Văn Cao sáng tác không nhiều. Vì người ta đã cướp đi
mất của ông đến 30 năm, lúc sức sáng tác của ông đang ở vào thời kỳ sung mãn
nhất. 30 năm, một khoảng thời gian quá dài vùi dập một nhân tài. Văn Cao như
một cây tốt trái nhưng bị cắm trên miếng đất miền Bắc cằn cỗi. Phải chi cây
trái ấy được trồng ở đất miền Nam tươi tốt màu mỡ thì cây ấy đã đơm bông rực rỡ
và sây trái. Phải chi Văn Cao được sống dưới chế độ miền Nam tự do, tự do văn
nghệ và tự do sáng tác, thì ông đã cống hiến cho đời một kho tàng âm nhạc dồi
dào hơn vậy nhiều. Dầu sao thì Văn Cao vẫn là một tác giả lớn của nền âm nhạc
VN. Tiếng tăm của ông vẫn mãi là niềm tự hào vô bờ của quê hương, dân tộc, nó
trường tồn, bất tử như những khúc khải hoàn ca ngân vang mãi...
*
Cuối tháng 5 đầu tháng 6 vừa qua, dư luận trong nước
“rộn” lên với những thay đổi. Quốc Hội của nhà cầm quyền CSVN đã nhóm họp và
qua đó một loạt những thay đổi “gây sốc” đã được đề nghị và mang ra bàn thảo.
Nào là dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, nào là đổi lại tên nước và đề nghị sửa
đổi cả lời bài Quốc Ca.
Bài viết này không bàn đến 2 sự thay đổi lớn lao là
sửa đổi Hiến pháp và thay đổi tên nước mà chỉ xoay quanh bài Tiến quân ca
và kiếp nhạc của nhạc sĩ Văn Cao.
Văn Cao là một nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng, là một
trong những gương mặt quan trọng nhất của nền tân nhạc. Ông là tác giả bài Tiến
quân ca, quốc ca của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày trước và Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam ngày nay.
Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15
tháng 11 năm 1923 tại Lạch Tray, Hải Phòng Quê gốc của ông ở thôn An Lễ, xã
Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Thuở nhỏ, ông học ở trường tiểu học
Bonnal, sau học trung học ở trường dòng Saint Josef, là nơi ông bắt đầu học âm
nhạc.
Những năm cuối 1930, tân nhạc VN ra đời. Văn cao
sáng tác ca khúc đầu tay Buồn Tàn Thu năm 1939, lúc đó ông chỉ mới 16 tuổi.
Giống như những nhạc sĩ tiền chiến khác, Văn Cao
sáng tác các nhạc phẩm trữ tình ít ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà lại
mang nặng âm hưởng phương Đông.
Sau ca khúc đầu tay Buồn tàn thu ông còn viết hai ca
khúc khác về mùa thu là Thu cô liêu và Suối mơ. Bên cạnh đề tài mùa thu, ông
còn có hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân là Bến xuân và Cung đàn xưa. Ngay
từ những ca khúc đầu tiên, Văn Cao đã thành công rất sớm. Buồn tàn thu được
trình diễn trên các sân khấu lớn và trên đài phát thanh Sài Gòn trong những năm
1944-1945, lúc tân nhạc còn mới phôi thai. Suối mơ, Bến xuân được đánh giá là
cực điểm của lãng mạn trong ca nhạc VN. Nhưng hai tình khúc của Văn Cao được đánh
giá cao hơn cả là Thiên Thai và Trương Chi.
Năm 2001, khi phim Người Mỹ trầm lặng (The Quiet
American) được thực hiện, Thiên Thai được sử dụng làm nhạc nền cho phim.
Năm 1942, Văn Cao rời Hải Phòng lên Hà Nội sinh
sống. Ông thuê căn gác nhỏ số 171 phố Mongrant, nay là 45 Nguyễn Thượng Hiền,
và theo học dự thính ở trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Văn Cao còn làm
thơ, viết truyện đăng trên Tiểu thuyết Thứ Bảy. Năm 1943-1944, Văn Cao hai lần
xuất hiện trong triển lãm Salon Unique tổ chức tại nhà Khai trí Tiến Đức, Hà
Nội với các bức tranh sơn dầu. Đặc biệt tác phẩm Le Bal aux suicidés (Cuộc
khiêu vũ của những người tự tử) được đánh giá cao và gây chấn động dư luận lúc
đó. Tuy được báo chí khen ngợi, nhưng tranh của ông không bán được. Văn Cao,
cùng bạn bè, thường phải đứng bán những tác phẩm của mình trên các đường phố Hà
Nội. Ông trải qua một thời gian dài ở Hà Nội trong thiếu thốn.
Sau hiệp định Genève 1954, Văn Cao về lại Hà Nội.
Ông làm việc cho Đài Phát thanh nhưng rất ít sáng tác. Năm 1955, ông cầm bút
trở lại. Tháng 2 năm 1956, bài thơ “Anh có nghe không” được đăng trên Giai phẩm
mùa Xuân. Bài thơ này bị Xuân Diệu đánh giá là “lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai
mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì”. Văn Cao cùng những người
bạn cầm bút của hai tờ báo Nhân Văn và Giai Phẩm khi đó chủ trương đòi hỏi tự
do văn nghệ và tự do sáng tác. Đến tháng 12 năm 1956 thì cả hai tờ báo đều bị
đình bản.
Như những nhân vật khác của nhóm Nhân Văn - Giai
Phẩm, tháng 7 năm 1958, Văn Cao phải đi học tập chính trị. Tên tuổi của Văn Cao
hầu như không còn xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ ở Hà Nội nữa. Những năm
sau đó, ông kiếm sống bằng nhiều công việc “vớ vẩn” như viết nhạc không lời cho
các truyện phim và truyện kịch, trang trí sân khấu cho các đoàn kịch và vẽ
quảng cáo cho các báo. Các ca khúc của ông không được trình diễn ở miền Bắc,
trừ bài Quốc ca. Nhưng ở miền Nam, các ca sĩ hàng đầu của Sài gòn như Thái
Thanh, Khánh Ly, Hà Thành thuở ấy thường xuyên trình bày những ca khúc của ông.
Ca khúc Không quân Việt Nam ông sáng tác năm 1945 sau được sử dụng làm bài hát
chính thức của Không lực Việt Nam Cộng hòa.
Người ta đã cầm giữ Văn Cao như một tù nhân bị giam
lỏng, một thứ nhà tù tại chỗ, nhà tù nhân dân kiểu xã hội chủ nghĩa. Bị vô hiệu
hóa suốt 30 năm chỉ vì tội Nhân Văn Giai Phẩm. Sở dĩ Văn Cao thoát tù mọt gông
chẳng qua vì ông là tác giả Quốc ca. Không ai lại đi bỏ tù một người đã làm ra
bài Quốc ca. Ngay sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm, nhà nước cộng sản định lấy bài hát
“Cách mạng tiến quân” của Đỗ Nhuận làm bài quốc ca, thay cho bài Tiến quân ca
nhưng việc không thành.
Năm 1989, tạp chí National Geographic đăng một bức
ảnh của nhạc sĩ Văn Cao đang ngồi trầm tư bên chiếc đàn dương cầm của ông. Tấm
hình này đã tạo cảm hứng cho nhà soạn nhạc người Mỹ tên Robert Ashley sáng tác
ra bản solo cho piano mang tên Van Cao's Meditation vào năm 1992. Cho đến khi
Văn Cao qua đời Robert Ashley vẫn chưa một lần được gặp mặt tác giả của Tiến
quân ca.
Trở lại chuyện ra đời của bài Tiến quân ca. Mùa đông
năm 1944, Văn Cao gặp lại Vũ Quý, một cán bộ Việt minh. Vũ Quý thuyết phục Văn
Cao thoát ly hoạt động cách mạng, và nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một bài hành
khúc cho đội quân Việt Minh.
Ông nhận lời Vũ Quý, ngay hôm đó chính thức gia nhập
Việt Minh và bắt tay vào việc sáng tác.
Ông bồi hồi kể lại trong hồi ký “Tại sao tôi viết
Tiến quân ca” như sau:
“Bài hát đã làm trong thời gian không biết bao nhiêu
ngày tại căn gác hẹp 45 Nguyễn Thượng Hiền, bên một cái cửa sổ nhìn sang căn
nhà 2 tầng, mấy làn cây và một màn trời xám.
Ở đây thường vọng lên những chiếc xe bò chở xác
người chết đói về phía Khâm Thiên. Ở đây hàng đêm, mất ngủ vì gió mùa luồn vào
từng khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một gia đình anh viên chức nghèo khổ,
thiếu ăn, vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đây tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời.
Ở đây đêm đêm có những tiếng gõ cửa, những tiếng gọi đêm không người đáp lại...
... Tin từ Nam Định lên, cho biết mẹ tôi và các em
tôi đang đói. Họ đang tìm mọi cách để sống qua ngày, như mọi người đang chờ đợi
một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi, các
em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ chiều hôm. Tất cả đang chờ đợi
tôi tìm cách giúp đỡ.
Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập
đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu,
chỉ biết những con đường phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen
tôi đi”.
Bài hát Tiến quân ca của Văn Cao đã ra đời như vậy
đó.
Văn Cao viết “Tiến quân ca” lúc 21 tuổi
Tiến quân ca được đăng trên trang văn nghệ của báo
Độc Lập lần đầu tiên tháng 11 năm 1944.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Tiến quân ca được chính
thức cử hành trong ngày Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình.
Thật đột ngột cho Văn Cao, Vũ Quý mất trước ngày
Tổng khởi nghĩa 19/8/1945. Cái chết mà sau này ông được biết là chưa được làm
rõ, khi Vũ Quý trên đường anh lên dự Quốc dân đại hội Tân Trào tại Việt Bắc.
Cho mãi đến năm 1972, Vũ Quý mới được truy tặng liệt sĩ. Truy tặng thì truy
tặng, không ai biết rõ chuyện gì đã đưa đến cái chết của Vũ Quý!
Năm 1946, Quốc hội khóa I đã quyết định chọn Tiến
quân ca làm quốc ca. Trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa điều 3 ghi rõ: “Quốc ca là bài Tiến quân ca”. Năm 1955, kỳ họp thứ 5
Quốc hội khóa I đã mời tác giả tham gia sửa một số chỗ về phần lời của quốc ca.
Văn Cao đã luyến tiếc vì một số chữ sửa đã làm mất khí thế hùng tráng của ca
khúc.
Lần họp Quốc hội vừa qua không phải là lần đầu tiên việc
thay đổi Quốc ca bị mang ra “đấu tố”. Việc này đã được thực hiện một lần rồi.
Nhà cầm quyền CSVN đã đã một lần tổ chức thay đổi quốc ca vào năm 1981. Một
cuộc thi được mở ra nhưng sau hơn một năm, không có tuyên bố chính thức gì về
kết quả và cuộc thi này không được nhắc tới nữa. Tiến quân ca vẫn là quốc ca
của nước cho tới ngày nay.
Đây là ca khúc đã đi vào lịch sử sáu bảy chục năm
rồi, với đầy đủ ý nghĩa của nó. Quốc ca không chỉ là một ca khúc đơn thuần mà
nó còn chứa đựng ý nghĩa lịch sử sâu xa.
Có lần Văn Cao đã nói “Thôi, giờ tôi có tiếc nuối
cũng chẳng thể làm gì. Dù sao Tiến quân ca cũng chẳng phải là của riêng tôi, nó
đã là của một dân tộc Việt Nam độc lập kể từ Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945
đến nay”.
Theo như gia đình của Văn Cao thì gia đình của ông
đã trao bản quyền ca khúc Tiến quân ca cho Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm
nhạc Việt Nam. Người sửa chỉ có thể là Văn Cao. Văn Cao giờ không còn nữa, ai
muốn sửa thì đi gặp Văn Cao mà yêu cầu sửa.
Ngoài Tiến quân ca, ông còn sáng tác các hành khúc
khác như Thăng Long hành khúc ca và Tiến về Hà Nội. Sau khi bài Tiến về Hà Nội
ra đời cuối năm 1949 ông bị đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó ông
thề sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa.
Văn Cao ngưng sáng tác ca khúc tới hai chục năm. Cái
thôi thúc ông sáng tác trở lại chính là sự kiện 30/4/1975. Hôm đó, nghe tin
“đất nước thống nhất”, trong khi nhà nhà miền Bắc rộ lên tiếng reo vui thì Văn
Cao lại im lặng. Ông im lặng nhưng đôi mắt ông sáng lấp lánh. Trong ông có một
điều gì đang dâng trào, nghẹn ngào. Từ hôm đó, tâm trạng ông biến đổi khác hẳn.
Tới một ngày giáp Tết năm 1976, hôm đó, Văn Cao ngồi
bên đàn, đôi vai gầy guộc của ông phủ xuống, đôi bàn tay khô gầy của ông lướt
trên những phím đàn loang lổ, ố vàng. Tiếng đàn ngọt ngào, thánh thót, ấm áp,
âm vang khắp căn phòng. cây đàn. Mái tóc ông bạc dài xõa phất phơ theo tiếng
dương cầm. Một lát sau, ông lặng lẽ đứng dậy, nhẹ nhàng rời khỏi cây đàn, khuôn
mặt ông bất động. Dường như tâm hồn ông vẫn còn bồng bềnh trôi theo những âm
thanh của bản nhạc.
Mùa
xuân đầu tiên ra đời với giai điệu mượt mà, sâu lắng, khắc sâu
vào tâm hồn người thứ tình cảm chan chứa yêu thương như sau:
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường mùa vui nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
Một trưa nắng vui cho bao tâm hồn.
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Niềm vui phút giây như đang long lanh.
Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu
tiên.
Ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm
ấm.
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người.
Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
Một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.
Hai chữ “Từ đây” được lặp lại nhiều lần nói lên mơ
ước, khát vọng, và cũng là lời nhắn nhủ của Văn Cao sau “chiến thắng vĩ đại”:
con người phải biết yêu quê hương và biết yêu thương nhau.
Nước nhà thống nhất, không còn chiến tranh, đó là
điều mà mọi người mơ ước và khát vọng. Nhưng Văn Cao đã nghiệm ra rằng đất nước
và con người VN vừa trải qua tang thương, bể dâu, ly loạn, đã đánh mất nhiều
giá trị truyền thống, nhân bản. Nghiệt ngã đã ảnh hưởng sâu rộng đến từng từng
thân phận, từng gia đình. Vết thương đất nước chưa lành, nhân tâm còn bất ổn
nên không quá vội vàng, ảo tưởng, hân hoan thái quá. Cần khơi dậy tình người và
đánh thức nhân tính.
Mùa xuân đầu tiên bị phê bình là không đi đúng đường
lối của Đảng, không phục vụ cho Cách Mạng, vì thế bản nhạc mới phát hành đã bị
tịch thu không được phổ biến.
Sở dĩ có một thời kỳ dài ca khúc này không được cho
phép phổ biến vì ngoài những định kiến về Văn Cao trong quá khứ mà còn vì trong
ca khúc có những lời như “Từ đây người biết quê người. Từ đây người biết thương
người. Từ đây người biết yêu người”. Người CS họ nghe sao thấy mơ hồ quá, lấn
cấn quá, rắc rối quá!
Mãi cho đến sau khi Văn Cao qua đời, Mùa xuân đầu
tiên của ông mới được phổ biến và trình diễn ở những sân khấu lớn, được đưa lên
đài phát thanh và đài truyền hình. Đến lúc này Mùa xuân đầu tiên của ông mới
thực sự có chỗ đứng trong âm nhạc VN.
Ngày nay, Mùa xuân đầu tiên đã trở nên quen thuộc
với chúng ta, là một trong những bài hát hay về mùa xuân. Nhưng tuyệt phẩm này
cũng cùng chung số phận long đong như chính người sinh ra nó. Phải mất 20 năm
sau khi ngưng sáng tác, Văn Cao mới cho ra đời bài hát này. Và cũng phải mất 20
năm sau khi ra đời, nó mới được trình bày hợp lệ. Lúc đó Văn Cao đã sang thế
giới bên kia.
Văn Cao sáng tác không nhiều. Vì người ta đã cướp đi
mất của ông đến 30 năm, lúc sức sáng tác của ông đang ở vào thời kỳ sung mãn nhất.
30 năm, một khoảng thời gian quá dài vùi dập một nhân tài. Văn Cao như một cây
tốt trái nhưng bị cắm trên miếng đất miền Bắc cằn cỗi. Phải chi cây trái ấy
được trồng ở đất miền Nam tươi tốt màu mỡ thì cây ấy đã đơm bông rực rỡ và sây
trái. Phải chi Văn Cao được sống dưới chế độ miền Nam tự do, tự do văn nghệ và
tự do sáng tác, thì ông đã cống hiến cho đời một kho tàng âm nhạc dồi dào hơn
vậy nhiều. Dầu sao thì Văn Cao vẫn là một tác giả lớn của nền âm nhạc VN. Tiếng
tăm của ông vẫn mãi là niềm tự hào vô bờ của quê hương, dân tộc, nó trường tồn,
bất tử như những khúc khải hoàn ca ngân vang mãi.
Ông qua đời ngày 10 tháng 7 năm 1995, sau một thời
gian mắc bệnh ung thư phổi. Bài viết này xin ghi lại đôi điều về nhân vật tài
hoa bị vùi dập này, như một nén nhang tưởng niệm ông nhân ngày ông qua đời cách
đây đúng 18 năm.
11 tháng 7 năm 2013
No comments:
Post a Comment