng quá.
Vì
cuồng tín chăng? Vì tự ái chăng? Vì cái gì ông ta cũng đáng trách đáng giận
quá.
Nhưng
trong vấn đề này, trách móc với giận hờn đâu có ăn thua gì. Một biểu thị tình cảm:
thật vu vơ, vô hiệu. Ăn thua chỉ có chiến lược thâm hiểm, hành động thích hợp.
Lời nói — dù nhã hay bất nhã — rồi sẽ bay đi theo mây gió. Chỉ có hành động mới
sửa đổi được tình thế. Mà hành động thì…
Xe
đò chở thường dân cán phải mìn do Cộng Sản gài trên Quốc Lộ 1 gần Trảng Bàng,
Tây Ninh ngày 30-4-1967 làm 1 người chết, 20 người bị thương. Khi chiếc xe đò
này gặp một chiếc cầu đã bị Cộng Sản đặt mìn phá sập bèn quay đầu lại thì cán
phải mìn gài ở trước chiếc cầu sập.
Thì
rồi chắc chắn ở phía bên này thoạt tiên ai nấy sẽ nhảy lên mừng hòa bình, rồi
tiếp sau đó sẽ bất đồng cãi cọ nhau ỏm tỏi về chuyện xây dựng, sẽ tranh nhau
làm ăn tới tấp. Cùng lắm, lâu lâu sẽ có người sáng suốt nhắc khẽ đến chiến
tranh chính trị. Thế thôi.
Trong
lúc ấy Bắc Việt lặng lẽ điều khiển cán bộ của họ ở trong nầy âm thầm nhen nhóm
cơ sở. Rồi đôi ba năm sau, một ngày nào đó xét thấy thuận tiện, họ cho lệnh
bùng nổ. Thế là chiến tranh tái diễn.
Chiến
tranh tái diễn: mọi người trên thế giới đang sống an lành bỗng bị quấy rầy, bị ảnh
hưởng, có một số bị lôi cuốn vào chiến cuộc, lấy làm lo ngại, bực mình, quay đầu
về cái xứ lắm chuyện này nhìn bằng cái nhìn xoi mói, nghiêm khắc, trách vấn: “Rầy
rà thật! Ra cái xứ ấy tệ thật, tự xử không nên thân. Loạn lạc này đích thị do độc
tài, tham nhũng, bất công, kỳ thị tôn giáo v.v… khiến dân chúng bất mãn nổi lên
chống chế độ. Dung dưỡng những chính quyền, những chế độ như thế chỉ tổ tai hại
v.v…”
Chiến
tranh ác liệt thêm: lương tâm nhân loại bị xúc phạm, các nhà triết học gọi nhau
họp ở Thụy-điển, các luật gia rủ nhau họp ở Grenoble v.v… trịnh trọng suy tư,
trịnh trọng bàn cãi, rồi lên án, kết tội v.v… Trong khi ấy các lãnh tụ Hà Nội họ
chỉ cần khéo che miệng nín cười. Đó là điều quan trọng: họ không được phép cười.
Họ không được phép chế giễu lương tâm và trí thông minh của loài người. Họ
không được vô lễ; họ chỉ được tiếp tục đánh thật mạnh.
Bộ
trưởng Y Tế Lê Minh Trí bị Cộng Sản ám sát lúc 7 giờ 50, ngày 6-1-1969 tại góc
đường Nguyễn Du - Hai Bà Trưng
Cứ
thế cho đến khi hoặc chúng ta chịu không nổi những đòn đánh từ bên ngoài và những
dằn xóc từ bên trong, chúng ta bỏ cuộc và cộng sản tiến đến Cà Mau; hoặc bên
phía chúng ta cùng đồng minh có những kẻ thật chì, cộng sản liệu ăn không nổi,
thế là lại điều đình và lại xếp đặt một kế hoạch khác… Như vậy không biết đến
bao giờ.
Còn
ba mươi hai năm nữa, chúng ta bước sang thế kỷ XXI. Nhiều người xem như bước
sang một kỷ nguyên mới, một nền văn minh mới: con người sẽ không chỉ biết có quả
đất, nhiều quốc gia sẽ tiến đến nền kinh tế kỹ nghệ hậu. Đó chưa hẳn là cực lạc,
nhưng cũng là cái gì vượt xa tình trạng hiện tại. Thiên hạ nô nức đua nhau tiến
đến mặt trăng, đến kinh tế kỹ nghệ hậu. Như thể cá vượt Vũ Môn.
Riêng
dân tộc chúng ta, ba mươi hai năm nữa e vẫn còn đánh nhau, nửa nước túm lấy nửa
nước dìm nhau trong bể máu. Các dân tộc, bất cứ da đen hay da đỏ, đều có thể nô
nức, hy vọng ở thế kỷ XXI. Riêng chúng ta, chúng ta chỉ còn có mỗi một điều để
đón đợi: là hết chiến cuộc này đến chiến cuộc khác, nếu Hà Nội không từ bỏ quyết
tâm của họ. Và cho đến bây giờ, họ chưa có dấu hiệu từ bỏ.
Hỡi
các em bé của đồng bằng Nam Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối
nhau dìu nhau ra núi rừng Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã chịu côi cút
ngay từ lúc này; còn đất nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các em mà lâm
vào cảnh đau thương bất tận. Tai họa hiện xảy đến cho các em cũng là tai họa về
sau cho xứ sở. Đã sáu tháng qua rồi. Dù người ta có thôi dài cổ ngóng về Ba-lê,
để nghĩ cách cứu các em, thì cũng đã muộn.
Nhưng
đâu có ai chịu thôi ngóng chờ? Và trong không khí thấp thỏm chờ đợi hòa bình,
ngày ngày báo chí chỉ những rập rình từng thoáng tin ngưng oanh tạc, tôi hướng
về các em những ý nghĩ vô cùng buồn thảm, đen tối.
Võ Phiến
Sài
Gòn 10 – 1968
-----------------------
Nhà
văn Võ Phiến, thập niên 1960
*Nhan
đề bài này mượn từ một cuốn sách của Phùng Khánh, dịch truyện The Catcher in
the Rye của J.D. Salinger. Sách Phùng Khánh do Thanh Hiên xuất bản năm 1967 tại
Sài Gòn.
(Hết
bài viết của Võ Phiến)
Bình Luận:
Trên đây là bài viết của nhà văn Võ Phiến tại miền Nam viết vào năm 1968 về kế hoạch đem thiếu nhi ra Bắc để rồi sau đó đưa trở lại miền Nam. Nếu chúng ta để ý thời điểm tác giả viết bài này là tháng 10 năm 1968 thì chúng ta thấy có một sự trùng hợp . Sau trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968, có thể nói phần lớn cơ sở, cán bộ của Cộng Sản nằm vùng tại miền Nam từ trước đến nay đều bị lộ mặt khi họ tham gia trận Tổng Công Kich và phần lớn bị tiêu diệt . Như vậy việc Võ Phiến nhận ra rằng việc miền Bắc đang đưa thêm trẻ em ra Bắc vào thời điểm 1968 mà ông diễn tả là:
"một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng loạt, người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam Cộng hòa, từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người ta gặp những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam-bốt, hoặc bị dẫn đi lũ lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh, nghĩa là bằng mọi phương tiện"
Phải chăng là kế hoạch của đảng Cộng Sản Việt Nam định gây dựng lại hạ tầng cơ sở tại miền Nam vốn đã bị tiêu diệt sau trận Tổng Công Kích? Trước đây vào năm 1954, đảng Cộng Sản Việt Nam đã gây dựng cơ sở tại miền Nam bằng cách đưa trẻ em ra Bắc huấn luyện rồi đưa trở vào Nam thì đến năm 1968 đảng Cộng Sản Việt Nam lại tiếp tục lập lại cách làm cũ.
Theo binh pháp thời xưa thì để thành lập đoàn quân cảm tử, người ta chọn những kẻ không cha, không mẹ, không gia đình người thân để huấn luyện. Vì không có người thân nên không bị tình cảnh gia đình ràng buộc những người này không sợ chết vì họ chẳng có gì ở cuộc đời để mà luyến tiếc cả. Vào thời 1954 hay thời 1968 thì tại Việt Nam không thiếu gì các trẻ mồ côi cha mẹ vì cha mẹ và gia đình đã bị chết trong chiến tranh thì việc đi tìm và tập họp các trẻ mồ côi không phải là việc khó khăn. Đem những đứa trẻ mồ côi ra Bắc dạy dỗ, huấn luyện, thì những đứa trẻ này không biết đến cha mẹ mình mà chỉ biết đến Đảng và nhà nước và sẽ hết lòng nghe lời những gì Đảng và nhà nước dạy, sẽ không tiếc mạng sống khi Đảng và nhà nước ra lệnh phải hy sinh.
Cũng cùng vào thời gian Võ Phiến viết bài này, tại miền Nam đã xảy ra vụ Làng Cô Nhi Long Thành. Làng Cô Nhi Long Thành nằm ở Long Thành, giữa đường từ Sài Gòn đi ra Vũng Tàu. Làng này do một số người tu hành mà người đứng đầu tên là Tư Sự, gom góp các trẻ em mồ côi mà cha mẹ, gia đình đã chết trong chiến tranh rồi đem về Làng Cô Nhi mà nuôi. Một thời gian sau, chính quyền miền Nam ra lệnh giải tán vì cho rằng đây là cơ sở của Cộng Sản. Trước khi Làng Cô Nhi bị giải tán có bao nhiêu trẻ mồ côi đã được lọc lựa và đưa ra Bắc?
Dưới đây là bài viết "Hạt Giống Đỏ", của một trong những thiếu nhi đã được tập kết ra Bắc vào năm 1954:
Hạt giống đỏ
Truyện ký của Tống
Quang Anh
Thursday, November 8, 2012
Thursday, November 8, 2012
No comments:
Post a Comment