Trường
Sơn
Posted by adminbasam
on 17/09/2014
Hôm nay khi đọc được bài viết của ông PGS.Ts Nguyễn
Mạnh Hưởng đăng trên tờ QĐND điện tử số ra ngày 15/09/2014 trong chuyên mục
“Làm thất bại chiến lược diễn biến hòa bình” với nhan đề “Niềm tin của một dân tộc không thể là ảo tưởng” [1]
tôi thấy cần thiết phải có một sân chơi hay một diễn đàn tranh luận về tính
đúng đắn của chủ nghĩa Marx Lenin. Lâu nay, đảng Cộng Sản vẫn luôn hô vang khẩu
hiệu “Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng là kim chỉ
nam cho mọi hành động của Đảng Cộng Sản VN” vẫn là độc quyền diễn tuồng, nhồi sọ
dân chúng tự tung tự tác định hướng dư luận theo ý của họ.
Có lẽ đây chính là căn rễ của mọi sai lầm trong tư
tưởng và hành động của Đảng Cộng Sản khi lãnh đạo dân tộc ta trải qua bao cảnh
chiến tranh tương tàn, nồi da nấu thịt, kéo lùi sự tiến bộ của dân tộc so với
các nuớc láng giềng. Trong hoàn cảnh hiện nay, đạo đức xã hội băng hoại, giáo dục
xuống cấp, nợ công tăng cao, nền kinh tế suy sụp với những khoản thất thoát do
yếu kém quản lý và tham nhũng lộng hành, thế cho nên sự đoạn tuyệt với CN Marx,
thành trì lý luận cuối cùng của giai giai cấp lãnh đạo cộng sản ở VN, sẽ mở đường
trong việc nâng cao dân trí và tạo điều kiện cho dân chủ phát triển, cạn nghĩ
là rất cần thiết.
Trước khi bàn về tính đúng đắn hay sai lầm của học
thuyết Marx, tôi xin chỉ ra tính chất ngụy biện, đánh tráo khái niệm, sự phiến
diện, tính gian dối rất thường xuyên trong các bài viết ở chuyên mục tuyên truyền
của tờ QĐND này mà cụ thể là từ bài viết của ông Hưởng.
PHẦN
I: VỀ BÀI VIẾT CỦA ÔNG HƯỞNG
1. Sự lạm dụng từ dân tộc
và nhân dân một cách bừa bãi và vô lối
Ngay tên bài viết “niềm tin của dân tộc” mà ông PGS
Hưởng đề cập có lẽ là niềm tin vào CN Marx Lenin của đảng Cộng Sản và những đảng
viên của tổ chức này, tin vào CN Marx, còn dân tộc này không hề tin thậm chí có
người chưa từng biết chủ nghĩa Marx là gì. Thế nhưng, thực tế phũ phàng là ngay
cả ông Nguyễn Phú Trọng cũng phải cay đắng thừa nhận là đến cuối thế kỷ này
không biết VN có xây dựng xong CNXH theo mô hình của ông Marx hay không. Cựu tổng
bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô Mikhail Gorbachev cũng cay đắng thừa nhận:
“Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng Sản.
Ngày hôm nay tôi phải đau buồn
mà nói rằng: Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”.
Nếu không tin điều này, đảng Cộng sản có dám làm một
cuộc trưng cầu dâu ý xem có bao nhiêu phần trăm dân chúng tin vào chủ nghĩa
Marx hay không?
Những luận điệu tuyên truyền cũ rích và nhàm chán được
lập đi lập lại “nhân dân tin vào Đảng CS VN” “Quốc hội là đại diện cho tiếng
nói của nhân dân”, “những chính sách và đường lối của Đảng hợp lòng dân”… trong
khi nhân dân không còn tin vào Đảng nữa, quốc hội là nơi tập hợp của hơn 95% đảng
viên trong đó, khi mà tổ chức này chỉ chiếm khoảng 4,3 triệu đảng viên trên tổng
số hơn 90 triệu dân thì làm sao đại diện cho tiếng nói của người dân được.
Chính ông Trương Tấn Sang còn tuyên bố vào 19/08 vừa qua là “Chúng ta không sợ
bất cứ một thế lực nào, dù là hung bạo nhất. Chúng ta chỉ sợ nhân dân mất niềm
tin vào Đảng, Nhà nước, chế độ ta”. Và điều đó đã xảy ra từ lâu khi mà những kẻ
xưng là đầy tớ của dân là “một bầy sâu”, luôn vinh thân phì gia do tham nhũng
“ăn không từ một cái gì” của dân.
2. Đưa thông tin thiếu
dẫn chứng, thiên vị và sai lệch.
Mở đầu bài viết với một loạt những quy chụp, kết tội
các “thế lực thù địch” mà không hề có lấy một dẫn chứng hay bài viết nào để chỉ
ra các “thế lực thù địch” đã vu khống, xuyên tạc hay nói xấu CN Marx Lennin. Nó
chẳng khác cách lên án kiểu hàng tôm hàng cá là nói cho sướng mồm, còn ai nghe
hay không thì kệ thây họ. Việc bài bác chỉ trích CN Marx đã diễn ra mạnh mẽ quyết
liệt nhất là sau khi Liên Xô và đông Âu sụp đổ và trước đó rất lâu, nhiều nhà
triết học, xã hội học, kinh tế học đã lên tiếng phản đối mà những người Marxist
không phản biện lại được. Tôi cũng chỉ đọc được một số, trong đó phải kể đến 3
tài liệu sau:
-
Marxism Unmarked: From Delusion to Destruction của tác giả Ludwig Von Mises, một người gốc Do Thái sinh ra ngay tại
Ukraina. Cuốn sách là tập hợp những bài giảng của ông bắt đầu công bố về sai lầm
của Marx tại San Francisco vào năm 1952. Ông dự đoán gần như chính xác sự sụp đổ
của CN Marx dù ông mất vào năm 1973. Hiện nay tại Mỹ có một viện kinh tế và xã
hội học mang tên của ông [2].
- Farewell to Marx: An Outline and Appraisal of
His Theories của tác giả David Conway dầy 240 trang xuất vào năm 1987, hai
năm trước khi CNCS bắt đầu sụp đổ ở Đông Âu. Tác giả này dự đoán CNCS của Marx
tan rã vào cuối thế kỷ 20 nhưng không ngờ nó lại “chết “ nhanh hơn ông tưởng [3].
- Marxism As Pseudo Science của tác giả
Ernest Van Den Haag cũng ra đời vào năm 1987 [4].
Còn những sách và tên tác giả phản đối CN Marx sau
năm 1989 thì rất nhiều. Chỉ tiếc là ở Việt Nam dù số lượng các nhà triết học lấy
bằng cấp học hàm học vị về triết học Marx nhiều vô kể nhưng không hề có một quyển
nào chỉ ra Marx sai lầm mà chỉ có ca ngợi từ đúng đắn tới rất đúng đắn mà thôi.
Trong bài viết ông PGs Hưởng đưa ra một ví dụ để
minh họa rằng VN rất nhiều người nghèo, bất công xã hội còn tồn tại nhưng “Những
bất công, nghèo khổ vẫn đầy rẫy trong lòng xã hội tư bản hiện đại. Theo Cục Điều
tra Dân số Mỹ năm 2010, ở Mỹ có tới 64,2 triệu người (chiếm 15,2% dân số) thuộc
diện nghèo, mức cao nhất trong 20 năm qua”.
“Ở Mỹ, số người nghèo đói và không bảo hiểm y tế là
hơn 38,8 triệu người; ở I-ta-li-a, giai đoạn 2005-2012, tỷ lệ người nghèo tăng
gấp đôi và hiện có khoảng 4,8 triệu người nghèo đói. Tổ chức Oxfam cảnh báo, đến
năm 2025, Liên minh châu Âu (EU) sẽ có thêm 25 triệu người nghèo đói… “
Rồi đưa ra một kết luận hết sức hùng hồn “Những
điều trên đã nói lên một cách rõ ràng tính chất ăn bám, bóc lột của CNTB”.
Số liệu mà ông Hưởng dẫn nguồn đều từ những mục báo
đảng như Tạp chí quốc phòng toàn dân, báo QĐND, báo Nhân Dân, Ban Tuyên Giáo
Trung Ương, Đảng Cộng Sản Việt Nam. Thật là nực cười, tôi tự hỏi trình độ của một
nhà “khoa học” mang bằng tiến sĩ, học hàm Phó Giáo sư mà non kém đến thế, trích
dẫn số liệu lệch lạc đến thế. Xin hỏi ông PGs Hưởng là ông có phân biệt được thế
nào là một bài báo khoa học có bình duyệt và thông tin đáng tin cậy với những tờ
báo phổ thông thường thức (đôi khi là báo lá cải) hay không?
Đó là chưa kể, ông ta “biển lận” một khái niệm thế nào
là “nghèo” của tổ chức Y tế Thế giới [5].
Theo tổ chức này một người là nghèo khi thu nhập
hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm (Per
Capita Incomme, PCI) của quốc gia đó. Do đó, cái gọi là “Nghèo” của người dân Mỹ
cũng còn là con số trong mơ của dân Việt Nam trong nhiều chục năm sắp tới nếu
chế độ này vẫn do cộng sản cầm quyền. Cục điều tra dân số Mỹ đã từng công bố
năm 2005 Mỹ có 37 triệu người nghèo, năm 2009 có 43, 6 triệu người nghèo. Một số
nước hay tổ chức chống lại Mỹ thường trưng ra những con số trên để chứng minh rằng
Mỹ vi phạm nhân quyền vì có quá nhiều người nghèo. Ví dụ: trong một bản ghi nhận
về tình trạng nhân quyền ở Mỹ do chính phủ Trung Quốc công bố năm 2010 thì người
nghèo ở Mỹ trong 10 năm đã tăng từ 11,7% lên 12,6% trong khi người nghèo ở TQ
chỉ có 8%, (Cái này ông Hưởng bắt chước TQ) để chứng tỏ tính ưu việt của chế độ
cộng sản so với CNTB đang giẫy chết. Thế nhưng những con số đó không nói lên
đầy đủ. Năm 2014 chuẩn nghèo của Mỹ cho một hộ gồm 4 nhân khẩu là 23.850
USD/năm quy ra 1.987,5USD/ tháng. Còn chuẩn nghèo của Trung Quốc là 1500 Nhân
dân tệ, tương đương 225USD/ tháng tức là thua khoảng 9 lần so với Mỹ. Còn ở VN
thì 4,8 triệu đồng/năm ở nông thôn và 6 triệu đồng/năm ở thành thị. Vì vậy chỉ
nhìn vào số lượng người nghèo mà đánh giá thì quả là một so sánh khập khiễng.
Ở Mỹ, cũng vào năm 2012 thì 80% số họ nghèo có máy
điều hòa, 92% có lò vi sóng, 72% có 1 ô tô hoặc xe tải và 31% có ít nhất từ 2
xe trở lên, khoảng 70% có truyền hình cáp và vệ tinh, 50% có máy tính cá nhân
và khoảng 15% có từ 2 máy tính trở lên/hộ dân. Người Mỹ đều hiểu khái niệm «
nghèo » là sự thiếu khả năng cung cấp thực phẩm bổ dưỡng, quần áo, và chỗ ở
thích hợp cho một gia đình chứ không phải thiếu thực phẩm để ăn.
Vì vậy chi tiết ông Hường nêu ra là nghèo đói là sai
sự thật, họ chỉ nghèo chứ không đói. Con số người thiếu thực phẩm (thỉnh thoảng
chứ không triền miên) không quá 4% tại Mỹ, và không quá 5% tại các nước Châu
Âu.
Để ủng hộ cho ý kiến rằng CN Marx là đúng đắn là
sáng suốt ông Hưởng đã viết “Trong tình hình hiện nay, chính từ các quốc gia
tư bản phương Tây, người ta lại thấy có những tiếng nói về những giá trị của chủ
nghĩa Mác, của học thuyết kinh tế Mác, về phong trào “trở về với Mác”, tìm đọc
Mác. Đặc biệt, ở những thời điểm diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu 2008-2009, trong khủng khoảng nợ công và suy thoái kinh
tế ở nhiều quốc gia tư bản phát triển, phong trào “trở về với Mác”, tìm đọc Mác
lại trở nên sôi nổi và thực tế hơn. Các tác phẩm của V.I.Lê-nin vẫn xếp số 1
trên thế giới và được dịch ra 134 ngôn ngữ ở 63 nước. Không thể cố nói bừa rằng,
chủ nghĩa Mác – Lê-nin là học thuyết “ảo tưởng”, đã “lạc hậu, lỗi thời”, khi
chính học thuyết này đã tạo nên những hiện thực làm biến đổi thế giới, thúc đẩy
sự phát triển, tiến bộ của lịch sử hiện đại và có sức lôi cuốn, tầm ảnh hưởng
sâu rộng toàn nhân loại.”
Thông tin này ông ta trích dẫn từ báo QĐND số ra
ngày 19/02/2012. Thật ngao ngán cho một người có học hàm PGs Ts. Việc Marx chỉ
ra và tiên lượng sự khủng hoảng kinh tế của chế độ TBCN là có thật được Marx đề
xướng trong quyển 3, Tư Bản; nhưng hãy nhớ nằm lòng trong đầu sự khủng hoảng
kinh tế tài chính suy cho cùng chính là sự nghèo khổ và sự tiêu dùng có hạn của
dân chúng. Bất kỳ một thể chế một xã hội nào cũng có những vận động, tuân theo
một nguyên lý “thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Thế nhưng Marx
không hề tiên đoán đúng sự sụp đổ của TBCN dù liên tục từ đầu thế kỷ 20 tới
nay, hình thái kinh tế XH này trải qua nhiều cuộc khủng hỏang như
·
1907: khủng hoảng thị trường chứng khoán Mỹ
·
1929-1933: khủng hoảng kinh tế tiền tệ phố Wall
·
1970: khủng hoảng dầu mỏ
·
1997: khủng hoảng kinh tế châu Á, bắt đầu nổ ra ở
Thái Lan với nợ công chỉ là 15% (theo công bố của chính phủ)
·
2007-2009: khủng hoảng kinh tế thế giới.
Trong khi đó, hình thái XHCN chỉ qua một cú chấn động
đã sụp đổ tan tành theo hiệu ứng Đômino. Nếu nó đúng đắn thì chắc có nhiều nước
CNTB đã quay trở lại XHCN từ sau năm 1980 rồi, nhất là sau 1997, người ta tìm đọc
lại Marx để xem xét mổ sẻ vấn đề kỹ càng hơn sau nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới nhưng vẫn không thể tìm ra sự hợp lý, đúng đắn của cái lý luận ảo tưởng
mù quáng đó.
Phần
II: NHỮNG LÝ LUẬN CHỐNG LẠI CHỦ NGHĨA MARX
Thứ
nhất: CN Marx vận dụng sai quan điểm của CN duy vật biện chứng
Lý thuyết của ch nghĩa Duy vật biện chứng thường được
coi là cơ sở của học thuyết Marx. Thế nhưng, lại vướng phải những lý luận mà
Mrax vận dụng
·
Khi nói đến quan hệ của cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng, Marx cho rằng khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng
tầng cũng thay đổi theo. Thế nhưng Marx lại không chỉ ra những thay đổi về cơ sở
hạ tầng của CNXH được cho là tiền thân của CNCS sẽ đưa đến thay đổi hình thái
kinh tế xã hội. Khi đó, mô hình xã hội (kiến trúc thượng tầng) sẽ là rào cản,
bó chặt sự phát triển của cơ sở hạ tầng làm phá vỡ mối quan hệ này.
·
Marx công nhận quy luật phủ định của phủ định nhưng
lại không công nhận sự phá sản/đổ vỡ của chủ nghĩ cộng sản tức là với Marx thì
chủ nghĩ cộng sản là cái đích cuối cùng trong các hình thái kinh tế xã hội của
loài người. Theo CN duy vật biện chứng, cái có trước sẽ bị cái ra đời sau phủ định
lại và không có gì là bất biến. Sự lung túng của Marx còn thể hiện ở chỗ, mô
hình CNCS mà Marx đưa ra không khác gì chủ nghĩa công sản nguyên thủy đã có từ
nhiều ngàn năm trong xã hội loài người. Và có lẽ những người cộng sản VN hiện
nay cũng đang mắc sai lầm này khi tự cho mình có quyền lãnh đạo duy nhất, toàn
diện dân tộc, không một đảng phái nào đủ “trọng trách lịch sử ” thay thế nổi họ.
Trải qua 4 nghìn nămlịch sử VN đã chứng minh, tất cả mọi triều đại, thể chế
chính trị chỉ có vai trò nhất định trong một giai đoạn lịch sử nhất định, đều vận
hành theo quy luật “hình thành-phát triển-tiêu vong”.
·
Marx cho rằng khi tiến tới chủ nghĩa cộng sản thì mọi
đấu tranh giai cấp sẽ bị triệu tiêu trong khi “sự thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập luôn luôn diễn ra trong từng sự vật hiện tượng”.
Thứ
hai: Về mặt thực thi chủ nghĩa cộng sản và đàn áp quyền cá nhân.
Chủ nghĩa Marx xem việc giành chính quyền phải bằng
bao lực cách mạng là tất yếu, cũng như quan điểm của Mao “chính quyền được sinh
ra từ họng súng”. Điều này được xem là tàn bạo và trái với quan điểm của nhân lạo
tiến bộ. Thực tế đã chứng minh rất nhiều nước trên thế giới vẫn giành được độc
lập, giành được chính quyền mà không hề có bạo lực cách mạng. Ngay cả việc hợp
nhất một quốc gia với hai hệ tư tưởng và tầng lớp lãnh đão khác nhau ở hai miền
Đông và Tây nuớc Đức cũng diễn ra hết sức ôn hòa, khi những người cộng sản hiểu
được quy luật khách quan, biết đặt lợi ích dân tộc trên lợi ích giai cấp. Khi
giành được chính quyền, CN Marx chủ trương “kiểm soát chuyên chế đối với dân
chúng bởi tầng lớp quý tộc mới”
Trong Tuyên ngôn Cộng sản, Marx đề ra 10 nhóm hành động,
mà ông cho rằng có thể áp dụng ở bất cứ xã hội công nghiệp hiện đại nào, khuyên
nên phải phân phối lại đất đai và tư liệu sản xuất trong giai đoạn quá độ trước
chủ nghĩa cộng sản. Trong đó thể hiện rõ nhất từ tư tưởng 1 tới tư tưởng 4
1. Tước đoạt sở hữu ruộng đất và trao nộp tô vào quỹ chi tiêu của nhà nước.
2. Áp dụng thuế luỹ tiến cao.
3. Xoá bỏ quyền thừa kế
4. Tịch thu tài sản của tất cả những kẻ lưu vong và của tất cả những kẻ phiến
loạn [6].
CN Marx chủ trương tước đoạt tài sản ruộng đất, xóa
bỏ tư hữu và công hữu bất kể nguồn gốc đất đai đó do đâu mà có. Hay xóa bỏ quyền
thừa kế, hiểu theo một cách đơn giản hơn là sống đời nào biết đời đó, khác với
truyền thống của dân tộc VN là cha mẹ dành dụm tài sản để cho con cháu và như
thế thì không có tích lũy tư sản.
Nếu trong giai đoạn bạo lực cách mạng thì ai là kẻ
được xem là phiến loạn nếu không phải là những người cộng sản? Chính họ là kẻ
phá vỡ trật tự xã hội theo đúng định nghĩa của Marx.
Các nhà tư tưởng tư do cho rằng đây chính là hình thức
trực tiếp của nhà nước tước đoạt tài sản cá nhân (quốc hữu hóa). Cải cách ruộng
đất và quốc hữu hóa tài sản nhân dân ở một số nước theo chủ nghĩa xã hội là sản
phẩm ý tưởng của Marx, trong đó tại Việt Nam 172.000 người bị giết với hơn 80%
bị giết oan là một cuộc tàn sát đẫm máu do tư tưởng của Marx gây ra.
Thứ
ba: Phân biệt chủng tộc
Marx và Engels bị cáo buộc đã có những tuyên bố phân
biệt chủng tộc chống lại một số quốc gia. Dân tộc Slav khi phản ứng các nỗ lực
của người Croatia và người Séc giành độc lập từ Áo-Hung bằng cách cố gắng để đạt
được sự hỗ trợ của Sa hoàng nước Nga, người mà Engels coi là một kẻ thù của chủ
nghĩa cộng sản. Engels gọi những người Slavs cùng với người Gael, Breton và xứ
Basque “từ chối quốc gia” và tuyên bố rằng họ xứng đáng “bị tiêu diệt trong cơn
bão cách mạng” Để đối phó với những sự kiện này, Marx và Engels cùng kêu gọi Đức
tiến hành chiến tranh với Nga để áp đặt nền văn minh cơ bản cho Nga. Cả hai
Marx và Engels coi Đức là nước văn minh hơn các quốc gia khác, và tiến bộ về chủ
nghĩa cộng sản hơn so với các quốc gia khác [7].
Thứ
tư: Kinh tế
Trường phái Kinh tế học Áo cho rằng Hệ thống kinh tế
của Marx đang dựa vào Lý thuyết giá trị lao động trường phái kinh tế học cổ điển,
mà lý thuyết cơ bản của Kinh tế học cổ điển là sai. Một số phê phán khác cho rằng
hệ thống kinh tế của chủ nghĩa Cộng sản là không thể sử dụng được.
Xuất phát từ việc hiểu sai nguồn gốc của giá trị
chênh lệch mà Marx gọi là giá trị thặng dư, rồi cho rằng tư bản bóc lột giá trị
thặng dư và cuối cùng đưa đến quan điểm giai cấp vô sản phải đánh đổ giai cấp
tư bản. Marx đã sai ở ba điểm nghiêm trọng.
·
Giá trị thặng dư thực chất là do chênh lệch thi trường
cung cầu tạo ra. Một sản phẩm như nhau sẽ được bán nhiều giá khác nhau tại các
thị trường. Thông qua quy luật cung cầu này, nhà tư bản tiến hành buôn bán và tạo
ra sự chênh lệch, mua ở thị trường giá rẻ và bán cho thị trường giá cao. Một
ghi nhận dễ nhận ra là VN thường xuất khẩu hàng may mặc/gạo cho Nhật trong khi
lại nhập khẩu ô tô từ Nhật về vì giá của một chiếc ô tô cùng loại tại VN có giá
cao gấp 3 lần tại Nhật.còn nếu sản xuất theo chỉ tiêu, tự cung tự cấp thì gần
như không có giá trị thặng dư và không tận dụng được thế mạnh sẵn có.
·
Năng lực trí tuệ của từng cá nhân là không giống
nhau nhưng Marx lại cào bằng và tính theo bình quân. Điều này kéo theo khi lợi
ích và tài sản bị bình quân hóa ai cũng như ai thì người lao động hông còn nỗ lực
trong công việc. Chính điều này thủ tiêu sự sáng tạo của con người.
·
Marx luôn công nhận rằng giai cấp tư sản là giai cấp
năng động và sáng tạo nhất khi họ thường xuyên cải tiến công cụ lao động, nhưng
lại không thừa nhận sự cải tiến công cụ lao động đóng góp một phần rất lớn việc
tạo ra sản phẩm để dưa đến giá trị thặng dư. Khi tấn công Marx, Alfred Marshall
đã nói: ” “Thật không đúng khi nói cuộn chỉ trong nhà máy… đơn thuần là sản phẩm
của lao động. Nó là sản phẩm của lao động, cùng với công sức của chủ lao động,
của hệ thống quản lý, và từ tiền vốn bỏ ra.” [8]
Ngoài ra Marx còn nhiều những sai lầm mà đến cuối đời
Bản thân Marx cũng thừa nhận là lý thuyết của ông không thể giải thích sự phát
triển nội tại của hệ thống xã hội Á Châu, nơi một phần lớn của dân số thế giới
sống hàng ngàn năm qua.
Đọc đến cuối bài tôi chợt nhận ra rằng hình như vẫn
giọng điệu này, vẫn tác giả này là chính ông PGs.Ts Nguyễn Văn Hưởng đã viết một
bài viết vào ngày 04/05/2013 với tên bài viết là BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO
CHỦ NGHĨA MÁC dưới chuyên mục “Kỷ niệm 195 năm ngày sinh C.Mác (5-5-1818-
5-5-2013)” [9] chứ không phải “làm thất bại chiến lược diễn biến hòa
bình” nữa rồi. Tôi nhờ các độc giả đọc và xác nhận dùm tôi. Ngẫm ra mà thấy
tội nghiệp cho các vị phải làm tên canh cổng cho lý luận của đảng họ thật giống
con gà mái đẻ, loay hoay nhảy ổ để phọt ra một bài mà có gì mới đâu, chỉ xào nấu
lại câu chữ, lý luận nhàm chán. Hóa ra chỉ có tí lý luận què cụt này, họ cũng
đường đường là PGs.Ts ăn trên ngồi trốc thiên hạ, đại diện cho tầng lớp trí thức
của dân tộc Việt này sao?
Tài
liệu tham khảo
[7] van Ree, Erik. The political thought of Joseph
Stalin: a study in twentieth-century revolutionary patriotism. London, England,
UK; New York, New York, USA: RoutledgeCurzon, 2002.
[8] http://vi.wikipedia.org/wiki/Phê_phán_chủ_nghĩa_Marx#cite_note-Bucholz.2C_Todd_1998._pp_166-167-17
No comments:
Post a Comment