Đăng bởi: bsngoc
| 28/01/2013
Phải nói cho rõ là “hậu trường chính trị của chế độ Việt Nam theo chủ
nghĩa xã hội, hay cộng sản”. Đã có nhiều người
viết bài điểm sách, tôi không có gì để viết thêm. Tôi chỉ muốn rút ra vài điểm
chính sau khi đã đọc xong bộ sách. Theo tôi nghĩ những câu chuyện Huy Đức thuật lại trong sách có thể giải
thích tại sao nước ta nghèo hèn như hiện nay. Tôi cũng nghĩ các lãnh đạo thuộc
phe XHCN của miền Bắc phải chịu trách nhiệm lớn trước lịch sử về những sai lầm
của họ.
Một nhà văn hoá Âu châu từng nói rằng lịch sử chỉ là một
chuỗi câu chuyện về gia đình và thế giới. Bởi thế, kể chuyện là một phương tiện
có hiệu lực cao để giải thích những gì đã và đang xảy ra. Có thể khẳng định
ngay rằng bộ sách Bên thắng cuộc của Huy Đức không phải là sách lịch sử.
Huy Đức cũng nói rằng anh không viết sử. Tôi
xem Bên thắng cuộc là một chuỗi câu chuyện hậu trường chính trị Việt
Nam. Tất cả chúng ta cần phải biết những câu chuyện mà Huy Đức kể lại, bởi
vì những câu chuyện đó sẽ thắp lên một que diêm
trong cái lịch sử mờ ảo của Việt Nam vào những năm giữa thế kỷ 20 cho đến ngày
hôm nay.
Đọc phần I của tập sách tôi như xem một cuốn phim quay
chậm. Những kẻ một sớm chiều biến thành “Cách mạng 30/4”. Đốt sách. Cạo râu,
cắt ống quần. Cải tạo. Kinh tế mới. Đánh “tư sản mại bản”. Đổi tiền. Vượt biên.
Tất cả những biến cố đó là sự thật. Là người ở lại trong khi các đồng nghiệp
tìm được vượt biên tôi có thể nói rằng tất cả những gì Huy Đức ghi chép đều
đúng. Huy Đức không phải là người đầu tiên ghi lại những biến cố đau thương sau
1975. Trước Huy Đức đã có cụ Nguyễn Hiến Lê viết lại cẩn thận những sự kiện và
biến cố làm cho miền Nam suy sụp sau ngày “giải phóng” trong tập Hồi Ký nổi
tiếng nhưng bị nhà xuất bản cắt xén khá nhiều. Chúng ta thử đọc vài trích đoạn
trong Hồi Ký của cụ Nguyễn Hiến Lê trước khi đọc sách của Huy Đức.
Kẻ “thắng trận” muốn biến miền Nam nghèo như miền Bắc:
“Sự thất bại hiển nhiên của chế độ là sự suy sụp của kinh
tế như tôi đã trình bày sơ lược ở trên. Hậu quả là Việt nam trước thế chiến tự
hào là “tiền rừng bạc bể”, có những đồng lúa, đồn điền cao su mênh mông ở miền
Nam, những mỏ than, mỏ phốt phát phong phú ở miền Bắc mà bây giờ thành một
trong vài nước nghèo nhất thế giới.
Nhưng một người Balan trong Ủy ban kiểm soát quốc tế năm
1975 bảo chỉ trong 5 năm, miền Nam sẽ “đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như
miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở
ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quầ áo… về giúp bà con ở đây thì
chúng ta hiện nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi”.
Trong cùng lúc ra tay hành hạ dân miền Nam:
“Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết
vốn liếng, về Sài gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác
hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai
dép mủ… để bán cho “ve chai”. Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa
trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm
quá”.
Trong khi đó bản thân những kẻ “thắng cuộc” thì ăn hối lộ và tham nhũng:
“Ở tỉnh nào cũng có một số cán bộ tham nhũng cấu kết với
nhau thành một tổ chức ăn đút ăn lót một cách trắng trợn, không cần phải lén
lút. Có giá biểu đàng hoàng: xin vô hộ khẩu một thành phố lớn thì bao nhiêu
tiền, một thị xã nhỏ thì bao nhiêu, một ấp thì bao nhiêu. Muốn mua một vé máy bay,
vé xe lửa thì bao nhiêu. Muốn được một chân công nhân viên, phải nộp bao nhiêu…
Cái tệ đó còn lớn hơn thời trước”.
Họ tạo nên một xã hội trong đó con người mất nhân phẩm:
“Một cán bộ tài chánh xã mà không biết chia 72 cho 24.
Trong một buổi hội họp của Hội trí thức thành phố Hồ Chí Minh, một kĩ sư già
bực mình vì tình trạng cán bộ đa số dốt nát, bảo: “Tôi chấp nhận vô sản chuyên
chính, mà không chấp nhận vô học chuyên chính”. Ngay chiều hôm đó ông ta bị bắt
giam; sau cũng được thả ra”.
“Sống dưới chế độ cộng sản, con người hóa ra có hai mặt
như Sakharov đã nói: chỉ giữa người thân mới để lộ mặt thật, còn thì phải đeo
mặt nạ; luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng giềng, có khi cả người trong nhà
nữa. Người ta tính cứ 5 người thì có 1 người kiểm soát từng ngôn ngữ, hành vi
của 4 người kia. Ngay một phó viện trưởng cũng làm việc điểm chỉ đó mà bạn
trong viện không hay. Dĩ nhiên kẻ kiểm soát đó lại bị người khác kiểm soát lại.
Ở Nga thời Staline như vậy, ở Bắc những năm 1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam
đỡ hơn vì đa số người trong này không chịu làm thứ mật thám chìm đó”.
Tình trạng phân chia Nam Bắc càng nặng:
“Thất bại lớn nhất, theo tôi, là không đoàn kết được
quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc,
mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mĩ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng có thiện chí
tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng sau, cuối
1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc. Tôi nhớ
như ở phần trên tôi đã nói năm 1976, trong một cuộc hội nghị ở Sài gòn, bàn về
vấn đề thống nhất quốc gia, một học giả lão thành miền Bắc, ông Ðào Duy Anh (đã
có hồi sống ở Nam nhiều năm, có nhiều bạn thân ở Nam) khi được mời phát biểu ý
kiến, chỉ nói mỗi một câu đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan trọng nhất
là phải thống nhất nhân tâm đã. Cả hội trường sửng sốt và làm thinh.
Ông Anh đã nhận xét đúng và dám nói. Quả thực là lúc đó
có sự chia rẽ nặng giữa người Nam và người Bắc, Nam đã không muốn thống nhất
với Bắc rồi. Từ đó, tinh thần chia rẽ cứ mỗi ngày mỗi tăng, năm nay (1980) có
thể nói 90% người miền Nam hay hơn nữa, muốn tách khỏi miền Bắc”.
bởi vì một trong những nguyên nhân là:
“Người Bắc coi người Nam là ngụy, đối xử với người Nam
như thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”, tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm
nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mĩ thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho
họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: “Tôi là
kháng chiến, anh là ngụy thì tôi mới có lí, anh đừng nói nữa.
Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là
kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng
những dốt về văn hóa, kĩ thuật -điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh,
họ không được học- thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài
bẫy nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến.
Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng
đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái
không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú…”.
Nhưng cụ Nguyễn Hiến Lê ghi chép thời cuộc, tình hình
chung, còn Huy Đức thì cung cấp cho chúng ta những câu chuyện hậu trường, những
suy nghĩ cá nhân của những người nặn ra những chính sách ác ôn dẫn đến tình
hình mà cụ Nguyễn Hiến Lê nhận xét. Có thể nói rằng cuốn sách của
Huy Đức là một bổ sung quý báu cho hồi ký của cụ Nguyễn Hiến Lê.
Bây giờ chúng ta thử đọc xem Huy Đức đã cho chúng ta
chứng từ để giải thích cho những nhận xét của cụ Nguyễn Hiến Lê. Đọc xong bộ
sách tôi thấy những thông điệp sau đây lắng đọng trong tôi:
1.- Đó là một chế độ độc tài và toàn trị.
Người cộng sản nói rằng chế độ do họ dựng lên là dân
chủ tập trung. Nhưng trong thực tế chúng ta thấy rằng chẳng có gì là dân
chủ trong chế độ cộng sản. Tất cả các chính sách đều do một nhóm người trong Bộ
chính trị quyết định. Nhưng qua Bên thắng cuộc, chúng ta còn biết rằng
rất nhiều chính sách có ảnh hưởng đến hàng triệu người chỉ do một người quyết
định, bất chấp những lời khuyên của người khác. Điển hình cho tính độc tài là
quyết định mở cuộc tổng tấn công vào Tết Mậu Thân. Rõ ràng, đó là một chế độ
độc tài, sao gọi là dân chủ tập trung được.
Điều mỉa mai nhất là họ cáo buộc rằng chế độ VNCH là do
Mỹ dựng lên và tay sai của Mỹ, nhưng chính người lãnh đạo cao cấp nhất trong
chế độ CS là Lê Duẩn khẳng định rằng họ đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho
Trung Cộng. Hình như chưa một lãnh đạo miền Nam chưa ai trơ tráo nói rằng họ là
tay sai của Mỹ. Nói cách khác, chế độ CS
ngoài Bắc thời đó là một chế độ toàn trị tay sai của ngoại bang.
Tính toàn trị còn thể hiện qua việc Bộ chính trị kiểm
soát cả hành vi xã giao của các đồng chí họ. Đọc đoạn Huy Đức tả cái bắt tay hờ
hững của cựu thủ tướng Phan Văn Khải với ông Bill Clinton mà buồn cười về sự
trẻ con và thiếu văn hoá của lãnh đạo CS. Ông Khải không mở miệng cười với Bill
Clinton. Khi được hỏi tại sao lại có hành vi kém xã giao như vậy, ông Khải thú
nhận: “Không được đâu mày ơi, Bộ
chính trị đã thống nhất là không được cười”. Đoạn viết về một ông tướng
công an “làm việc” với ban giám hiệu Đại học Quốc gia Hà Nội để chỉ đạo lúc nào
nên cười, lúc nào nên vỗ tay, thậm chí những hành vi xem thường ông Bill
Clinton như để cho sinh viên đọc báo trong lúc ông nói. Tất cả những hành động
và sự giật dây đó là những minh chứng hùng hồn cho thấy chế độ toàn trị kiểm
soát tất cả hành vi sống của người dân.
2.- Nội bộ thiếu đoàn kết.
Thoạt đầu, ấn tượng của tôi về các vị lãnh đạo phe CSVN
là họ rất đoàn kết với nhau. Nhưng đọc qua Bên thắng cuộc và kinh nghiệm
cá nhân, tôi mới thấy ấn tượng đó rất sai lầm. Người CSVN, đặc biệt là trong
giới lãnh đạo thượng tầgn, rất ganh ghét và đố kỵ lẫn nhau. Huy Đức qua những câu chuyện cá nhân
phác hoạ một bức tranh rất xấu về Lê Đức Thọ và Lê Duẩn, hai người không ưa
tướng Võ Nguyên Giáp. Từ một tướng vang danh thế giới bị hạ xuống người đi đặt
vòng ngừa thai cho phụ nữ! Những ganh ghét và đố kỵ rất con người cũng giống
như các lãnh đạo thuộc phe VNCH. Nhưng có cái khác biệt căn bản là các lãnh đạo
VNCH hành xử có văn hoá hơn và có phần tế nhị hơn so với các lãnh đạo phe CS.
Họ sẵn sàng dựng nên những câu chuyện để bôi xấu lẫn
nhau. Vụ án “Năm Châu – Sáu Sứ” được Huy Đức mô tả khá rõ và cho thấy các đồng
chí thượng tầng CS có thể lập mưu mô để hạ bệ những ai họ không ưa thích. Họ
còn dám dùng cả những thủ đoạn thấp như photoshop để nguỵ tạo hình ảnh trai gái
để tố cáo ông Lê Khả Phiêu lúc đó là tổng bí thư đảng.
3.- Tàn nhẫn.
Sự hành xử của một số lãnh đạo CS cấp cao có thể nói là
tàn nhẫn. Sự tàn nhẫn thể hiện ngay giữa các đồng chí. Chúng ta thử đọc qua
đoạn mô tả Võ Chí Công, Đoàn Khuê và Nguyễn Đức Tâm trả thù Võ Viết Thanh sau
khi tướng Thanh bắt Năm Châu và Sáu Sứ:
“Tôi tới phòng làm việc của Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy
Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang
chờ. Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm nói ngắn gọn: ‘Chúng
tôi thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng chí hai nội dung. Trước hết,
xin chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị: Đồng chí là một cán bộ cao
cấp còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng rất tiếc, chúng tôi vừa
nhận được một số báo cáo tố cáo đồng chí hai việc: Một, ngay sau giải phóng,
đồng chí có cho bắt hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc phòng và từ đó hai cán bộ
này mất tích; hai, cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta trừ gian, chứ không
phải do địch giết. Vì vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí ra khỏi danh sách
tái cử vào Trung ương khóa VII’.”
Ông Võ Viết Thanh phản ứng như sau:
“Tôi hết sức bất ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì
tôi không còn kiềm chế được. Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi đã
định kéo khóa, rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng, tình hình lúc
đó, nếu tôi làm thế là tan Đại hội. Tôi cố nuốt cơn tức giận.”
4.- Lừa gạt và dối trá.
Người dân đã bị bộ máy tuyên truyền của chế độ định hướng
suy nghĩ và cảm nhận. Những trẻ em mới lớn lên đã bị bộ máy tuyên truyền nhồi
nhét rằng các vị lãnh đạo đáng kính suốt đời hy sinh hạnh phúc cá nhân để đấu
tranh cho bình đẳng xã hội. Họ còn bị nhồi nhét rằng chế độ VNCH là chế độ ác
ôn, với những con người ăn trên ngồi trốc, trong khi phần lớn người lao động
phải sống khổ cực. Nhưng Bên thắng cuộc lột trần “huyền thoại” cao cả
của các lãnh đạo CS. Sự thật nói lên rằng họ chính là những người ăn trên ngồi
trốc. Trong khi người dân không đủ cơm ăn thì họ phè phỡn với bơ sữa từ Đông
Âu. Họ có những vườn rau riêng. Họ có một đội quân bác sĩ chăm sóc sức khoẻ
dưới danh xưng “Ban bảo vệ sức khoẻ trung ương”. Người dân không có thuốc điều
trị nhưng lãnh đạo CS thì có thừa. Nếu lấy cái nền lãnh đạo VNCH có đặc quyền
đặc lợi là 1 thì những người lãnh đạo CS có đặc quyền đặc lợi phải lên đến 100.
Do đó, tất cả những gì người CS phỉ báng giới lãnh đạo VNCH thì cũng chính là
những gì họ phỉ báng chính họ với cường độ cao hơn 100 lần. Một cách ngửa mặt
lên trời phun nước bọt.
5.- Đạo đức giả.
Báo chí miền Bắc thường ra rả tuyên truyền rằng lãnh đạo
VNCH là những kẻ ăn chơi, đa thê đa thiếp, chỉ biết suốt ngày nhảy đầm chứ
chẳng có kiến thức chính trị gì cả. Họ còn viết hẳn một cuốn sách về các tướng
lãnh VNCH. Đọc cuốn này cũng là một phương thức giải trí tốt vì các tác giả có
khả năng tưởng tượng khá tốt. Nhưng còn các lãnh đạo CS thì sao? Họ là những kẻ
nhiều vợ. Lê Duẩn. Nguyễn Văn Linh. Lê Đức Thọ. Võ Văn Kiệt. Có thể cả ông Hồ.
Tất cả đều có hơn 1 vợ. Tất cả đều sẵn sàng bỏ vợ lại sau lưng để “theo đuổi sự
nghiệp cách mạng”. Nhưng cũng có thể họ xem phụ nữ như là những người để họ giải
quyết vấn đề tình cảm sinh lý. Không phải ai trong giới lãnh đạo CS đều sống vô
đạo đức, nhưng nhìn qua những nhân vật cao cấp chúng ta thấy nói rằng thói đạo
đức giả rất phổ biến trong giới thượng tầng của chế độ.
6.- Dốt nát.
Chúng ta biết rằng những người cộng sản thế hệ thứ nhất
như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp (không tính đến những người như
Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ) là những người có trình độ học vấn khá và
có bản lãnh. Nhưng Bên thắng cuộc tiết lộ rằng những người thuộc thế hệ
đàn em của những người tiền phong toàn là một nhóm người ít học. Những lãnh đạo
như ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh … đều xuất thân từ thành phần
không có cơ hội học hành đến nơi đến chốn. Sự dốt của lãnh tụ có khi đến mức
hài hước. Trong phần viết về sức khoẻ lãnh đạo, chúng ta được biết ông Đỗ Mười
nói về bệnh trạng của tướng Đoàn Khuê, qua lời thuật của ông Nguyễn Văn An, như
sau: “Đoàn Khuê nói với tao, uống tam thất nó tan hết rồi mà. Đoàn Khuê còn
vạch bụng cho tao xem. Tôi bảo: thưa anh, theo chuyên môn thì đấy là khối u nó
chạy chứ không phải tan đâu ạ”. Thật kinh hoàng khi những con người như thể
được đặt ở vị trí chót vót lãnh đạo một đất nước 90 triệu dân!
Qua Bên thắng cuộc chúng ta biết rằng các lãnh đạo
CS có tầm nhìn rất hạn hẹp. Có thể do bị nhào nặn bởi tuyên truyền cộng với kém
học thức nên các lãnh đạo CS có kiến thức rất nghèo nàn về thế giới ngoài các
nước XHCN và Trung Cộng. Từ đó dẫn đến những nhận định sai lầm và những lựa
chọn bất lợi cho đất nước. Điển hình là câu chuyện đằng sau việc thiết lập quan
hệ ngoại giao với Mỹ. Câu chuyện cho thấy giới lãnh đạo CS thiển cận và làng xã
trong những nhận xét của họ về một đối thủ rất quan trọng.
Chúng ta thử đọc một đoạn “Cứu chủ nghĩa xã hội” để thấy ông Nguyễn Văn Linh có tầm nhìn và
hành xử đầy kịch tính ra sao. Đọc cũng để thấy Gorbachev chẳng những mỉa mai mà
còn khinh Nguyễn Văn Linh như thế nào:
Ông Nguyễn Văn Linh cho rằng Gorbachev là kẻ cơ hội nhất
hành tinh:
Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tới Berlin dự lễ kỷ niệm bốn mươi năm ngày thành lập Nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Theo ông Lê Đăng Doanh: “Quyết định đi dự 40 năm Quốc Khánh CHDC Đức là quyết định trực tiếp của cá nhân anh Linh. Anh
Linh đã bàn với Bộ Chính trị về việc phải triệu tập một Hội nghị các Đảng Cộng Sản và Công nhân quốc tế để cứu phong trào cộng sản, chống chủ nghĩa cơ hội. Anh sang Berlin là để gặp các đồng chí để bàn về việc ấy và gặp Gorbachev. Trong một cuộc họp, anh Linh nhận xét: Gorbachev là kẻ cơ hội nhất hành tinh này”.
Bị đối xử như thương gia tầm thường:
Ngày 4-10-1989, từ Hà Nội, hãng Interflug của Cộng hòa Dân chủ Đức dành cho ông Linh một ghế hạng thương gia, các thành viên
cao cấp khác – Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Trợ lý Tổng Bí thư Lê Xuân Tùng, Phó Ban Đối ngoại Trịnh Ngọc Thái, Đại sứ Tạ Hữu Canh và thư ký Lê Đăng Doanh – chỉ ngồi khoang hành khách thường.
Bị xem thường:
Một lễ đón đơn giản được tổ chức tại sân bay Berlin-Schronefeld rồi sau đó đoàn về khách sạn. …. Trong suốt chuyến thăm chính thức ấy, phía CHDC Đức không thu xếp cho ông Linh một buổi gặp chính thức nào với Honecker hay một nhà lãnh đạo khác. Thế nhưng, điều đó đã không làm ông Nguyễn Văn Linh từ bỏ ý đồ đóng vai trò trung tâm cứu nguy chủ
nghĩa xã hội.
Đến nơi ở của các nhà lãnh đạo khác mới thấy cách đối xử của Erich Honecker với ông Nguyễn Văn Linh. … Trong khi ông Linh chỉ được xếp một phòng đôi lớn hơn phòng các thành viên khác trong đoàn một chút thì chỗ ở của Ceausesscu là một khu vực gồm nhiều phòng. Ông Linh và tùy tùng phải đi qua một sảnh lớn nơi có một đội cận vệ 12 người bồng tiểu liên AK báng gập đứng chào. Ceaucesscu đã để ông Linh phải ngồi chờ rất lâu. Ông Linh nói: “Mày liên hệ thế nào mà giờ không thấy nó”. Tôi bảo: “Tính thằng này nó hình thức thế”. Một lúc sau thì Ceausesscu ra, chính ông ta lại là người tỏ ra hăng hái ủng hộ sáng kiến của ông Nguyễn Văn Linh nhất. Ceausesscu thậm chí còn đòi để Rumani đăng cai. Tuy nhiên, cả
Ceausesscu và các nhà lãnh đạo cộng sản khác đều nói với ông Linh: “Vấn đề là ông kia, nếu ông ấy không đồng ý thì rất
khó”. “Ông kia” đề cập ở đây là Gorbachev.
Dù ông Linh rất nhiệt tình cứu XHCN nhưng người ta làm
ngơ:
Trong ngày 6-10-1989, giữa Berlin rét mướt, ông Nguyễn Văn Linh đã tìm gặp các nhà lãnh đạo cộng sản đến dự lễ quốc khánh để thảo luận về một sáng kiến mà ông đưa ra: triệu tập hội nghị các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế. Ông Linh nói: “Phe ta đang diễn biến phức tạp. Hơn bao giờ hết, đòi hỏi quốc tế vô sản phải siết chặt hàng ngũ. Đảng
Cộng sản Việt Nam thấy nên có một hội nghị để thống nhất tư tưởng và hành động, tăng cường tình đoàn kết”.
Đa số các đảng cộng sản làm ngơ đề nghị của ông Linh, chỉ có Batmunkho Tổng Bí thư Mông Cổ, Phó Thủ Tướng Hernandez
của Cuba, Tổng Bí thư Ceaucescu của Rumania, Tổng Bí thư Đảng vừa thất cử của Ba Lan Jaruzelski, Chủ tịch Đảng Cộng Sản Tây Đức (DKP) Herbert Mies là chấp nhận gặp. Chỉ có Helbert Mies, lãnh tụ của một đảng không cầm quyền và Phó thủ tướng Cuba
Hernandez là tự tới nơi ông Linh ở. Theo ông Lê Đăng Doanh, những người khác chỉ tiếp ông Nguyễn Văn Linh tại phòng riêng của họ.
Sau nhiều cuộc trì hoản thì ông Linh cũng được Gorbachev
cho một cuộc gặp mặt. Nhưng đó là một cuộc gặp mặt để Gorbachev khinh miệt ông
Linh. Chúng ta hãy đọc tiếp:
Từ 19 đến 21 giờ tối 6-10-1989, sau phần đọc diễn
văn, cuộc mit-tin được chuyển từ trong một lâu đài ra một lễ đài ngoài trời duyệt quần chúng, thanh niên rước đuốc. Ông Lê Đăng Doanh kể: Đám thanh niên tuần hành sôi lên sùng sục kêu tên Gorbachev, “Gorby! Gorby!”. Anh Linh chỉ
mặc bộ complet, tối nhiệt độ xuống khoảng 8 C, cận vệ quên mang áo lạnh, ông Nguyễn Văn Linh đứng run bần bật, kêu tôi: “Tao lạnh quá”. Tôi phải nói với một viên tướng Đức đứng cạnh đấy: “Tổng Bí thư của tôi quên mang áo ấm”. Viên tướng cho mượn tạm tấm áo choàng của ông ta.
Sáng hôm sau, 7-10-1989, theo lịch trình, mười giờ sẽ có duyệt binh, nhưng tám giờ, ông Nguyễn Văn Linh triệu tập họp Chi bộ Đảng thông báo tình hình sức khỏe: “Mình thấy có gì đó không bình thường, không nhắm được mắt, miệng cứng, không ăn được”. Về sau bác sỹ xác định đó là triệu chứng liệt dây thần kinh số 7. Mọi người đề nghị ông Linh không ra lễ đài, ông Nguyễn Khánh thay ông Linh dự duyệt binh rồi báo với “bạn”. Phía CHDC Đức mời ông Linh ở lại khám chữa bệnh và khuyên ông không nên về trong lúc này. Tuy bệnh tình càng ngày càng nặng, nước mắt chảy ra nhiều, miệng có biểu hiện bị méo và nói bắt đầu khó khăn, ông Nguyễn Văn Linh vẫn hy vọng rất nhiều vào cuộc gặp với Gorbachev.
Cuộc gặp Gorbachev dự kiến diễn ra lúc 10:30 sáng 8-10-1989,
nhưng chờ đến mười một giờ cũng không thấy văn phòng ông ta gọi lại. Ông Linh rất sốt ruột. Theo ông Lê Đăng Doanh: Trong khi đó, sáng ngủ dậy, bệnh ông Linh càng nặng thêm. Khi ăn cơm, ông kêu tôi ra ngoài vì không muốn tôi chứng kiến cảnh
ông ăn rất chật vật. Hàm bên trái của ông Linh cứng lại. Ông phải nhai ở phía bên phải sau đó dùng hai ngón tay đẩy thức ăn vào họng, chiêu một ngụm nước mới nuốt được.
Cuộc gặp Gorbachev được lùi lại 2:30 rồi 5:30 chiều cùng ngày. Gorbachev, khi ấy vẫn là nhà lãnh đạo của cả
phe xã hội chủ nghĩa, được bố trí ở trong một tòa lâu đài. Nhưng, cuộc tiếp tổng bí thư Việt Nam đã không diễn ra trong phòng khách riêng mà ở ngay một phòng rộng mênh mông vừa dùng cho một tiệc chiêu đãi lớn, thức ăn thừa còn bề bộn trên các bàn. Nhân viên dọn một góc, kê bàn để Gorbachev tiếp ông Nguyễn Văn Linh. Gorbachev ra đón ông Linh ở sảnh và khi cửa xe mở, ông cúi đầu nói: “Kẻ cơ hội nhất hành tinh kính
chào đồng chí Nguyễn Văn Linh”.
Dù đang bệnh, ông Nguyễn Văn Linh vẫn trình bày rất nhiệt tình, nhưng theo ông Lê Đăng Doanh: Sáng kiến nào của ông Linh cũng được Gorbachev khen là “rất tốt” nhưng chỉ là những lời khen xã giao. Ông Linh nói: “Tôi đã gặp một số đảng cộng sản anh em. Trong tình hình này, Đảng Cộng sản Việt Nam muốn đồng chí đứng ra triệu tập hội nghị các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế”. Gorbachev liền giơ hai tay lên tươi cười: “Ý này hay nhỉ. Để xem! Để xem! Rất
tiếc là giờ tôi đang nhiều việc quá!”. Ông Linh trân trọng mời Gorbachev đến thăm Việt Nam. Gorbachev lại kêu lên: “Hay quá nhỉ! Cám ơn! Cám ơn! Nhưng, tôi đang có nhiều lời mời quá mà chưa biết thu xếp cái nào trước”.
Cuối cùng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đề cập đến truyền thống viện trợ của Liên xô và khi ông đề nghị Liên Xô tiếp tục giúp đỡ cho Kế Hoạch 5 năm 1990-1995 của Việt Nam thì Gorbachev xua tay. Không còn xã giao, lịch sự như phần trên nữa, Gorbachev nói: “Khó khăn lắm, khó khăn lắm, các đồng chí Việt Nam tự lo thôi”. Theo ông Lê Đăng Doanh: Thế nhưng, ngày hôm sau, báo Nhân Dân và Pravda đều đưa tin về cuộc gặp diễn ra trong “tình hữu nghị thắm thiết”.
Đọc những đoạn trích
dẫn rất sống động này tôi phải nói là rất nhục. Là lãnh tụ một đất nước 90 triệu dân mà không nắm được tình hình thế giới
để bị các lãnh đạo của chính thế giới XHCN xem thường như thế. Ông Nguyễn Mạnh
Cầm có lẽ là người ngoại giao nên còn biết được tình hình thế giới. Ông đưa ra
nhận xét rằng “Nhận thức của một số đồng chí trong Bộ chính trị lúc bấy giờ
không theo kịp những thay đổi của tình hình thế giới”. Không theo kịp tình
hình thế giới có nghĩa là sống trong cái ao làng. Chẳng biết ông Linh có hiểu những
câu nói của Gorbachev hay không. Thật là nhục nhã. Tất cả cũng vì cái dốt.
Cái dốt của lãnh đạo CS còn thể hiện qua lần tiếp kiến
giữa ông Lê Khả Phiêu và Bill Clinton. Trong buổi tiếp kiến, trong khi Bill
Clinton nói về tương lai hợp tác, ông Lê Khả Phiêu lại tận dụng chuyện Bill
Clinton “trốn lính” làm cho ông Bill Clinton rất giận và chắc chắc cũng rất
khinh thường người đối diện mình:
“Bill Clinton nhớ lại: “Lê Khả Phiêu cố gắng sử
dụng hành động phản đối chiến tranh Việt Nam của tôi để cáo buộc những gì Mỹ đã làm là hành vi đế quốc. Tôi đã rất giận dữ nhất là khi ông ta nói vậy trước sự có mặt của Đại sứ Pete Peterson,
một người đã từng là tù binh chiến tranh. Tôi nói với nhà lãnh đạo Việt Nam rằng khi tôi không tán thành các chính sách đối với Việt Nam, những người theo đuổi nó cũng không phải là đế quốc hay thực dân, mà là những người tốt chiến đấu chống cộng sản. Tôi chỉ Pete và nói, ông đại sứ không ngồi sáu năm rưỡi trong nhà tù ‘Hà Nội Hilton’ vì muốn thực dân hóa Việt Nam”.
“Ông Phan Văn Khải nhớ lại: “Ông Phiêu nói như thời chiến tranh làm cho họ rất khó chịu. Ông ấy muốn tỏ rõ thái độ của một chính quyền cộng sản. Nhưng, ông Phiêu không hiểu tình hình thế giới giờ đây đã khác. Phe xã hội chủ nghĩa đã tan rã. Vấn đề là mối quan hệ giữa hai quốc gia, chúng ta cần Mỹ. Nếu người Mỹ không vào thì những công ty lớn trên thế giới không có ai vào cả”. …
Clinton nhận xét, dường như những người mà ông gặp ở Việt Nam, chức vụ càng cao hơn thì ngôn ngữ càng “sặc mùi” cộng sản theo kiểu cũ hơn”.
Sự dốt nát chính là một nguyên nhân chính dẫn đến những
cuộc bỏ lỡ cơ hội để phát triển đất nước. Câu chuyện xung quanh ký hiệp
định thương mại song phương BTA cho thấy giới lãnh đạo thượng tầng CS rất sợ
Trung Cộng. Ông Nguyễn Mạnh Cầm nói “Tôi tiếc đứt ruột. Năm 1999, Bill Clinton muốn ký trước mặt các nhà lãnh đạo đủ cả phương Tây lẫn phương Đông. Khi ấy các tập đoàn sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ chỉ
chờ có hiệp định là nhảy vào Việt Nam. Mình quyết định không ký, mất biết bao nhiêu cơ hội”. Không chỉ BTA, ngay cả những chần chừ để trở thành thành
viên của ASEAN cũng phản ảnh sự kém hiểu biết của những người lãnh đạo CS chóp
bu.
Sự dốt nát và kém hiểu biết của người CS không phải chỉ
biểu hiện trong giới lãnh đạo mà còn ở những người trong giới học thuật và
chuyên môn. Sau 1975 tôi đã có nhiều “tiếp cận” với những đồng nghiệp y khoa từ
Bắc vào. Tôi có thể nói một cách không ngần ngại rằng trình độ của họ quá kém.
Có lần một anh bác sĩ nghe nói là cấp cao ngoài đó mà viết tên thuốc trụ sinh
còn sai. Không phải sai một lần mà nhiều lần. Chỉ nhìn nét chữ cũng có thể biết
được anh chàng này thuộc thành phần bác sĩ gì. Ngay cả những người được “chi
viện” để tiếp thu trường y Sài Gòn cũng là những người rất kém cỏi về kiến thức
và kỹ năng lâm sàng. Họ bị các thầy trong Nam khinh ra mặt. Do đó tôi không hề
ngạc nhiên khi đọc những dòng chữ viết về phản ứng của giới trí thức trong Nam
trước những chính sách quái đản được áp dụng sau 1975. Họ vận hành theo tư duy
rặt mùi cộng sản. Cứ đến ngày kỷ niệm nào đó họ hỏi có thành tích khoa học gì
để chào mừng và nhận được câu trả lời của thầy Phạm Biểu Tâm: “Không có thứ
khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả”. Sau này trong một lần họp bàn
về cách giải quyết hệ thống nước bị đục, giáo sư Phạm Biểu Tâm không phát biểu
gì cả. Đến khi bị ông Võ Văn Kiệt gặn hỏi, giáo sư Tâm vốn rất quý ông Kiệt,
chỉ nói đơn giản “Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khoẻ, vì cái gì cũng
đã có các anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh đâu phải chuyện tụi tui”.
Đối với giới trí thức miền Nam ngày ra mắt đầu tiên của chính quyền không hề
thuyết phục được họ. Cho đến bây giờ tình hình vẫn thế.
Bên thắng cuộc đã trở thành một tác phẩm bán chạy. Nếu được công bố ở trong nước tôi nghĩ
chắc chắn bộ sách sẽ qua mặt bất cứ cuốn sách nào đang có trên thị trường. Đọc xong bộ sách tôi hiểu được tại sao nó nổi tiếng. Theo tôi, Bên
thắng cuộc được nhiều người quan tâm vì trong đó có rất nhiều những câu
chuyện hậu trường chính trị. Đặc biệt hơn là tất cả những câu chuyện hậu trường
đều nói lên những hình ảnh tiêu cực của giới lãnh đạo CSVN. Khó tìm một câu
chuyện nào mang tính tích cực trong sách. Trong đó có những con người ít học
nhưng ngạo mạn. Đó là những con người đạo đức giả. Đó là những con
người sẵn sàng chấp nhận đớn hèn để sống trong môi trường tàn ác. Đó là những
con người tàn nhẫn và xảo trá. Những cá tính lãnh đạo như thế là tác giả của
những quyết sách đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Họ dẫn đất nước bỏ mất cơ
hội hết năm này sang năm khác. Những câu chuyện như thế giúp cho chúng ta nhìn
thấy rõ hơn cái tâm kém và cái trí thấp của một số đông lãnh đạo chóp bu và
giải thích tại sao đất nước và dân tộc chúng ta đã quá bất hạnh trong suốt 70
năm qua. Họ là nguyên nhân gần và tác nhân trực tiếp đã đưa đất nước nghèo hèn
như hiện nay. Họ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.
No comments:
Post a Comment