31-1-2013
Vào
thời Hội nghị Paris (1968-1973), mỗi lần rời Hà Nội đi Paris, cả Lê Đức Thọ lẫn
các quan chức CSVN cao cấp khác đều đi bằng máy bay Liên Xô, phải ghé Bắc Kinh,
và phải dừng chân ở Mạc Tư Khoa để nhận chỉ thị của Trung Cộng và Liên Xô
trước. Họ phải tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh của hai anh cả vĩ đại CS quốc tế
này. Trên thực tế, các vấn đề ở Hội nghị Paris không do Bắc Việt hay công cụ
của họ ở Miền Nam quyết định mà do Trung Cộng lẫn Liên Xô trao đổi và đồng ý
với Mỹ trước trong những cuộc “có qua có lại” giữa họ với Mỹ mà Henry Kissinger
con thoi.
Sự
lệ thuộc của CSVN đối với Nga-Tàu như vậy đã rõ. Thế nên, chúng ta không ai
ngạc nhiên khi nghe Lê Duẩn (Tổng Bí Thư Đảng CSVN) công khai tuyên bố: “Ta
đánh là đánh cả cho Trung Quốc, cho Liên Xô!” mà chính cựu Bộ trưởng
Ngoại giao CSVN Nguyễn Mạnh Cầm xác nhận nguyên văn trong khi trả lời phỏng vấn
của Tuần Việt Nam vào tháng đầu năm 2013 này. (BBC trích dẫn ngày 24/01/2013).
Đỉnh
cao của nền ngoại giao?
Trước
lời thú nhận của Lê Duẩn như trên cũng như việc làm của Phạm Văn Đồng qua Công
hàm năm 1958, lẽ ra với quốc dân Việt Nam, CSVN phải cúi đầu nhận tội bán nước,
nhưng ngược lại đến nay bộ máy tuyên truyền của CSVN vẫn huênh hoang về thành
tích “bách chiến bách thắng”, về “đỉnh cao trí tuệ” của đảng ta. Bài viết của
VnExpress ngày 5/1/2013 với nhan đề “Hiệp
định Paris, đỉnh cao của nền ngoại giao Việt Nam” là bằng chứng.
Đỉnh
cao ấy là gì? Truyền thông không phò đảng trong nước mấy hôm nay đã thẳng thắn
chỉ ra những lời lẽ tâng bốc tô hồng láo xược của tập đoàn CS Hà Nội. Đến cả
người trong cuộc, như cựu Bộ trưởng Ngoại giao CSVN Nguyễn Mạnh Cầm, khi trả
lời phỏng vấn của Tuần Việt Nam (thuộc hệ thống Vietnamnet), cũng phát biểu
toạc móng heo rằng: "Tâm thức nô dịch và bá quyền, chinh phục và triều
cống nhiều khi vẫn lấn lướt, tư duy 'một mất một còn' vẫn nổi trội trong các
mối bang giao".
Nguyễn
Mạnh Cầm có lẽ ngại vạch mặt chỉ tên ai nô dịch ai, ai triều cống
ai, ai bá quyền, ai kẻ chinh phục! nhưng toàn thể nhân dân Việt
Nam đều chắc chắn cái tâm thức “nô dịch” và “triều cống” ấy đích thị là của
CSVN chứ không là của ai khác: “Nô dịch” đối với “bá quyền” Trung
Quốc và “triều cống kẻ chinh phục” là Hán triều, giặc xâm lăng từ phương
bắc. Có khác là khác ở chỗ ngày xưa vua nước ta nếu có phải triều cống thì chỉ
triều cống ít vàng bạc hay ít món ngà voi, ngọc trai, còn ngày nay CSVN triều
cống cả đất liền, hải đảo và mặt biển.
Chuyện
tiếu lâm đỉnh cao Lê Đức Thọ
Trở
lại chuyện đỉnh cao. Chưa bàn đến những “đỉnh cao” của trí tuệ cộng sản mà CSVN
luôn khoe khoang là kỳ vĩ nhất, chỉ xin nêu ra một chuyện tiếu lâm nhỏ về những
cái bắt tay giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ mà người CSVN cũng hãnh diện cho
đó cái “đỉnh cao của nền ngoại giao” CSVN.
Suốt
thời gian diễn ra “hòa đàm” Paris (1968-1973), Kissinger và Lê Đức Thọ có nhiều
cuộc đi đêm, và đương nhiên cũng không có ít những cái bắt tay mà ai cũng biết
là những cái bắt tay... ngoại giao. Ấy vậy mà sau khi CSVN cướp đoạt Miền Nam
VN bằng thủ đoạn gian trá vi phạm Hiệp định Paris, hàng hàng lớp lớp cán bộ
CSVN từ miền Bắc được tung rải vào khắp hang cùng ngõ hẻm Miền Nam để tuyên
truyền “đỉnh cao nghệ thuật ngoại giao của thiên tài ngoại giao đảng ta”.
Chẳng
hạn, tuyên truyền về tài nghệ ngoại giao “xuất chúng” của Lê Đức Thọ khi đối
diện với Henry Kissinger, loa tuyên truyền rêu rao rằng mỗi lần gặp Kissinger,
vì “nhu cầu chính trị” Lê Đức Thọ không thể không bắt tay “thằng đế quốc Mỹ
dơ bẩn” này khi hắn “chủ động chìa tay ra trước”. Thế nhưng có lần
“đồng chí cố vấn tối cao của đảng ta tại Hội nghị Paris” đã tỏ rõ thiên tài
nghệ thuật ngoại giao đỉnh cao trí tuệ của mình: Vừa bắt tay Kissinger xong,
đồng chí cố vấn Lê Đức Thọ đã “nhanh trí rút ra chiếc khăn tay từ túi quần, lau
sạch bàn tay, rồi thản nhiên nhét chiếc khăn tay vào túi quần trước mũi
Kissinger”.
Vào
thời đó, cán bộ CSVN nói năng quàng xiên thế nào cũng mặc, dân Miền Nam ai mở
miệng phản đối hay nói ngược lại ắt không khỏi bị chụp mũ phản động và bị tống
vào tù “cải tạo mút mùa” thậm chí có thể bị cho đi “mò tôm”. Vậy mà một hôm,
giữa buổi học tập chính sách ở một địa phương, có một cậu thanh niên miền Nam
xem ra khá ngổ ngáo, coi trời bằng cái vung, đã nhanh miệng lên tiếng: “Xin
lỗi, dường như ông cán bộ nghe nói hay đọc báo mới chỉ hai phần ba câu chuyện,
chưa đọc hay nghe hết đoạn kết”.
Tên
cán bộ tuyên truyền: “Sao mà anh đần thế? Câu chuyện tới đó ai cũng hiểu đã
nói lên cái gì rồi!” Cậu thanh niên nhẹ nhàng: “Cái thằng Mỹ Kissinger
nó ngốc lắm, đâu có hiểu thấu cái thâm của ông Lê Đức Thọ! Trước mấy chục ống
kính quay phim chụp hình, Kissinger im lặng, rút ra cái khăn tay mới toanh từ
túi quần y, lau đi lau lại bàn tay phải của y, rồi vứt mẹ cái khăn tay ấy vào
thùng rác gần đó”!
Tên
cán bộ tuyên truyền sượng chín mặt trong khi dân chúng thì vỗ tay tán thưởng.
Nhưng cậu thanh niên chưa chịu ngừng. Anh hỏi tên cán bộ: “Cán bộ có thấy
người đàn bà đứng gần đó là ai không? Bà Nguyễn Thị Bình, đại diện Chính phủ
Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam tức Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam
Việt Nam ấy. Bà ta nhìn theo cái khăn trong thùng rác có vẻ thèm thuồng rồi lầm
bầm gì đó chẳng ai nghe, nhưng ai cũng biết là bà từ trong bưng (rừng) mới ra!
Bà ấy tiếc hùi hụi cái khăn tay ấy”. Không ai biết số phận cậu thanh niên
sau đó ra sao, chỉ biết là từ đó dân Miền Nam không còn nghe câu chuyện tiếu
lâm ấy nữa!
Đỉnh
cao nghệ thuật vừa đánh vừa đàm
Liên
quan tới Hiệp định Paris, truyền thông CSVN và báo chí phò đảng đồng ca bài ca
đỉnh cao trí tuệ vừa đánh vừa đàm. Tạp chí Cộng sản Điện tử (TCCSĐT) ngày
26/1/2013 khoe thành tích “vừa đánh, vừa đàm”: “‘Vừa đánh, vừa đàm’ là một
phương pháp cách mạng, một biện pháp chiến lược đầy sáng tạo... kết hợp chặt
chẽ đấu tranh, quân sự, chính trị, ngoại giao, vừa kiên quyết, vừa khôn
khéo...”
Khôn
khéo lắm đến độ người thành cáo! Bản chất “khôn khéo” của chồn cáo theo như lời
tự khoe CSVN rõ ràng là bằng chứng thiết thực cho thấy cái gian manh độc ác của
Cộng sản không phải chỉ với kẻ thù của họ mà còn cả với thành phần thanh thiếu
niên Miền Bắc do CS thống trị. Độc ác ở chỗ nào? Ở chỗ lùa đẩy thanh thiếu niên
Miền Bắc xâm nhập vào Nam để chết cho Cộng sản sống, tiếp tục gây ác! Chứ không
chỉ đơn thuần tiêu diệt tuổi trẻ Miền Nam mà thôi! Nhằm phục vụ bành trướng của
mộng bá quyền Cộng sản Nga-Tàu!
Thành
cổ Quảng Trị 1972 (1): Bằng chứng đỉnh cao.
Vụ
lãnh đạo CSVN miền Bắc xua hàng vạn thanh thiếu niên Miền Bắc vào chết thay cho
họ ở cổ thành Quảng Trị Mùa Hè Đỏ lửa 1972 là bằng chứng cụ thể.
Theo
Huy Đức trong “Bên Thắng Cuộc” do BBC trích dẫn (2), thì “những người
chỉ huy chiến dịch Quảng Trị chịu rất nhiều áp lực từ các cuộc Hội đàm giữa
Kissinger và Lê Đức Thọ.”
Một
tướng CS Bắc Việt, tướng Lê Hữu Đức thừa nhận: “Cố đánh Quảng Trị là do
nhu cầu đàm phán.”
Một
tướng khác cũng của Bắc Việt, người chỉ huy chiến dịch Quảng Trị, tướng Lê Phi
Long đã phải kêu lên: “Ông Lê Đức Thọ không hiểu bằng con đường nào, thường
xuyên điện thẳng cho các sư đoàn không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa
để nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh. Kỳ quặc! Chúng tôi, cơ quan tham mưu,
không đồng tình với cách làm này nhưng không biết than thở với ai”.
Cuộc
tiến công đánh chiếm Quảng Trị của CS Bắc Việt đã đưa đến hậu quả là gây chết
chóc cho ít nhất là 2 vạn sinh linh, đa số là người dân hiền lành chất phác chỉ
biết lam lũ làm ăn sinh sống.
Còn
binh lính phía Cộng sản thì sao? “Mỗi ngày, quân miền Bắc trung bình mất một
đại đội. Đến đêm 16-9-1972, một bộ phận nhỏ còn lại buộc phải rút khỏi thành
cổ, sau 81 ngày đêm khốc liệt,” Huy Đức ghi nhận.
Tướng
Lê Phi Long kể: “Sáng 17-9, Cục Tác chiến mới nhận được điện báo ‘Thành
Cổ mất tối hôm qua’. Trong khi đó thì trên phòng họp, Quân ủy Trung ương
vẫn đang bàn về ‘phối hợp đấu tranh quân sự chính trị và ngoại giao’ thông qua
mặt trận Quảng Trị. Dự họp có Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Trần Quốc Hoàn,
Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh, Tố Hữu và các vị trong thường trực Quân ủy.
Lúc này Lê Đức Thọ đã có mặt ở Paris để hội đàm với Kissinger.”
Tới
đây, người viết không thể nào bỏ qua những lời tâm sự não nề của tướng CS Bắc
Việt Lê Phi Long mà Huy Đức đã ghi lại trong một cuộc phỏng vấn hồi năm 2008,
nói lên sự thật phũ phàng về sự tàn nhẫn cực độ của bọn chóp bu CSVN chẳng
những đối với Miền Nam VN mà còn đối với cả những con người thuộc về phía họ:
“Lực
lượng chiếm giữ Thành Cổ khi đó nói là có mấy tiểu đoàn nhưng trên thực tế chỉ
còn phiên hiệu, mỗi tiểu đoàn chỉ còn ba bốn chục người. Việc bổ sung quân số
tiếp tế qua sông hết sức khó khăn. Nhiều sinh viên đã phải rời giảng đường để
nhập ngũ. Nhiều tân binh chưa gặp mặt người chỉ huy đã ngã xuống. Nhiều cán bộ
chỉ huy ngày đêm vất vả, râu tóc mọc kín mặt mà không có thời gian cắt cạo.
Trong hầm phẫu ở ngay dinh Tỉnh Trưởng cũ thường xuyên có trên dưới 200 thương
binh, sặc mùi hôi thối. Các lực lượng trong Thành Cổ thì chiến đấu một cách
tuyệt vọng, còn các đơn vị ở các hướng khác, tuy có cố gắng đánh vào cạnh sườn
để hỗ trợ cho lực lượng ở trong Thành nhưng cũng không tạo được hiệu quả.”
“Chiến
dịch Quảng Trị kéo dài, thương vong rất lớn, có thể nói là lớn nhất so với tất
cả các chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến. Mỗi lần nghĩ lại tôi rất đau
lòng. Ta đã tung hết lực lượng, đã kiệt quệ. Có lúc tôi đã phải điều học viên
trường Lục Quân về gần thủ đô lập một lữ đoàn để bảo vệ Trung ương, vì hết cả
quân.”
Đấy!
Chiến thuật thí quân, chiến thuật biển người của Mao Trạch Đông!
Về
việc ai phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đối với thất bại của chiến dịch
Quảng Trị và hàng vạn cái chết vô nghĩa năm 1972, ông Long thắc mắc “Mãi đến
bây giờ (2008), tôi và nhiều đồng nghiệp vẫn chưa hiểu vì sao ta phải cố thủ
thành cổ với một giá đắt như vậy, ai chủ trương, ai chịu trách nhiệm trước lịch
sử? Có cán bộ cấp trên giải thích rằng do yêu cầu của đấu tranh ngoại giao, cần
giữ vững thành cổ để phối hợp với cuộc đàm phán tại hội nghị Paris!!!”
Những
“tâm sự” trên đây bạch hóa điều này là: Chẳng hề có một chiến binh hay du
kích quân nào của cái gọi là MTDTGPMNVN hoặc một nhân vật nào dù là cấp thấp nhất
của cái gọi là CPCMLT/CHMNVN có mặt trong các đơn vị đánh cướp cổ thành Quảng
Trị! Và cũng chẳng có “nhân vật” nào trong cái cơ cấu mang hai danh xưng
nêu trên được hân hạnh dự phần ở bất cứ đẳng cấp nào trong bất cứ giai đoạn nào
của chiến dịch Quảng Trị!
Cuộc
chiến tại Miền Nam Việt Nam vì vậy rõ ràng là cuộc chiến của Hà Nội, do Hà Nội
phát động – theo lệnh của Nga Cộng, Tàu Cộng, để đáp ứng mục tiêu “Ta
đánh là đánh cả cho Trung Quốc, cho Liên Xô!” như Tổng Bí Thư CSVN Lê
Duẩn minh thị.
Cho
nên, những Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Hộ, Tạ Bá
Tòng... đã là bù nhìn từ buổi đầu hình thành cái gọi là MTDTGPMNVN, rồi là bù
nhìn của cái gọi là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời CHMNVN, để cuối cùng tới thời
CHXHCNVN, những bộ mặt ấy càng lộ rõ là bù nhìn chẳng làm nên trò trống gì hơn
là ngồi làm cảnh tạm bợ trong bộ máy chính quyền CS Hà Nội!
Đỉnh
cao thiên tài thi ca của lãnh tụ
Một
đỉnh cao khác mà Tạp chí Cộng sản ra sức tuyên truyền nhân đề cập tới đỉnh cao
vừa đánh vừa đàm cho Hiệp định Paris năm 1973, đó là đỉnh cao thơ ca của Hồ Chí
Minh.
Trở
lại bài báo “Vừa
đánh, vừa đàm” ngày 26/01/2013, TCCSĐT khoe bài thơ chúc Tết ngày
01/01/1969 của Hồ Chí Minh, trong đó có câu “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào” mà tờ báo hết lời ca ngợi rằng đó là “một câu thơ cực kỳ giản dị,
mộc mạc, dân dã, ít có câu thơ Việt Nam nào mà những từ ‘cút’ và ‘nhào’ được
dùng đắt đến thế”. Đắt? Thế nào là đắt? Phải chăng đắt do tính chất sắt máu
của nó, tỏ rõ tính khí cực kỳ hiếu chiến háo thắng của tác giả bài thơ? “Văn là
người – Le style c’est l’homme”. Văn ông Hồ tố giác bản chất ông Hồ là vậy. Nó
không “đắt” sao được?
Tuy
nhiên chúng ta chẳng cần đào sâu làm gì vào cái văn và cái bản chất trong con
người ông Hồ. Điều đáng nói là sự dối trá lừa lọc của Cộng sản lại bộc lộ ở
đây. Từ trước 1972, sau 1975 và thời gian gần đây, CSVN không bao giờ ngừng cao
giọng “hòa hợp, hòa giải, xóa bỏ hận thù”. Cái lối đạo đức giả này được lặp đi
lặp lại liên tục, mà kẻ rộng miệng hô hào không hề biết ngượng. Họ bảo đối thủ
của họ phải “hòa hợp, hòa giải” trong khi họ vẫn cay cú đay nghiến “bọn ngụy –
ngụy quân, ngụy quyền”. CSVN ém cái nhóm từ ngữ hạ cấp này vào đầu óc dân gian
mộc mạc, một cách hả hê nhưng chưa thật hài lòng. Họ luôn tìm dịp hâm nóng nhóm
từ ngữ ấy lên, gây hận thù chia rẽ trong dân! Vẫn hằn học mạt sát, phản ánh cái
tâm lý say máu: “Giết! Giết nữa! Bàn tay không phút nghỉ… Cho Đảng bền lâu,
cùng rập bước chung lòng/Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Sít-ta-lin... bất diệt!” (Tố
Hữu).
Tóm
lại, tất cả những “đỉnh cao” của CSVN trước sau như một: Đỉnh cao phản bội dân
tộc, đỉnh cao phản bội Tổ quốc! Một lòng thờ đảng, một lòng thờ Mao Chủ tịch,
thờ Sít-ta-lin! Những quan thầy này mới là bất diệt, chứ không phải dân tộc
Việt Nam, đất nước Việt Nam! Và nhân dân Việt Nam chỉ biết cúi đầu tuân theo
lời đảng dạy: “Ta đánh là đánh cả cho Trung Quốc, cho Liên Xô!” Chống
Trung Quốc, chống Liên Xô là chống đảng! Phải trừng trị - nếu quần chúng tự
phát không đập chí tử thì kẻ chống đảng cũng phải tống vào tù hoặc vào bệnh
viện tâm thần... theo kiểu mẫu viện tâm thần thời Stalin ở Liên Xô và thời Mao
Chủ tịch ở Trung Cộng.
Tổng
Bí thư Đảng Nguyễn Phú Trọng không ngượng mồm khoa trương: “Đảng đã ban hành
nhiều nghị quyết rất "đúng", rất "trúng"”. Hoặc: “Đảng
đã bắt trúng bệnh và bốc đúng thuốc”. Và rồi ông ta tuyên bố chắc nịch: “Đảng
vững mạnh thì dân tộc ta sẽ mãi trường tồn.”
Nghĩa
là Việt Nam đã có đảng. Đảng là tối thượng, quyền đảng là tuyệt đối! Hiến pháp
để làm gì? Sửa đổi Hiến pháp ư? Trò ảo thuật! Đấu tranh cho chủ quyền biển đảo
ư? Đây, Nguyễn Phú Trọng phán: “Vấn đề biển Đông diễn ra phức tạp, các thế lực
thù địch tiếp tục tìm mọi cách chống phá Đảng, Nhà nước, nhằm gây mất ổn định
chính trị xã hội và đe dọa chủ quyền, an ninh quốc gia.” (3)
Rõ
ràng, theo Nguyễn Phú Trọng, chủ quyền quốc gia bị đe dọa không do bá quyền xâm
lược Trung Quốc mà do chính những người yêu thương đất nước mình! Những người
này bị quy chụp là “thế lực thù địch” và dĩ nhiên sẽ bị ăn đòn đều đều và ngồi
tù dài dài. Chỉ vì quê hương đất nước ta vẫn còn bị côn đồ và lưu manh đảng trị
thống lĩnh bằng luật rừng và hiến pháp đểu!
______________________________________
Chú
thích:
(1)
Quảng Trị Mùa Hè đỏ lửa 1972 (Tóm tắt).
Vào
lúc 5 giờ sáng ngày 24-4-72, CS Bắc Việt bắn gần 3 vạn quả đạn pháo vào các đơn
vị QLVNCH ở Đông Hà, Lai Phước, Ái Tử, La Vang. Chiều 28-4 Đông Hà, Lai Phước
rơi vào tay CS Bắc Việt.
Ngày
2-5-1972, mất Quảng Trị. Nhưng sau hai đợt chiến đấu liên tục, bộ đội CS Bắc
Việt trở thành những con mồi của QLVNCH. Một tuần sau, QLVNCH tái chiếm Hải
Lăng và một phần quận Triệu Phong rồi áp sát thị xã Quảng Trị. Lực lượng CS Bắc
Việt, tuy có năm sư đoàn nhưng quân số của mỗi đại đội chỉ còn từ 20 đến 30
người. Quân CS Bắc Việt hỗn loạn, kể từ 30/6, thay tướng liên tục: Văn Tiến
Dũng về Hà Nội “vì lý do sức khỏe”. Ngày 20-7 tướng Trần Quý Hai thay Lê Trọng
Tấn; Song Hào thay Lê Quang Đạo…
Từ
ngày 9 đến 16-9-1972, trận chiến trở nên quyết liệt. Mỗi ngày, quân miền Bắc
trung bình mất một đại đội. Đến đêm 16-9, nhóm nhỏ còn lại của quân CS Bắc Việt
buộc phải rút khỏi thành cổ, sau 81 ngày đêm khốc liệt.
(2)
Trước Paris 1973: 'Vừa đàm vừa đánh' Tư liệu từ cuốn 'Bên Thắng Cuộc', BBC 16
tháng 1, 2013.
(3)
Tất cả các trích dẫn của đoạn kết trên đều từ bài phỏng vấn của TTXVN ngày
20/01/2013 có nhan đề “Tổng bí thư: ‘Dư luận băn khoăn”.
dieu khac chan may
ReplyDeletedieu khac chan may nam
dieu khac chan may nu
điêu khắc chân mày
điêu khắc chân mày nam
điêu khắc chân mày nữ
dieu khac long may
điêu khắc lông mày
dieu khac long may nam
dieu khac long may nu