August
14, 2012
Ngày 9 tháng Tám 2012, nhà trí thức Hà Sĩ Phu đã đưa lên mạng
internet bài viết “Giải Cộng Nhi Thoát”, nội dung kêu gọi đảng viên cộng sản
cần phải dứt khoát từ bỏ chủ nghĩa từ bỏ Mác-Lê cùng với cái gọi là XHCN thì
mới cứu được nước!
Hà Sĩ Phu, hình chụp
tại Đà Lạt
Hà Sĩ Phu tên thật là Nguyễn Xuân Tụ. Ông từng du học và tốt
nghiệp ngành sinh học tại Tiệp thời đất nước này còn là Tiệp Khắc dưới chế độ
cộng sản. Từ những năm giữa thập niên 80, Hà Sĩ Phu đã viết nhiều bài nói lên
nỗi trăn trở của một trí thức trước tình trạng tụt hậu mọi mặt của Việt Nam.
Lấy bút hiệu Hà Sĩ Phu, nghĩa là sĩ phu đâu rồi, ông là tác giả của những bài Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Bảng Chỉ Đường Của
Trí Tuệ, Chia Tay Ý Thức Hệ.v.v..
Ông từng bị chế độ bắt giam một năm và sau khi ra khỏi nhà tù, ông bị quản thúc
tại gia, gia đình ông liên tục bị công an sách nhiễu, thậm chí công an còn cho
bọn côn đồ dùng đá ném bị thương vợ của ông. Dù bị nhiều oan khuất, khổ đau như
vậy, ông vẫn không chùn bước. Hà Sĩ Phu hiện sống ở Đà Lạt trong hoàn cảnh khó
khăn kinh tế.
Sau đây là nguyên văn bài viết của Hà Sĩ Phu:
Giải Cộng Nhi Thoát
Trong “Gửi người đang yêu” nhà văn
Phạm Đình Trọng đã nói với những bạn bè còn vương vấn chút “yêu đương” với Chủ
nghĩa Cộng sản, rằng chủ nghĩa Cộng sản mà học thuyết Mác-Lê vạch đường là một
chủ nghĩa sai lầm, chỉ gây ra tội lỗi với đất nước, không thể sửa chữa mà chỉ
có cách duy nhất là xoá bỏ tận gốc.
Có một thực tế là trong nước cũng không ít người đã suy nghĩ gần
giống như vậy nhưng còn đắn đo chưa nói hết ra thôi. Nhưng kẻ xâm lược đâu có
chờ ta, chúng cứ khẩn trương lấn tới, ngày một nguy hiểm. Nay quân xâm lược đã
riễu binh đến sát cửa nhà, thậm chí vào rất sâu trong nội tình, nội địa. Trước
tình hình ấy, nhiều Blogger đã bày tỏ ý kiến rốt ráo quyết liệt hơn trước. Tôi
xin liên kết nhiều ý kiến về lý luận và thực tiễn đã có trên công luận, từ gốc
đến ngọn, nói gọn lại cho rõ ràng hơn.
1. Nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lê đã xong về LÝ LUẬN:
Chủ nghĩa Mác-Lê [1] là một lý thuyết muốn làm điều tốt nhưng nội
dung tư duy lại phi khoa học, hoang tưởng, nên sau những phấn khích ban đầu,
cuối cùng chỉ tạo ra những xã hội phi lý, đảo ngược luân thường, kìm hãm và phá
nát xã hội, tạo những cơ hội bằng vàng cho những kẻ cơ hội chính trị lợi dụng
nhảy lên thành những bạo chúa mới, và gây những tai hoạ cực lớn cho nhân loại,
vì thế cần phải vứt bỏ.
Trải hơn một thế kỷ và trên phạm vi toàn nhân loại, đến nay nhận
thức khoa học đào thải chủ nghĩa hoang tưởng ấy đã hoàn tất. Quanh vấn đề phê
phán chủ nghĩa này bây giờ nói gì cũng chỉ là lặp lại (hoặc nhai lại) những
điều đã giải quyết xong. Với một chân lý đã hiển nhiên thì mọi lý luận dài dòng
đều là thừa. Chân lý đã có (căn cứ vào nhân loại văn minh) thì mặc nhiên sử
dụng đâu cần chứng minh lại? Chân lý nằm ở cộng đồng nhân loại 200 nước, trong
đó có tất cả những nước tiêu biểu nhất cho tri thức nhân loại, hay nằm ở 4 nước
Cộng sản tàn dư đang cố biến thái để tồn tại?
Với người có tim óc bình thường, chân lý ấy khỏi cần bàn cãi. Còn
với những luận điểm “chày cối” thì vấn đề lại sang một bình diện khác, không
còn ở lý luận khoa học, càng lý luận khoa học bao nhiêu lại càng vô ích bấy
nhiêu.
2. Vấn đề Mác-Lê chưa xong trong thực tế Việt Nam.
Mặc dù chân lý đã hiển nhiên, nhưng ở Việt Nam, với 3 “típ” người
này thì chân lý ấy vẫn cứ “có vấn đề” để tranh cãi mãi không dứt:
- Những người quá yếu về tư duy khoa học nên lạc hậu về nhận thức,
-
Những người có tư duy nhưng còn nặng duy cảm hơn duy lý, nên lúng túng chưa
biết xử lý ra sao với gánh nặng tình nghĩa và di sản trong quá khứ.
- Những kẻ cố tình cãi chầy cãi cối vì mục đích duy lợi. Tổng số 3
“típ” người này đang còn rất đông và còn chi phối xã hội, nên trong thực tế câu
chuyện Mác-Lê chưa thể chấm dứt.
Tuỳ theo mức độ và động cơ khước từ chân lý mà họ có thể còn những
nét đáng yêu, đáng thông cảm, hoặc đã thành đáng trách, đáng giận, hoặc đáng
ghét. Với những trường hợp ấy hoặc chỉ cần nói ngắn gọn, chỉ nói vào những
chuyện thực tế, hoặc phải ứng xử bằng cách khác, tuyệt nhiên không cần lý luận
bài bản dài dòng như một đề tài triết học chuẩn mực cho phí công.
Lại có người suy nghĩ đơn giản: Chính ĐCS ngày nay thực chất có
theo Mác-Lê nữa đâu, ta nói Mác-Lê nữa làm gì? Xin thưa, ĐCS chỉ bỏ một phần trong
“Mác Kinh tế” thôi, đâu có bỏ lề lối chuyên chính Mác-Lênin-Staline trong hệ
thống chính trị? ĐCS còn cần đến Mác-Lê cả về danh nghĩa lẫn nội dung.
Chủ nghĩa Mác-Lê (và dẫn xuất là tư tưởng HCM) vẫn là cơ sở để một
đảng CS độc quyền có thể tồn tại, vẫn là yêu cầu có tính chất sinh-tử để duy
trì một xã hội với nhiều điều ngang trái như hiện nay, mất nó điều 4 Hiến pháp
sẽ không có lý do tồn tại, đảng phải giữ nó như giữ con ngươi của mắt mình chứ
không phải chỉ là cái vỏ hờ bên ngoài. Có điều là cái mà người ta cần đặt lên
bàn thờ để sử dụng chưa hẳn đã là cái người ta coi là thiêng liêng (như sẽ nói
thêm ở phần sau).
Thực chất khẩu hiệu “Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN” không
phải nhằm cái đích XHCN xa xôi mà ai cũng biết là không có thật, mà phải hiểu
một cách thiết thực đó là “Kinh tế thị trường kiểu Cộng sản”, tức là quá
trình “tư bản hóa theo những bài bản có lợi nhất mà giới CS chóp bu độc
quyền mong muốn”, là dùng chuyên chính Vô sản độc tôn để độc quyền tích lũy
tư bản, không loại trừ quyền buôn bán tài nguyên và lãnh thổ quốc gia. Chừng
nào quá trình tư bản hoá ấy đã xong thì cái vỏ Mác-Lê sẽ hết tác dụng, và buộc
phải hết tác dụng, nếu không thì những nguyên lý “có áp bức thì có đấu tranh”
và “đào mồ chôn Tư bản” sẽ quay ngược mũi dùi vào chính giai cấp Tư bản đỏ do
Mác-Lê đẻ ra.
3. Vua đã cởi truồng , dân làm sao còn giữ “Lễ” ?
Tại sao sự giả dối lại phát triển thành căn bệnh phổ biến và trầm
kha như hiện nay?
Một chủ nghĩa phi khoa học lại muốn được mọi người tôn vinh là duy
nhất khoa học để cả xã hội tuân theo thì đương nhiên phải lừa bịp, kết hợp với
bạo lực áp đặt. Nhưng trong hai biện pháp đó thì cách lừa bịp, nguỵ biện, giả
khoa học để ngụy tạo sự “tự nguyện” mới là chủ yếu, là sở trường, còn bạo lực
với nhân dân chỉ là phương án 2, phương án bất đắc dĩ. Nhưng sang giai đoạn mạt
kỳ, thực tế đã phơi bày hết thảy, sự mị dân mất tác dụng, thì phương án 2 dần
trở thành chủ yếu, các ĐCS phải bỏ sở trường dùng sở đoản là dùng bạo lực với
nhân dân. Uy tín không còn, chính danh không còn, ngai vàng còn giữ được nhờ
hết vào đội KIÊU BINH khổng lồ, rải khắp hang cùng ngõ hẻm.
Công an thì ngang nhiên tuyên bố “ “chỉ
biết còn Đảng còn mình” , quân đội chẳng những tuyên thệ trung với Đảng mà
còn tuyên bố nhân dân nào theo đảng mới được coi là nhân dân!. Tóm lại, dưới
gầm trời Việt Nam thì công an, quân đội đã là của đảng mà dân cũng là của
đảng luôn (nếu không chấp nhận điều ấy thì thành thù địch). Kiêu binh
vừa gắn chặt với Đảng của xã hội đỏ lại vừa công khai đi sóng đôi với côn đồ
của xã hội đen trước thanh thiên bạch nhật, kiêu binh thản nhiên làm điều vô
pháp luật, luật là tao, tao thích bắt là bắt cần gì phải lệnh, kiêu binh đánh
chết người nếu thích, kiêu binh sẵn sàng văng cả đồ dơ vào mặt
những vị đương quyền tối cao của họ nếu cần thiết…, khi kiêu binh đã muốn ra
oai với dân thì mặt mũi các quan đương triều cũng chẳng là cái đinh gì, vì họ
thừa biết lúc này ai đang cần đến ai?
Phơi hết sự tàn bạo bất cận nhân tình không cần che đậy, đấy là sự
tự bóc trần, tự “khoả thân chính trị” của chế độ chuyên chính trong nước. Đồng
thời, sự chuyên chính trong thế giới Cộng sản với nhau cũng “khoả thân” luôn
không che đậy: việc chính thức thành lập thành phố biển Tam Sa với đầy đủ quy
chế hành chính và quân sự, việc kêu gọi đầu tư ngay trong thềm lục địa đương
nhiên của Việt Nam, đưa 23.000 tàu đánh cá tràn vào vùng biển Việt Nam… đã tự
lột trần cái bản mặt giả dối của chủ nghĩa quốc tế Cộng sản đến mức
không còn một chút lá nho, cả những 16 chữ vàng, quan hệ 4 tốt, và cuộc thi ca
khúc Việt-Trung và lời kêu gọi tri ân kẻ xâm lược cũng trở nên trơ trẽn, hèn hạ
không thể chấp nhận. Làm những điều quá hạ sách ấy, cả thế giới Mác-Lê như muốn
thách thức công luận rằng “ông vô lý, ông tàn bạo, ông ngang ngược thế đấy,
ông cứ làm trái ý dân, cứ làm trái công pháp quốc tế thế đấy làm gì được ông”?.
Thế là Vua đã cởi truồng tồng ngồng giữa phố như trong truyện
ngắn Andersen mà hết thảy vẫn cứ đeo mặt nạ để ca ngợi bộ áo choàng quang vinh
vô địch muôn năm! Thực chất chế độ Cộng sản chỉ là một chế độ phong kiến
biến tướng [2], nên suốt nửa thế kỷ nay, dù oan ức đến mấy người dân
vẫn phải cư xử, ăn nói nhỏ nhẹ cho phải đạo, nói có chỗ dù không bao giờ được
trả lời, chỉ nói râu ria cấm nói vào chỗ phạm. Ngay cả khi có báo chí “lề Dân”
ở trong nước thì lúc đầu cũng chỉ dám nói vào những việc cụ thể, không chạm đến
Đảng, nếu muốn chạm đến gốc rễ của chủ nghĩa và lãnh tụ thì nói theo kiểu “ám
chỉ” xa xôi nhưng ai cũng hiểu… Tất cả những sự đeo mặt nạ giả dối ấy
chẳng qua là giữ LỄ trong một thể chế phong kiến cho phải đạo, ăn nói ra vẻ
cung kính nể nang nhưng trong lòng đã hết tin yêu rồi.
Trò xiếc dối trá lẫn nhau, cố giữ bộ mặt đúng quy cách ấy
không thể kéo dài mãi. Phía vua quan đã “khoả thân tới số” thì dân chúng còn
cung kính giả vờ sao được? Dùng súng hoa cải uy hiếp kẻ cưỡng chế đất, bắt nhốt
Công an để hỏi cung, phụ nữ liều mạng khoả thân để giữ đất… vân
vân… là những hành động “phá cách”! (Nhưng mẹ con bà Làiđã lầm, cái giới hạn nhân
cách tuyền thống mà bà tưởng là ranh giới phòng vệ cuối cùng thì trong thế giới
của những Nguyễn Trường Tô-Hô đâu có giá trị gì?).
Đến giai đoạn này thì các Blogger trong nước cũng không giữ Lễ
nữa: không cần ám chỉ mà kể thẳng tên người tên việc dù là thủ tướng hay tổng
bí thư, hay Bộ Chính trị. Mác-Lê không còn là điểm nhạy cảm phải kiêng, lại còn
nghi ngờ rằng Đảng và nhà nước có định chống xâm lược thật không (hay đã đồng
tình với giặc xâm lược?), coi chính quyền chỉ là một đám cướp lớn phản động đã
rõ ràng…
Một Blogger tối thân cận với trùm chuyên chính Vô sản đã gọi Hồ
Chí Minh là ”Ku Nghệ”mà không bị khiển trách thì đủ
biết trong hậu trường họ đối với cụ Hồ cũng chẳng thành kính gì. Lại xuất hiện
Blog quanlambao (là
tiếng nói của nội bộ Đảng, phe Chỉnh đốn đảng chống phe Tham nhũng) chửi
thẳng như tát nước vào mặt đương kim Thủ tướng còn hơn đánh kẻ thù mà không bị
trừng trị.
Những ranh giới cũ đã bị phá hết. Một giai đoạn đối thoại mới,
bằng ngôn ngữ khác trước, đã bắt đầu. Phía Đảng và nhà nước đã dùng “NGÔN NGỮ”
mới (gồm cả ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ hành động) thì nhân dân cũng dùng
“ngôn ngữ” mới tương xứng. Vua đã cởi truồng, sao Dân còn giữ Lễ mãi được? Tinh
thần nói đúng sự thật, nói hết sự thật đang sang một chất lượng mới.
Cuộc đối thoại mới đã bớt đi rất nhiều mặt nạ phù phiếm để đến gần
với sự thật hơn, bổ ích hơn, khẩn trương hơn, hiệu quả hơn. Những lời mạn đàm
này gửi đến bạn bè cũng trên tinh thần mới và ngôn ngữ mới ấy.
Một khía cạnh khác của nhu cầu nói thật là nhu cầu về phương pháp.
Nếu phía quyền lực đã dùng phương pháp che đậy, nguỵ trang, mơ hồ, chung chung…
mà phía phản biện cũng chơi đúng theo cách ấy thì thua! Trong bóng đá người ta
bảo thế là “bị áp đặt lối chơi”, phải hết sức tránh. Lúc đầu nói
thật quá e sẽ bị quy chụp nên phải thủ thế, nhưng nay đã khác.
4. Tình hình đã quá chín muồi cho một cuộc xâm lược.
Khi Trung quốc chính thức thành lập thành phố Tam Sa (gồm 2 quần
đảo HS và TS của Việt Nam) và đưa 23.000 tàu đánh cá vào vùng biển VN nhiều
người gọi hành động ấy là liều lĩnh và lấy làm ngạc nhiên. Thực ra không đáng
ngạc nhiên và Trung Quốc không hề liều lĩnh khi đã thiết kế chiến lược một cách
vững chắc và tính toán cụ thể chắc ăn trăm phần trăm.
Do vị trí địa-chính trị nên Việt Nam trở thành cửa ngõ mà chủ
nghĩa Đại Hán buộc phải chiếm lĩnh để bành trướng về phía nam, nhưng Việt Nam
trước đây đã kiên cường và mưu lược, phá tan mộng xâm lăng ấy của Trung Quốc.
Bất hạnh thay, sự xuất hiện trào lưu Quốc tế Cộng sản hoang tưởng
đã cung cấp cho Trung Quốc một cơ hội bằng vàng. Họ tận dụng những đặc trưng
của Cộng sản để đưa con mồi vào lưới. Con mồi tự tìm đến cái bẫy, nhưng bị tấm
màn “Quốc tế đại đồng” che mắt, nhìn cái bẫy thành chốn ruột thịt nương
thân. Những năm 1949-1950 khai thông biên giới Việt Trung, một VN đã kiệt lực
buộc phải dựa hẳn vào Trung Quốc để có sức đánh nhau với Pháp, những món hàng
việt trợ từ vũ khí, quân trang quân dụng đến nhu cầu dân sinh là khởi đầu những
trói buộc có tính chiến lược, là sợi dây thòng lọng đầu tiên, tận
dụng những quan hệ thân thuộc của những người lãnh đạo đã có với Trung Quốc làm
sợi dây liên kết.
Cái thòng lọng thứ hai là do chuyến ngoại giao
cầu hòa của Việt Nam diễn ra tại Thành Đô ngày 3-4/9/1990. Xét trong quan
hệ có tính lịch sử giữa 2 kẻ thù truyền kiếp thì cuộc cầu hoà này chính là cuộc
tuyên bố đầu hàng. Với hiệp ước Thành Đô (nhất định lịch sử sau này sẽ bạch
hoá) Trung Quốc đã tẩy rửa được dấu vết chống Trung Quốc của Việt Nam tượng
trưng bởi ý chí chống Tàu cứng rắn của TBT Lê Duẩn và cuộc chiến biên giới
1979. Sau hội nghị Thành Đô kế hoạch xâm lược đã thiết kế xong những nước cờ
căn bản.
Từ đấy trở đi, chỉ cần 4 năm một lần Trung Quốc khống chế người
cầm đầu Việt Nam, tức Tổng Bí thư đảng, là đủ cho kế hoạch xâm lược tiến hành
trôi chảy. Muốn vậy phải giữ cho VN yên vị theo chế độ Cộng Sản, không được dân
chủ hoá, không được liên kết chiến lược với Hoa Kỳ.
Kết quả của chủ trương liên kết chiến lược với Trung Quốc và
liên kết lửng lơ với Hoa Kỳ là đã tạo những “điều kiện cần” và “điều
kiện đủ” cho cuộc thôn tính Việt Nam một cách hoà bình. Điều kiện “cần” là
một bộ máy lãnh đạo Việt Nam phải là bộ máy thân thiện Trung Quốc, không coi
Trung quốc là xâm lược, đồng thời nhân dân Việt Nam thì tinh thần bạc nhược,
không quan tâm đến sự đe doạ của Trung quốc, chấp nhận để “Đảng và Nhà nước
lo”. Điều kiện “đủ” là làm sao khống chế được sự phản kháng của lực lượng tinh
hoa là những người Việt còn giữ được sự cảnh giác và lòng quyết tâm bảo vệ đất
nước, không cho họ đánh thức được dân chúng, đồng thời Hoa Kỳ và quốc tế không can
thiệp.
Khi ĐCSVN đã cam kết với ĐCS TQ thực hiện đủ những điều kiện ấy,
thì (xin lỗi) chỉ một Trung Quốc ngu mới không tiến hành xâm lược Việt Nam.
Giữa lúc quân xâm lược kéo binh mã rầm rập vào trong biên cương Tổ
quốc mà các thủ lĩnh tối cao thì im phăng phắc, nhưng ra lệnh cho khắp nơi hát
vang lời hữu nghị và tri ân, cho tướng lĩnh đứng ra tay bắt mặt mừng, và ra sức
bắt giữ những người phản đối xâm lược! Cảnh tượng diễn ra như một trận công
thành được chuẩn bị chu đáo, có nội công, vô hiệu hóa lính gác, vô hiệu được
quân lính trong thành, lại tổ chức sẵn một đội kèn trống chào mừng, nghênh đón
sứ quân của thiên triều. Tất cả như có sự phân công, phối hợp trong ngoài vậy.
Chẳng trách người dân phải đặt thẳng sự nghi ngờ vào lòng dạ của người cầm vận
mệnh đất nước:
“Nguy cơ mất nước là hoàn toàn có thật. Đến lúc này nhân dân
buộc phải hỏi: Đảng và Nhà nước có thực sự muốn chống xâm lược không?“
(Cả đến việc thông qua Luật biển, làm nức lòng nhiều người, nhưng
tiến hành song song với những động tác ve vãn kẻ xâm lược và cấm dân biểu tình
thì có đáng tin không hay chỉ là “đánh trận giả” để đánh lừa dân chúng, giúp kẻ
địch tiến thêm một bước nguy hiểm?).
Thiên vạn cổ chưa có trận chiến nào được bố trí vẹn toàn như thế,
sao lại bảo cuộc tấn công ấy là liều lĩnh được? Chiến thắng trong tầm
tay, an toàn 100% như thế mà không tiến công thì Trung Quốc ngu à?.
5. Giải Cộng nhi thoát! Có từ bỏ Mác-Lê cùng với cái gọi là XHCN
mới cứu được nước!
Xem như vậy thì suốt từ 1950 tới nay (2012), tất cã những thiết kế
chiến lược và thực thi từng bước chiến thuật cho sự thôn tính Việt Nam kiểu mới
của Trung Quốc đều phải dựa trên một nhân tố trung tâm và quán xuyến là đảng
Cộng sản, thiết chế Cộng sản, và quan hệ Cộng sản. Việt Nam nếu không là
Cộng sản thì Trung Quốc hoàn toàn bó tay.
Vậy, theo lô-gích, đáp số của bài toán phòng thủ đất nước trước
nạn Tân Bắc thuộc đã hiện ra rõ mồn một. Một Việt Nam 90 triệu dân, dân chủ
pháp quyền phi Cộng sản, có bầu bạn khắp năm châu, chẳng có lý gì phải nằm
trong vòng tay “ôm ấp” của Trung Quốc thì anh bạn khổng lồ xấu tính buộc phải
nhớ đến những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa mà chìa bàn tay hữu nghị giao thương
với sự bình đẳng và kính nể.
Truyện kể rằng: Tướng nhà Minh Lưu Bá Ôn vào thăm mộ Khổng Minh,
mặc giáp sắt khi đi qua cổng lát bằng nam châm liền bị hút chặt xuống đất. Lưu
Bá Ôn đang luống cuống bỗng ngước nhìn lên thấy một bức hoành trên đề bốn chữ “Giải
y nhi thoát” (Cởi áo ra thì thoát) bèn làm theo…
Nay chủ nghĩa Mác-Lê đối với ĐCSVN cũng chỉ như chiếc áo giáp sắt,
mặc vào là bị thanh nam châm khổng lồ Trung quốc hút chặt, không ngẩng lên
được. Giải Cộng nhi thoát là cách tự cứu duy nhất, đẹp lòng dân tộc, và
vẹn cả đôi đường.
KẾT LUẬN: GIỜ NGUY BIẾN ĐÃ ĐIỂM !
1. Trước mắt, muốn cứu nước, dân ta cần phá
cho được cái chiến lược “diễn biến hoà bình” trong quan hệ
Trung-Việt, mà thực chất là xâm lược hoà bình và làm mất
nước một cách hoà bình! Họ muốn đô hộ một nước khác mà không cần gây
một cuộc chiến tranh xâm lược, kế hoạch thật là thâm độc!
Chiến lược xâm lược hoà bình này do nhà cầm quyền Tân Đại Hán khởi
thảo và áp đặt, ĐCSVN tự sa vào thế kẹt buộc phải làm theo. Hai đảng thoả
thuận kín, quyết định số phận của Việt Nam là nước nhỏ hơn, nhân dân cả
hai nước đều được sử dụng như những công cụ.
Chỉ có nhân dân Việt Nam mới giúp được ĐCSVN ra khỏi thế bị kìm
kẹp này. Nhưng muốn vậy ĐCS phải dũng cảm chịu đau một chút, khiêm nhường một
chút, giảm đi một chút lòng “kiêu ngạo cộng sản” vô lối, để thừa nhận nhân dân,
để “lột xác”, thoát khỏi chủ nghĩa hoang tưởng phản tiến hoá để trở về với dân
tộc, tìm lại sự vinh quang chính đáng trong niềm kiêu hãnh chung của cả dân
tộc.
Bằng sự gặm nhắm của chiến lược Việt-Trung hữu hảo diễn biến hoà
bình, “cái ổ chim đại bàng” mà tổ tiên ta gây dựng đang từng ngày từng
giờ chật hẹp dần lại một cách toàn diện, thành “cái tổ con chim chích” như
vua Trần Nhân Tông đã lo trước nhiều thế kỷ. Hoạ mất nước đã nhỡn tiền!
Không nhân dân nào thích chiến tranh, nhưng lời QUYẾT CHIẾN, chứ
không HÒA, của Hội nghị Diên Hồng là vết son trong lịch sử. Hoà bình là quý,
nhưng hoà bình để mất nước êm như ru là thứ hoà bình đáng nguyền rủa, không thể
so với sự diễn biến hoà bình để tự chuyển hóa thành một nước dân chủ văn minh,
chính là thứ hòa bình công chính và kiêu hãnh, không kẻ nào chống được.
2. Về căn bản và lâu dài, xuất phát từ nhu cầu xây
dựng đất nước cũng như từ yêu cầu bảo vệ đất nước khỏi hiểm họa Bắc thuộc, xã
hội Việt Nam phải từ giã ảo tưởng Cộng sản, trở về một chế độ dân
chủ lành mạnh thông thường như các nước văn minh, không có con đường nào khác. Chừng
nào còn giữ chế độ gọi là “Xã hội chủ nghĩa” bên cạnh anh Cộng sản khồng lồ
Trung Quốc, thì hoạ mất nước là thường trực.
Có thể ĐCSVN lường trước bước thứ hai này nên nghi ngờ và cấm
người dân biểu tình chống Trung Quốc xâm lược?
Tôi nghĩ mọi việc hoàn toàn trong sáng, không có gì thủ đoạn ở
đây. Cần nói thật với nhau rằng việc trước mắt cũng như lâu dài đều đòi hỏi
phải tháo vòng Kim-cô chuyên chính Vô sản, nhưng tính chất hai việc khác nhau
xa. Kẻ xâm lược là giặc đến từ bên ngoài, cần phải làm cho họ thất bại trong âm
mưu đó, việc ấy phải làm ngay không thể trần trừ, hoàn toàn không giống với
quan hệ người trong một nước với nhau, quan hệ được cố kết bởi tình yêu Tổ quốc
ngàn đời thiêng liêng, để cùng xây dựng một đất nước văn minh là điều hoàn toàn
có thể thực hiện được, mà nước Đức là một tấm gương đầy thuyết phục.
Hà Sĩ
Phu 9-8-2012
-------------------------------------------
BÀI LIÊN QUAN :
Nguyễn
Trung - Viet Studies 11-8-2012
BỎ CỘNG CỨU NƯỚC (Ngô Nhân Dụng) 11/8/2012
ĐỪNG KÉO DÀI SỰ LẠC ĐIỆU!
(Bùi Văn Bồng - 8/8/2012)
Lòng yêu nước đã bị lợi dụng như
thế nào? (Hoàng Ninh - 9/8/2012)
No comments:
Post a Comment