Được
đăng ngày Thứ ba, 16 Tháng 9 2014 18:55
Trái
với những gì mà các nhà bình luận phương Tây vẫn thường nói, âm mưu thôn tính
toàn bộ biển Đông của Trung Quốc không phải là vì tham lam tài nguyên dầu khí
dưới lòng biển này cũng như là khối lượng cá tôm ở đây mà nó có tính cách ý thức
hệ. Nó nằm trong tiềm thức của hầu hết người Hoa.
Giống
như người Mỹ trong thế kỷ 19, coi việc bành truớng nước nước Mỹ từ bờ Đại Tây
Dưong đến Thái Bình Dương như “sứ mạng hiển nhiên” thì người Hoa trong thế kỷ
thứ 21 này cũng vậy. Cái cảm ngĩ rằng Trung Quốc có quyền làm chủ biển này nằm
sâu trong lịch sử lâu dài của đế quốc Hán vốn nhìn những nước lân bang đạc biệt
là những nước ở phía nam như là mọi rợ - “nam man” danh từ mà các cuốn sử Trung
Quốc gọi các dân tộc ở phía nam
Có
thể rằng sẽ phải mất nhiều thập niên nữa trước khi hải quân Trung Quốc có thể
so sánh được với lực lượng hải quân Hoa Kỳ và các nước đồng minh của Mỹ tại
Thái Bình Dương, nhưng bằng cách đặt được những chỗ đúng nhỏ ở xa vùng biển của
mình, Trung Quốc hy vọng làm khiếp sợ những nước láng giềng nhỏ và tạo ra một
đe dọa với các nước lớn hơn và nền thương mại của họ. Đó chính là giai đọan đầu
của một kế họach lâu dài biến biển Đông, một vùng biển mà từ hai ngàn năm nay
là một điểm gặp gỡ giao lưu của các nền văn hóa và một trung tâm thương mại
toàn cầu nhưng chưa bao giờ bị chi phối bởi Trung Quốc trở thành một cái “hồ
riêng của Trung Quốc”
Tên
tiếng Anh của biển Đông “South China Sea” là một sai lầm mà Bắc Kinh bám lấy để
tự nhận biển này là của mình. Danh từ mà trước kia các đế quốc tại Trung Quốc
dùng để gọi biền này bao gồm Nam hải, vùng biển phía bắc giáp giuới với Quảng
châu và Hương Cảng cho đến Đài Loan và “Giao chỉ hải”, biển Giao Chỉ,
vùng biển phía nam đảo Hải Nam, một nhận thức rằng vùng biển này là giáp với Việt
Nam chứ không dính dáng gì đến Trung Quốc cả. Những người Âu đầu tiên đến vùng
biển này cũng không biết nó có dính líu đến Trung Quốc. Người Bồ Đào Nha đạt
tên nó là biển Cổ Chiêm (Cochin) đề phản ánh việc người Chiêm Thành là những
nhà hàng hải chính của biển này.
Nếu
muốn gọi biển này một cách chính xác nhất có lẽ phải gọi biển Đông này của
chúng ta là biển Mã Lai vì những dân tộc gốc Nam Đảo (Malaysia, Indonesia,
Philippines, thổ dân Đài Loan và cả Việt Nam cũng có một phần giòng máu này) là
những dân tộc chính sống chung quanh biển này. Trung Quốc (kể cả Đài Loan) chỉ
chiếm có khoảng một phần tư duyên hải phía bắc của biển này. Phần còn lại được
chia sẻ bởi năm trăm triệu người dân các nước Việt Nam, Philippines, Indonesia,
Brunei và Malaysia.
Quần
đảo Hoàng Sa vốn nằm trong tay Việt Nam cho đến năm 1974 khi Trung Quốc đánh
chiếm quần đào này từ tay Việt Nam Cộng Hòa là một trong những tranh chấp
chính. Tuy nhiên ngay cả nếu Trung Quốc có giành được chủ quyển trên quần đảo
này Trung Quốc cũng không thể ngang ngược lấn sang vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam vốn tính từ hòn đảo gần nhất có người ở. Việc giải quyết tầm mức của
vùng đặc quyền kinh tế mỗi nước tốt nhất là qua một phán quyết của một tòa án
quốc tế. Nhưng việc Bắc Kinh triển khai lúc gần đây của một giàn khoan trên
vùng biển gần bờ biển của Việt Nam cho thấy họ không hề có ý muốn thương thuyết
hoặc đưa ra tài phán quốc tế.
Hoàng
Sa còn có thể nói là gần bở biển đảo Hài Nam của Trung Quốc, nhưng những đòi chủ
quyền khác của Trung Quốc đối với những đảo san hô và bãi cạn mà một số nằm chỉ
cách bờ biển Philippines, Indonesia hoặc Malaysia chỉ vài hải lý trong khi cách
bờ biển mình cả ngàn hải lý thì hoàn toàn vô lý và nếu đưa ra quốc tế thì sẽ bị
thằng thừng bác bỏ vì vô lý.
Trung
Quốc khẳng định chủ quyền của họ trên những đao và bãi cạn này dựa trên “lịch sử”
những chuyến viếng thăm của các nhà hàng hải Trung Quốc, không hề biết đến những
người dân bản xứ vốn đã sống tại những nơi này từ hàng ngàn năm nay. Hành động
này của Bắc Kinh gợi lại những hành động của các tên thực dân da trắng trong thế
kỷ trước đến Phi châu hoặc Úc châu, bất chấp những dân bản xứ tự cắm cờ và nhận
vùng đất đó là do mình khám phá và chủ quyền của mình.
Ít
nhất là cho đến khi bị các nước thực dân da trắng chinh phục, các dân tộc, đạc
biệt là tại các hải đảo, tại Đông Nam Á vẩn là những khách thương chính của biển
này. Và quả thật ngọai trừ Việt Nam vồn nằm giáp giới với Trung Quốc và bị
Trung Quốc chinh phục, Trung Quốc hầu như không có ảnh hưởng gì đối với vùng
này về văn hóa. Ảnh hưởng văn hóa đầu tiên đến với vùng này là từ Ấn Độ mang
theo Ấn giáo, Phật giáo và văn tự Ấn đến cho các dân tộc tại đây. Sau đó là đến
các thương gia Ba Tư và Arab, mang đạo Hồi tới và sau cùng là nguời Âu. Buôn
bán với Trung quốc phần lớn là do những thương gia nước ngòai thực hiện, người
Hoa chỉ đến với việc buôn bán này một cách chậm trễ và những thương gia người
Hoa này cũng không phải là những đại diện cho vương triều tại Trung Quốc.
Trung
Quốc thưởng chỉ ra một cách tự hào về các chuyến hải hành của Trịnh Hòa thực hiện
vào đầu thế kỷ 15 trong đó Trịnh Hòa buộc các tiểu quốc chung quanh biển Đông
phải nhận thần phục Trung Quốc. Nhưng các chuyến du hành của Trịnh Hòa chỉ kéo
dài trong một giai đọan ngắn và sau đó Trung Quốc lại quay trở lại bế quan tỏa
cảng cho đến khi bị buộc phải mở của vì các nước phương Tây. Nhưng vế căn bản,
việc Trung Quốc tự nhận làm chủ cả vùng này không dựa vào một thực tê lịch sử
nào cả mà chỉ dựa trên một tinh thần tự tôn Hán tộc.
Niềm
tin vào tính chất độc nhất của dân tộc Hán mà điển hình là sự bác bỏ lý thuyết
về nguồn gốc loài người đến từ Phi châu hiện còn rất phổ biến tại Trung Quốc là
cơ sở cho những hành động của Trung Quốc hiện nay.
Nhưng
điều mà giới lãnh đạo Trung Quốc quên rằng những hành động ngang ngược dựa vào
sức mạnh đó có thể thực hiện ở thế kỷ thứ 19 nhưng không thể thực hiện được ổ
thế kỷ thứ 21. Và trong cuộc đụng độ với 500 triệu dân Đông Nam Á, Trung Quốc
chắc hẳn sẽ thất bại.
Lê
Mạnh Hùng
No comments:
Post a Comment