CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH ĐIỀN ĐỊA CỦA TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
(Đại
Học Sư Phạm Saigon)
Trong 20 năm (1955-1975), chính phủ miền Nam: Việt
Nam Cộng Hòa đã thực hiện 2 lần cải cách đièn địa: - Cuộc cải cách điền địa lần
thứ nhất do Tổng Thống Ngô Đình Diệm thực hiện (1955-1963)
CHÍNH
SÁCH CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT MIỀN NAM.
Khác hẳn chính sách cải cách ruộng đất miền Bắc, chế
độ miền Nam đặt lên ưu tiên hàng đầu chính sách tư hữu hoá ruộng đất cho tất cả
tá điền, mỗi gia đình làm chủ thật sự một mãnh ruộng tư hữu. Trong 20 năm
(19551975), chính phủ miền Nam đã thực hiện 2 lần cải cách điền địa:
- Cuộc cải cách điền địa lần thứ nhất do Tổng Thống
Ngô Đình Diệm thực hiện (1955-1963)
- Cuộc cải cách điền địa lần thứ nhì do Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu chủ trương (1967-1975)
I
- CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH ĐIỀN ĐỊA CỦA TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
Trở thành Thủ tướng dưới chế độ quân chủ của Hoàng
đế Bảo Đại (7-7-1955), Ông Ngô Đìhh Diệm khẩn trương, sau Hiệp định Genève được
ký kết, ban hành 2 Dụ (số 2 và sổ 7) đánh dấu bước đầu của chính sách cải cách
điền địa. Dụ sô' 2 và Dụ số 7 nầy thiết lập quy chế tá canh (22) gồm các điều
khoản chủ yếu như sau:
-
Địa tô: Cho đến cuối năm 1955, miền Nam không hề áp dụng
thủ tục ký hợp đồng cho thuê mướn ruộng đất canh tác. Thường thường có sự thỏa
thuận bằng miệng giữa chủ điền và tá điền. Chiếu theo quy luật cung và cầu, chủ
điền áp đặt các điều kiện khắc khe bất lợi cho tá điền. Địa tô chẳng hạn thường
thật cao, từ 40% (ở môt số tỉnh miền Tây đồng bằng sông Cửu Long còn thưa đân)
đến 60% vụ lúa thu hoạch (ở các tỉnh trung ương thuộc đồng bằng sông Cửu Long,
bị áp lực nhân mãn). Từ khi quy chế tá canh được ban hành, địa tô nầy được giảm
bớt phân nửa:
* 15% vụ lúa thu hoạch (trường hợp ruộng cho một vụ
mỗi năm).
* Từ 15% đến 25% vụ lúa chánh thu hoạch, đối với các ruộng lúa cho 2 vụ mỗi năm.
* Từ 15% đến 25% vụ lúa chánh thu hoạch, đối với các ruộng lúa cho 2 vụ mỗi năm.
-
Thời gian cho thuê ruộng đất. Thời gian cho thuê ruộng
đất được quy định là 5 năm (thay vì 2-3 năm hoặc 5 năm truớc kia, tùy theo
tỉnh). Hợp đồng đuơng nhiên được tái ký giữa chủ điền và tá điền. Tá điền có
thể xin hủy bỏ tái ký hợp đồng, nhưng phải thông băo cho chủ điền biết trước 6
tháng. Chủ điền cũng có thể từ chối, không tái ký hợp đồng, với điều kiện là
phải thông báo cho tá điền biết truớc 3 năm.
-
Trường hợp ruộng đất bị bỏ hoang. Diện tích ruộng
lúa bị bỏ hoang trong thời kỳ chiến tranh giành độc lập (không có chủ điền hiện
diện nhìn nhận quyền sỡ hữu) được ước lượng khoâng 500.000 ha. Những ruộng lúa
nầy một phần lớn thuộc quyền sở hữu của các trung điền chủ (từ 5 đến 10 ha) và
đại điền chủ (từ 50 ha trở lên). Họ phải rời bỏ nông thôn để tránh quân “kháng
chiến” Việt Minh (Cộng sản) khủng bố. Họ sống tỵ nạn ở các thành phố. Một sô'
người thuộc 2 thành phần chủ điền nầy trở thành công chúc, và một số khác hành
nghề tư do (thuơng nghiệp, ngân hàng, bảo hiểm, xuất nhập cảng vv...). Nếu họ
không có mặt tại chổ, lúc chính quyền địa phuơng kiểm kê ruộng- đất, thì đương
nhiên ruộng đất nầy thuộc quyền sở hữu quốc gia. Chính quyền địa phương sẽ cấp
phát không cho tá điền.
Một năm, sau khi áp dụng quy chế tá canh, Tổng Thống
Ngô Ðình Diệm (trở thành tổng thống VNCH) ban hành Dụ số 57 ngày 22-10-1956,
thiết lập chính sách cải cách điền địa. Sau dây là các điểm chính (23):
-
Số diện tích đất tư hữu được quyền giữ lại.Mỗi điền
chủ được quyền giữ tối đa 100 ha ruộng lúa, trong số nầy 30 ha được phép trực
canh, và 70 ha phải cho tá điền thuê, đúng theo quy chế tá canh.
-
Bồi thường thiệt hại. Ðiền chủ bị truất hữu được chính phủ bồi thuờng
thiệt hại một cách công bằng và thỏa đáng:
• 10% trị giá ruộng đất bị truất hữu đuợc trả ngay
bằng tiền mặt.
• 90% được trả trong thời hạn 12 năm, dưới hình thức là trái phiếu được chính phủ bảo đảm, với lãi suất là 3% mỗi năm. Đương sự có thể sử dụng trái phiếu nầy để trả thuế điền thổ hoặc mua các chứng khoán của các xí nghiệp quốc doanh.
• 90% được trả trong thời hạn 12 năm, dưới hình thức là trái phiếu được chính phủ bảo đảm, với lãi suất là 3% mỗi năm. Đương sự có thể sử dụng trái phiếu nầy để trả thuế điền thổ hoặc mua các chứng khoán của các xí nghiệp quốc doanh.
-
Bán lại truất hữu cho tá điền.Ruộng bị truất
hũu được chính phủ bán lại cho các tá điền (mỗi gia đình được quyền mua lại tối
đa 5 ha) và họ phải trả cho nhà nước trong 12 năm (vốn và lãi). Giá tiền ruộng
đất bằng với giá tiền thiệt hại mà chính phủ trả cho chủ điền, khi truất hữu
ruộng đất của họ.
Theo Bộ Canh Nông, thì có 1.085 đại điền chủ (có trên
100 ha) bị truất hữu bởi Dụ số 57, và số diện tích ruộng đất truất hữu đạt
430.319 ha (24). Ngoài ra, cần thêm vào đấy 220.813 ha ruộng đất của Pháp kiều
(chiếu theo Hiệp Ðịnh Việt-Pháp được ký kết ngày 11-9-1958), như vậy, tổng số
diện tích ruộng lúa được truất hữu lên đến 651.182 ha. Sô' tá điền được hữu sản
hóa ruộng đất (từ 1957-1963) đạt 123.198 nguời, cộng thêm vào đấy 2.857 tá điền
khác đã trực tiếp thỏa thuận mua lại các đại điền chủ ruộng lúa của họ, đưa
tổng số tá điền được hữu sản hóa ruộng đất lên thành 126.050 tiểu điền chủ
(duới 5 ha), với tổng sô' diện tích truất hữu là 252.218 ha.
Chúng ta có thể đưa ra một vài nhận xét dưới đây:
- Mặc dù bị truất hữu, giới điền chủ giàu có tỏ ra hài lòng. Thật vậy, trong thời chiến tranh giành độc lập, một phần lớn các trung điền chủ (5-10 ha) và đại điền chủ (50 ha hoặc nhiều hơn nữa) phải rời bỏ nông thôn. Họ phải bỏ hoang ruộng đất, nhà của v.v... Tài sản của họ bị xem như là đã mất. Vì họ vắng mặt, nên Việt Minh xung công ruộng đất của họ, chia ra thành nhiều lô và phân phát không cho các tá điền. Ðịa tô bị hủy bỏ. Quy chê' tá canh và Dụ số 57 khôi phục lại quyền sở hữu ruộng đất của trung và đại điền chũ, do dó, họ được quyền thu địa tô và lãnh tiền bồi thuờng thiệt hại khi bị truất hữu. Hơn nữa, giới dại điền chủ còn được quyền giữ lại 100 ha, mà lợi tức mỗi năm (nhờ thâu địa tô) thừa nuôi sống họ một cách thoải mái.
- Tá điền cũng không
chống đõi chính sách cải cách điền địa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm Diệm. Thật
vậy, chiếu theo quy chê' tá canh, tất cả nông dân đã trồng trên mảnh ruộng do
Việt Minh cấp phát trong thời chiến, đều có quyền tiếp tục canh tác trên mảnh
ruộng nầy, với điều kiện phải trả địa tô. Như vậy, quyền tá canh của họ vẫn
được chính phủ nhìn nhận và bảo đảm.
- Ðịa tô được giảm hơn
50% so với thời kỳ thuộc địa, như thế rất có lợi cho tá điền. Hơn nữa, Dụ Số 57
tạo cho tá điền một cơ hội tốt để trở thành tiểu điền chủ. Song song với cải
cách điền địa, Tống Thống Ngô Đình Diệm thực hiện chính sách được gọi là “dinh
điền” và “khu trù mật”, nhằm mục đích:
- Giải quyết công ăn việc làm cho 850.000 đồng bào miền Bắc di cư vào Nam tỵ nạn Cộng sản.
- Giải quyết công ăn việc làm cho 850.000 đồng bào miền Bắc di cư vào Nam tỵ nạn Cộng sản.
- Giải quyết nạn
thất nghiệp hoành hành các đồng bằng duyên hải Trung phần Việt Nam.
Nhiệm vụ thực hiện các trung tâm dinh điền và các
khu trù mật được giao phó cho Phů Tống ủy Dinh Ðiền. Nhờ sự viện trợ kỹ thuật
và tài chánh dồi dào của Hoa Kỳ, Pháp, Tố Chức Sức Khỏe Thê' Giới (OMS), Phủ
Tổng ủy Dinh Điền thực hiện trong một thời gian ngắn ngủi (1957- 1961) 169
trung tâm tái định cư (trong số nầy, có 25 Khu Trù Mật, tất cả đều tập trung
trên đồng bằng sông Cửu Long). Diện tích đất trồng được khai hoang hay được tái
canh tác đạt 109.379 ha (26). Các trung tâm tái định cư nầy đã tiếp nhận 50.080
gia đình, tính ra có đến 250.000 người tái định cư ở những nơi nầy.
• Các Trung tâm Dinh Điền
là những làng mạc mới được thành lập để đón nhận đồng bào di cư miền Bắc và
giới nông dân nghèo khó- của các đồng bằng duyên hải Trung phần Việt Nam di dân
đến đây sinh cơ lập nghiệp. Mỗi khu dinh điền tập trung từ 1.000 đến 1.500 dân,
có chợ trời, một nữ y tá, một cô mụ đở đẻ, một trường tiểu học có 8 lớp. Trên
đồng bằng sông Cửu Long, Phủ Tống Ủy Dinh Điền cấp phát không từ 1 đến 3 ha cho
mỗi gia đình định cư, 1 ha đất khẩn hoang tại miền Ðông Nam Phần và trên Cao
nguyên Trung Phần. Mỗi gia đình định cư có quyền khẩn thêm đất hoang để đạt đến
5 ha/mỗi gia đình. Sau đó, chính phů cấp phát cho họ một bằng khoán xác nhận
quyền sở hữu ruộng đất nầy. Ngoài ra, họ còn được chính phủ trợ cấp lương thực,
khoảng 1 năm cho đến khi họ bắt đầu thu hoạch mùa màng đầu tiên. Các nông cụ
(cuốc, búa, mác, xẻng, phân bón hóa học...), hạt giống, con giống (gà, vịt)
được nhà nước cấp phát không. Quốc Gia Nông Tín Cuộc cho vay tiền lãi suất
thấp, để họ có phương tiện tài chánh canh tác, hoặc để mua một con trâu hay một
con bò, một con heo nái hoặc heo nọc giống ngoại quốc cho năng suất cao
(Yorkshire, Landrace, Duroc Berkshire).
• Khu Trù Mật là một cộng
đồng nông nghiệp được chính quyền thành lập và gom thôn dân vào đãy sinh sống ở
những địa phương nào chưa được bảo đảm”. Các thôn dân sinh sống trong những
thôn xóm hẻo lánh, xa cách các trục giao thông, do đó, chính phủ không thể kiểm
soát được. Trước sự đe dọa của chiển tranh xâm lược miền Bắc, Tổng thông Diệm
quyết định tập trung thôn dân sinh sống rải rác vào Khu Trù Mật, để tiện bề
kiểm soát họ, đồng thời cô lập họ với “Việt Cộng”, giống như cá thiếu nước
không thể sống tồn tại được. Mỗi Khu Trù Mật có khoàng từ 3.000 đến 3.500 dân,
có hạ tầng cơ sở giống tựa như trường hợp của một thành phố.
• Một khu thương nghiệp
(với một ngôi chợ xây cất bằng gạch và tiệm buôn bán).
• Một khu hành chánh (có một chi nhánh bưu điện), xã hội (một bảo sanh viện, một nhà trẻ) và văn hóa (các trường tiểu học và trung học cấp I, một phòng thông tin, nhà thờ và chùa chiền). Các Khu Trù Mật được điện khí hóa. Vị trí của chúng được chọn lựa kỹ lưỡng, hội đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển (đất đai trù phú, gần các trục giao thông).
• Một khu hành chánh (có một chi nhánh bưu điện), xã hội (một bảo sanh viện, một nhà trẻ) và văn hóa (các trường tiểu học và trung học cấp I, một phòng thông tin, nhà thờ và chùa chiền). Các Khu Trù Mật được điện khí hóa. Vị trí của chúng được chọn lựa kỹ lưỡng, hội đủ các điều kiện thuận lợi để phát triển (đất đai trù phú, gần các trục giao thông).
• Khu Trù Mật có thể phát
triển nông nghiệp, diện tích đăt trồng có thể được nới rộng nhờ khẩn hoang thêm
đất mầu mỡ, để trong tương lai, các thể hệ trẻ tấn lên trở thành điền chủ.
• Khu Trù Mật có thể phát
triển thuơng nghiệp và các lãnh vực dịch vụ khác, cũng phát triển các tiểu thủ
công nghệ liên hệ với nền nông nghiệp địa phương.
• Nhờ Khu Trù Mật, chính quyền có thể cải thiện điều kiện sinh sống của thôn dân: cư trú tập trung cho phép chính phủ thực hiện nhiều công trình phục vụ nhân dân, ít dòi hỏi nhiều tư bản đầu tư hơn hình thúc cư trú lẻ tẻ, rải rác (chẳng hạn như công tác thủy nông, điện khí hóa, xây cất trường học, nhà bảo sanh v.v...).
• Nhờ Khu Trù Mật, chính quyền có thể cải thiện điều kiện sinh sống của thôn dân: cư trú tập trung cho phép chính phủ thực hiện nhiều công trình phục vụ nhân dân, ít dòi hỏi nhiều tư bản đầu tư hơn hình thúc cư trú lẻ tẻ, rải rác (chẳng hạn như công tác thủy nông, điện khí hóa, xây cất trường học, nhà bảo sanh v.v...).
• Khu Trù Mật là nơi bảo
vệ dân chúng chống lại chiển tranh xâm lược của Cộng sản Bắc Việt. Ngoài việc
kiểm soát dân chúng trong Khu Trù Mật, chính quyền địa phương còn được trang bị
vũ khí cần thiết, để nếu cần, có thể biến Khu Trù Mật thành một “tiền đồn”,
ngăn chặn đoàn quân Bắc Việt xâm nhập vào Nam.
Bởi vậy, các Khu Trù Mật thường được thiểt lập tại
các địa điểm có tính cách chiến lược, dọc theo biên giới hoặc xung quanh một
thành phố lớn, để tạo một vành đai an ninh. Ðồng thời Khu Trù Mật cũng là thị
trường tiêu thụ các nông sản và các chế phẩm tiểu thủ công nghiệp. Chính phủ
cấp phát cho mỗi gia đình định cư một mảnh đất 3.000m2, để xây cất một ngôi nhà
(với vật liệu do chính quyền địa phương cung cấp), một chuồng heo và một chuồng
gà. Mỗi gia dình có một mảnh vườn cây ăn trái hoặc một mảnh vườn rau để tự túc
mưu sinh.
- Thành lập Quốc Gia Nông Tín Cuộc. Ðể yểm trợ chính
sách cải cách điền địa, Tổng thống Diệm thành lập Quốc Gia Nông Tín Cuộc, chiếu
theo Nghị định sô' 65 DTCC (tháng 4-1957). Ðây là một cơ quan quốc doanh tự
trị, có nhiệm vụ phát triển mọi lãnh vực kinh tế nông thôn thôn (nông nghiệp,
ngư nghiệp, lâm ngiệp, tiếu thủ côn nghiệp). Để chổng lại nạn cho vay nặng lãi,
Quốc Gỉa Nông Tín Cuộc chẩp thuận cho nông dân vay tiền để làm ruộng một cách
dễ dàng, khác hẳn với các cơ quan nông tín của chể độộ thuộc địa trước kia. Căn
cứ vào khå năng sản Xuất của nông dân, Quốc Gia Nông Tín Cuộc cho vay nợ mà
không đòi hỏi vật thể chấp hay người bảo lãnh:
• Lãi Suất 1% mỗi tháng, nếu nông dân vay mượn ngắn hạn (dưới 18 tháng).
• Lãi Suất 8%/năm, nếu vay trung hạn (18 tháng đến 5
năm).
• Lãi Suất 6%/năm, nếu vay mượn dài hạn (5 đến 15
năm). • Lãi Suất rất thấp chỉ có 5%/năm dổi với các hợp tác xã nông
nghiệp.
Trong 9 năm (1955-1963), Quốc Gia Nông Tín Cuộc đã
cho vay trong tất cả các lãnh vực nông nghiệp số tiền trên 4 tỷ 600 triệu đồng
được phân chia như sau:
• 85% cho vay ngắn hạn, để tiểu điền chủ (1 đến 5 ha) và tá diền có tiền nông làm ruộng.
• 7% Cho vay trung hạn để trồng các; loại cây đa
niên.
• 8% Cho vay dài hạn để thực hiện hạ tầng cơ sở như
thủy nông hoặc thiểt lập một cơ sở tiểu thủ công nghiệp chẳng hạn.
Quốc Gia Nông Tín Cuộc cũng cho những người tái định
cư vay để mua ruộng đất gần nơi cư ngụ để cạnh tác. Các cán bộ Xây dựng nông
thôn có nhiệm vụ cô' vấn, hướng dẫn nông thôn áp dụng phương pháp đa cạnh.
Ngoài ngành trồng lúa, nhà nước khuyến khích họ trồng các loại cây cho lợi tức
cao như dừa, đậu phọng, mía, khoai mì, cây ăn trái, để tạo cơ hội tốt cho giới
kinh doanh địa phương phát triển các kỹ nghệ chế biến thực phẩm như dầu ăn,
đường, bột khoai mì v.v... Những tiểu thủ công nghiệp nầy tạo công ăn việc làm
cho dân tại đây, hảm bớt một phần nào hiện tượng di dân cô truyền từ nông thôn
ra thành thị. Nhờ an ninh được vãn hồi trong Khu Dinh Ðiền và Khu Trù Mật, Tổng
thống Diệm đã thành công cải thiện trong một khoảng thời gian ngắn ngủi diều
kiện sinh sống của giới nông dân nghèo khó:
- Gia dình họ được tư hữu hóa một mãnh đất trồng (từ
1 đến 5 ha).
- Con cái họ có cơ hội cấp sách đến trường, mà trước
kia, chúng không hề có dịp may để học hành.
- Ðiều kiện sức khỏe của dân chúng được cải thiện rõ
rệt. Các nhóm y tế lưu động viếng thăm có định kỳ các Khu Dinh Ðiền. Nhờ viện
trợ kỹ thuật và tài chánh của Cơ Quan Y Tể Liên Hiệp Quốc và các nước bạn (Hoa
Kỳ, Pháp), nhiều đoàn y tế có nhiệm vụ rải thuốc bột DTT, đào giếng (để cung
căp nước uống), lấp bằng các vùng sình lầy nứoc ứ đọng, để diệt trừ các ô phát
sinh ra một vài chứng vài chứng bệnh truyền nhiễm như bệnh sốt rét chẵng hạn,
hoặc các bệnh tật khác có tính cách giới hạn trong địa phương. Người ta cũng
nhận thấy kỹ thuật cạnh tác và chăn nuôi đạt nhiều tiến bộ ở các Khu Dinh Ðiền
và Khu Trù Mật. Nhiều trại nông nghiệp hướng dẫn nông dân. Duới sự chỉ đạo,
hướng dẫn của các cán bộ nông thôn, cày, bừa, trục, máy cày được áp dụng. Nông
đân cũng được hướng dẫn áp dụng đa canh, lựa chọn giống cho năng suất cao, Sử
dụng phân hóa học thích hợp với từng loại đất trồng và khí hậu ở mỗi địa phương
v.v... Chăn nuôi heo ngoại quốc, heo lai giống địa phương cho năng suất cạo
được phát triện lần lần, kỹ thuật chăn nuôi nầy được nông dân ở các làng bao
quạnh các Khu Dinh Ðiền và Khu Trù Mật noi gương theo. Trao đổi thương mãi giữa
các Khu Dinh Ðiền, Khu Trù Mật và thành phố lân cận ngày càng phát triển, vượt
khỏi hẵn ra ngoài địa phương. Dần dần, Khu Trù Mật biến đổi, trở thành một thành
phô' nhỏ. Nhờ tín dụng lãi suất thấp, những nhà tiểu công nghiệp vay tiền thành
lập các tiểu xí nghiệp. Nhiều sinh hoạt xưởng chữa xe, máy cày, trạm bán thuôc
tây v.v... mọc lên như nấm. Từ năm 1961, Tổng Thoiongs Ngô Đình Diệm quyết định
biến đổi tất cå các làng mạc cổ truyền thành “ấp chiển lược”, theo kiểu của các
Khu Dinh Điền. Trong bản thông điệp của Tổng Thống Ngôi Đình Diệm được chuyển
đến Quốc Hội (1-10-1962), Ông cho biết là “thôn dân sinh sống an toàn trong
5.758 Ấp Chiển Lược, với tổng số dân lên đến 9.253.000 nguời” (26).
Khi thực hiện quy chế tá cành và cải cách điền địa,
kèm theo chính sách dinh điền và khu trù mật Tổng Thống Ngô Đình Diệm nhắm mục
đích xóa bỏ dần chế độ phong kiến về quyền sở hữu ruộng đất, xóa bỏ dần những
bất công xã hội thời thuôc địa. Ông cũng tìm cách nâng cạo dần mức sống của
giới nông dân, cô lập dân chúng với Việt Cộng. Trong 9 năm cầm quyền
(1955-1956), có 176.130 gia đình nghèo khó thuộc các thành phần tá điền và nông
dân tái định cư trở thành tiểu điền chủ từ 1 đến 5 ha ruộng đất trong số nầy:
- 126050 tá điền, với tổng số diện tích là 252.218
ha (chiếu theo Dụ số 57).
- 50.080 gia đình tái định cư với tổng số diện tích
là 109.879 ha.
Tổng cộng, 176.180 gia đình nghèo khó, trở thành
điền chủ (khoảng gần bằng 20% tổng sô' tá điền miền Nam)' với tổng số diện tích
là 361.595 ha. Nhờ kỹ thuật cạnh tác tiến bộ và nhờ sử dụng phân bón hóa học,
năng suất ruộng lúa gia tăng: từ 1,4 tấn/ha trong những năm 1950-1954, năng
suất nầy đã vọt lên 2t/ha năm 1960-1963. Sư kiện nầy rất có ich lợi cho nông
dân và lợi tức củ họ không ngớt gia tăng đều, đồng thời VNCH bắt đầu tái xuất
cảng gạo và phó sản: 70.000 tấn năm 1955, 323.000 tấn năm 1963 (được xếp hạng
nhì, sau các sản phẩm được xuất cảng). (27)
Mặc dầu kinh tế nông nghiệp được cải tiến, chính
sách cảí cách điền địa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đem lại kết quả khiêm tốn,
hạn chế. Số tá điền trở thành chủ điền ít oi. Chỉ có gần 20% được hữu sản hóa,
trong khi ấy, trên 80% chưa được thỏa mãn.
Theo nguồn tin chính thức(28), 795.480 gia đình nông
dân còn tiếp tục phải trả địa tô cho chủ điền vào năm 1960-1968, với tổng sổ
diện tích là 1.331.589 ha (nghĩa là 74% tổng số diện tích ruộng lúa ở đồng bằng
sông Cữu Long). Tuy nhiên, nếu ta đặt lại trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ,
thì ta sẽ thấy rằng chính sách cải cách điền địa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
rất thích hợp với hoàn cảnh xã hội và kinh tế. Thật vậy, sau Hiệp định Genève
(Tháng 7-1954), Tổng Thống Ngô Đình Diệm phải đối phố với nhiều vấn đề khó
khăn:
- Tái xây dựng đất nước sau 9 năm chiến tranh tàn
phá.
- Tái định Cư cho 850.000 đồng bào miền Bắc di cư
vào nam tỵ nạn Cộng sản.
- Nội chiến vào năm 1955: một vài đảng phái (được lực luợng Bình Xuyên và một vài tôn giáo ( Cao Ðài, Hòa Hảo tích cực ủng hộ) vẫn trung thành với Hoàng để Bảo Ðại, chống đối bằng vũ trang, tìm cách đảo chánh lật đổ chính quyền của Thủ tướng Ngô Ðình Diệm lúc bấy giờ.
- Nội chiến vào năm 1955: một vài đảng phái (được lực luợng Bình Xuyên và một vài tôn giáo ( Cao Ðài, Hòa Hảo tích cực ủng hộ) vẫn trung thành với Hoàng để Bảo Ðại, chống đối bằng vũ trang, tìm cách đảo chánh lật đổ chính quyền của Thủ tướng Ngô Ðình Diệm lúc bấy giờ.
- Chiển tranh xâm lược của Cộng sản Hà Nội vẫn đe
dọa miền Nam sau Hiệp định Genève.
Thủ tướng Ngô Đình Diệm đã thắng cuộc nội chiến và
hủy bỏ chê' độ quân chủ của Bảo Đại (sau một cuộc trưng cầu dân ý). Chế độ Cộng
Hòa đã được ban hành ngày 26-10-1956. Tổng thống Ngô Đình Diệm được lòng dân và
nhân cơ hội hòa bình được vãn hồi vào những năm 1956-1960, Ông tìm cách cũng cố
quyền hành và tái phát triển nền kinh tế quốc gia.
Chính sách nầy đi song hành với việc tăng cường quân
sự, để đối phó lại hiểm họa xâm lược của Cộng sản miền Bắc. Chính hiểm họa nầy
mới là mối ưu tiên nhất của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Để đạt chiến thắng trong
cuộc chiến tương lai đầy cam go, ông cần tập hợp, thực hiện sự đoàn kết của
toàn dân.
Sinh quán tại Quảng Bình (Trung nguyên Trung phần
Việt Nam) năm 1903, Tổng Thống Ngô Đình Diệm xuất thân từ một gia đình “quan
lạ”i nổi tiếng ở miền Trung. Ông là người sùng đạo Thiên Chúa, được nhân dân
miền Trung và đồng bào Công Giáo miền Bắc đi cư vào Nam triệt để ủng hộ. Nhưng
Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng cần đến sự ủng hộ của nhân đân đồng bằng sông Cửu
Long. Họ chiếm 2/3 dân số' VNCH (29). Bởi Vậy, trong cải cách điền địa, Tổng
Thống Ngô Đình Diệm cần phải lưu tâm đến nguyện vọng của nhân dân miền Nam nầy.
Trên 4/ 5 diện tích ruộng lúa tập trung trong tay của giới trung điền chủ (5-50
ha) và đại điền chủ (trên 50 ha). Mặc dù thiểu số (72.073 nguời) (30), so với 1
triệu gia đình tá điền, trung điền chủ (65.7 57 người) và đại điền chủ (6.316
nguời) thuộc các thành phần ưu tú của đất nuớc, mà trong số những người nầy,
Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã chọn các cộng sự viên. Ða số thuộc những người quốc
gia, có khả năng, mà Tổng Thống có nhiều tin cậy. Họ trực tiếp lãnh đạo dân, từ
trung ưong (các bộ) đến địa phương (tỉnh, quận, huyện, xã-ấp). Tuy nhiên, Ông
không thể lãng quên giới nông dân nghèo khó, bị áp bức dưới thời thuộc địa dẫy
đầy bất công xã hội. Việt Minh đã biết cách khai thác khéo léo hoàn cảnh nầy,
trong thời kỳ chiến tranh giành độc lập (hủy bỏ tá cạnh, phát không ruộng đất
cho tá điền ở các vùng “giải phóng”). Nhờ chiến thuật nầy, họ đã thành công lấy
cảm tình thôn đân và được họ tích cực ủng hộ. Nhờ đó, Việt Minh đã “chiến đấu”
đạt đến thắng lợi. Sau khi đất nước chia đôi năm 1954, nông dân miền Nam vẫn
còn giữ lại nhiều kỷ niệm, nhiều cảm tình đối với các lãnh tụ miền Bắc, nhất là
“Bác Hồ kính yêu”.
Bởi Vậy, nhiệm Vụ của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm rất tế
nhị. Làm sao đã phá huyền thoại Việt Mính? Họ là những người Cộng sản độc tài,
khát máu. Họ không bao giờ tôn trọng nhân quyền, tôn trọng quyền sở hữu ruộng
đất, trái ngược hẳn những gì họ đã làm, đã thực hiện, trong suốt 9 năm chiến
tranh giành độc lập (19/1.5-1954).
Sau Hiệp định Genève, 850.000 đồng bào miền bắc di
cư vào Nam tỵ nạn Cộng Sản (1954-1955) và chính sách cải cách ruộng đất đẫm máu
của Hồ Chí Minh (1955-1956) đã gây nhiều tiếng vang ở miền Bắc lúc bấy giờ. Mặc
dù thế, chính phů Sàigòn đã không thành công đã phá huyền thoại Việt Minh,
không thành công thuyết phục nhân dân miền Nam về hiểm họa Cộng sản. Họ không
tin hoặc không muốn tin. Ðể đối phó lại Cộng sản miền Bắc trên phương diện
chính trị, Tổng thống Ngô Đình Diệm hành động ngược lại. Nhưng làm thế nào tạo
điều kiện thuận lợi để tá điền trở thành chủ điền thật đông đảo, mà không gây
nhiều thiệt hại và sự bất mãn của các đại điền chủ, vì ruộng đất họ sẽ bị truất
hữu. Họ lại là thành phần quốc gia, là cộng sự viên đắc lực của Tổng thống Ngô
Đình Diệm?
Vì đặc biệt lưu tâm đến vấn đề đoàn kết quốc gia,
nên Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã áp dụg chính sách cải cách điền địa ôn hoà, một
sự chọn lựa thận trọng. Chỉ một thành phần nhỏ bé thuộc giới đại điền chủ bị
truất hữu thôi (các đại điền chủ có trên 100 ha): 2.035 bị truất hữu, nghĩa là
82% tổng số đại điền chủ có trên 50 ha. Trong 3 năm cuối cùng cầm quyền
(1960-1963), Tổng Thống Ngô Đình Diệm rất khó thi hành chính sách cài cách điền
địa, Vì chiển tranh du kích không ngớt gia tăng. Bằng bất cứ giá nào, Việt Cộng
cũng tìm cách phá hoại, đánh bại chuơng trình cài cách điền địa của Tống Thống
Ngô Đình Diệm, nhằm mục đích ngăn chặn, không để ông cũng cố quyền hành ở miền
Nam:
- Cấm tá điền làm đơn xin mua ruộng đất truất hữu.
- Cấm tá điền ký hợp đồng với chủ điền, chiếu theo
quy chế tá canh của Tổng thống Diệm.
- Hủy bỏ địa tô.
- Ám sát cán bộ và chuyên viên nông thôn, đặc trách
hướng dẫn áp dụng thì hành quy chẽ tá canh và cài cách điền địa.
- Phá hoại các nông thôn kiểu mẫ hướng dẫn nông dân
canh tác, phá hoại các trung tâm thí nghiệm trồng tỉa và chăn nuôi v.v...
Dưới sự đe dọa của Việt cộng, nông dân không dám lập
thủ tục hành chánh để mua ruộng đất truất hũu, và điền chủ bắt buộc phải từ bỏ
quyền địa tô.
Diện tích ruộng lúa truất hữu có sẵn để hữu sản hóa
cho các tá điền là 405281 ha [34]
- Diện tích ruộng truất hữu teho Dụ số 57 ngày
22-10-1956 là 651.132 ha.
- Diện tích ruộng truất hữu có sẵn để hữu hóa tá điền là: 631.182 ha -245.851ha : 405281 ha.
- Diện tích ruộng truất hữu có sẵn để hữu hóa tá điền là: 631.182 ha -245.851ha : 405281 ha.
Vì không có đơn xin hữu sản hóa ruộng đất, nên số
diện tích ruộng đất nêu trên bị bỏ hoang. Như vậy, chính sách cãi cách điền địa
của Tổng Tổng thống Ngô Đình Diệm bị gặp nhiều trở ngại, vì nông thôn thiếu an
ninh. Sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm qua đời (cuộc đảo chánh ngày l-11-1963,
chế độ chính trị miền Nam trở nên bất ổn. Các cuộc đảo chánh thuờng xuyên xảy
ra, chính phủ nội các bị thay đổi nhiều lần. Do đó, đường lối, chính sách thiếu
liên tục. Chính sách cãi cách điền địa của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị gián
đoạn từ năm 1963 đến năm 1967, đồng thời chính sách dinh điền và khu trù mật
cũng tạm đình chỉ.
Trở thành “Chủ tịch Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng”,
Tướng Duơng Văn Minh quyết định hủy bỏ “Ấp Chiến Luợc”, không được lòng dân.
Chính phủ đổi tên lại gọi là “Ấp Ðời Mới” hay “Ấp Tân Sinh”. Thừa dịp có sự sự
tranh chấp quyền hành trong nội bộ của chính quyền miền Nam, “Mặt Trận Giåi
Phóng” đã tìm cách gây ản hưởng và kiểm soát nông thôn, áp dụng chiến thuật cổ
điển, lấy nông thôn bao vây thành thị. Vì nền an ninh nông thôn bị xuống cấp
trong những năm 1963-1967, nên Việt Cộng đã thành công len lỏi xâm nhập vào các
trung tâm dinh điền và các ấp đời mới. Họ thành lập các tổ đặc công khủng bố
nhằm mục đích gây ra tình trạng thiếu an ninh thường trực ở nông thôn. Họ gia
tăng bắt cóc cán bộ nông thôn, ám sát các yếu nhân dịa phuơng, các cán bộ đặc
trách an ninh xã-ấp v.v…
- Ở những vùng đặt dưới quyền kiểm soát của họ, họ
phân chia ruộng đất thành từng lô và phát không cho các tá điền giống y như họ
đã thực hiện trong thời chiến tranh giành độc lập.
Bị mất kiểm soát một phần lớn thôn dân, chính quyền
miền Nam khó có thể đơn phương đương đầu lại chiển tranh xâm lược của Cộng Sản
Bắc Việt. Nhờ sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ và các nước bạn khác (Úc, Thái
lan, Phi Luật Tân, Nam Hàn) vào năm 1965, VNCH đã thành công khôi phục lại tình
hình quân sự và chính tri, nông thôn dần dần được vãn hồi an ninh. Trật tự ở
thành thị cũng được đảm bảo, sau khi Hiến Pháp được ban hành(ngày 1-4-1967).
Tiếp liền theo đó, có Cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội mới. Trở thành Tổng
thống của nền Ðệ nhị cộng hòa, Tướng Nguyễn Văn Thiệu tiếp tục công trình dang
dở cải cách điền địa của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Gs
Lâm Thanh Liêm
-------------------------
Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia
No comments:
Post a Comment