Cao Huy Thuần
Cập nhật lần cuối 29/08/2012
Phát biểu tại Tuần lễ Văn hóa Phật giáo, Nghệ An, tháng 8.2012
Thưa
Quý Vị,
Thưa
các bạn đồng nghiệp, trí thức, sinh viên thân mến,
Tây
phương biết Phật giáo từ hồi đầu thế kỷ 19. Nhưng hồi đó chỉ mới một số ít học
giả và triết gia khám phá ra sức thu hút của một tư tưởng đến từphương Đông mà
người ta không biết nên gọi là tôn giáo hay triết lý. Âm thầm, “ im lặng,
Phật giáo lan ra xã hội, phát triển khắp nơi ở châu Âu ” (1)từ giữa thế kỷ
19 cùng với sự phát triển của trào lưu tiến hóa mà ngày nay ta gọi là hiệnđại.
Âm thầm, im lặng như thếcho đến đầu những năm 60 của thế kỳ 20 thì Phật giáo
bỗng được tiếp nhận rộn ràng trong giới trẻkhi giới này phất lên một phong trào
văn hóa phản kháng (contre-culture) chống lại văn hóa tôn sùng kỹ thuật,
vật chất và tiền bạc. Giới trẻ khao khát một đời sống tâm linh mới giúp họ giải
quyết những vấn đề tâm lý, hiện sinh, và họ nghĩ đã tìm được nơi Phật giáo.Đó
là lúc mà nhiều trí thức trẻ tìm đến Tây Tạng như tìm đến miền đất hứa. Nhanh
chóng, trong vòng hai mươi năm, tu viện và thiền viện mọc lên hàng trăm ngôi
trên khắp Âu Mỹ. Giới trẻ – học thức và trung lưu –gặp một thứ hạnh phúc mới mà
họ thực chứng được bằng kinh nghiệm tu học bản thân trong các thiền đường.Đến
những năm 90 thì báo chí, truyền thông rộ lên cảmột cao trào tin tức, bình
luận, phóng sự, hình ảnh đầy cảm tình với Phật giáo. Cùng lúc, Hollywood nồng
nhiệtđưa lên màn ảnh phim truyện về cuộc đời của đức Phật, về ngài Đạt Lai Lạt
Ma, về Tây Tạng, nhiều ngôi sao màn bạc, nghệ sĩ, ca sĩ danh tiếng trở thành
Phật tử, khiến dư luận, quần chúng, càng có cảm tình hơn. Bây giờ thì Phật giáo
đã mọc rễ, đã phát triển trong xã hội, trong đời sống văn hóa ở Âu Mỹ. Phật
giáo là môn học được ưa chuộng trong các trường đại học Mỹ danh tiếng, thu hút
sinh viên ngày càng đông.
Thưa
Quý Vị và các bạn thân mến, tôi rất vinh đự được nói chuyện với Quý Vị trong
Tuần Lễ Văn Hóa này, và rất vui mừng được đặc biệt làm quen với các bậc trí
thức và các bạn trẻ. Trong mấy câu nhập đề sơlược ở trên, chắc quý vị và các
bạn đã để ý : tôi nhấn mạnh đến giới trẻ và trí thức. Chẳng phải vì tôi thuộc
vào thành phần ấy. Mà vì đó là khía cạnh mà tôi muốn hạn chế trong đề tài của
tôi. Âu Mỹ đang mở lòng tiếp nhận một tư tưởng, một tôn giáo mà họ cho là rất
trẻ và rất hiện đại. Hiện đại :đó là khía cạnh của đề tài rộng lớn mà tôi sẽ
nói chuyện với quý vị hôm nay : tại sao Phật giáo bành trướng được ảnh hưởng
trên Âu Mỹ ? Bài nói chuyện của tôi sẽ gồm 4 điểm vây quanh chủ đề hiện đại.
Trong điểm thứ nhất, tôi sẽ cắt nghĩa thế nào là hiện đại. Trong điểm thứ hai,
tôi trình bày : Phật giáo thích hợp với hiện đại như thế nào. Trong điểm thứ
ba, tôi sẽ nói : thế nhưng chính hiện đại đang bịkhủng hoảng. Trong điểm thứ
tư, tôi trả lời : chính vì hiện đại bị khủng hoảng mà Phật giáo lại càng thích
ứng. Trong suốt bài nói chuyện của tôi, và nhất là trong phần kết luận, các bạn
sẽ nhận ra rằng tôi nói chuyện phương Tây mà thật ra là tôi nói chuyện Việt
Nam. Mở cửa nhìn ra thế giới, chính là để biết mình là gì và biết mình phải làm
gì.
I.
Vậy thì, điểm thứ nhất : Thế nào là hiện đại ? Hiện đại là gì ?
Từ
ngữ này đã trở thành quá phổ thông, đã bị pha loãng ra trong ngôn ngữ thường
ngày, ở ta cũng như ở Âu Mỹ, cho nên phải trở về lại với lịch sử để tìm bản
chất của nó. Thông thường, ta dùng từ hiện đại để nói cái gì là mới, ngầm ý tán
thưởng : mới là hơn cũ, nay là hơn xưa. Thì cũng đúng thôi ! Nhưng có người sẽ
nói trái lại : chắc gì mới đã hơn cũ, chắc gì nay đã hơn xưa ! Ở thời nào cũng
vậy, và ở xã hội nào cũng vậy, hai khuynh hướng cứ đối chọi nhau : một muốn đi
tới, một muốn kéo lui, một cách tân, một hoài cổ, bên nào cũng muốn biện minh
khuynh hướng của mình, và nếu biện minh có hệ thống thì trở thành ý thức hệ,
trở thành chủ nghĩa, “ chủ nghĩa hiện đại ”chống lại “ chủ nghĩa truyền thống
”. Để tránh cả hai cực đoan, cực đoan của phe mới cũng như cực đoan của phe cũ,
tôi lần theo chiều lịch sử phân tích đâu là những yếu tố tạo thành cái mà ta
gọi là hiện đại.
Yếu tố quan trọng nhất là tự chủ,là con
người tự chủ, con người tự mình làm chủ mình. Làm chủ là thế nào ? Kant đã cắt
nghĩa bằng một câu bất hủ khi được hỏi : “ Khai Sáng là gì ? ” Ông trả lời
: “ Là con người bước ra khỏi tình trạng vị thành niên ”. Trước khi tư
tưởng Khai Sáng bừng nở,con người hãy còn thơ ấu, phải vịn vào tay người lớn mà
đi, bây giờ đi được một mình. Chữ Pháp, chữ Anh làm rõ hơn nghĩa đó. Autonomiecó
gốc Hy Lạp là autos (tự mình) và nomos (luật) : con người tự mình
cai trị mình theo luật tự mình làm lấy, chứ không phải luật do người khác làm
ra và bắt mình phải theo. Và luật do mình làm ra dựa trên cái gì ? Dựa trên lý
trí, lý tính mà đã là người thì ai cũng có. “ Hãy có can đảm sử dụng lý tính
của chính mình ! ” : đó là châm ngôn của Khai Sáng và cũng là châm ngôn của
con người hiện đại. Đừng dựa nữa vào bất cứ cái gì ở ngoài con người, nhất là ở
trên cao. Hãy đứng dậy, đừng vịn nữa vào Thượng Đế !
Từ yếu tố quan trọng nhất đó, từ tự
chủ, cả một loạt các yếu tố khác sáng rõ ra, bắt đầu là sự giải phóng của lý
tính phê phán, bởi vì phê phán là chức năng của lý tính. Không có gì được
thoát ra khỏi phê phán, không có đối tượng nào được xem là Tuyệt Đối, là húy
kỵ, kể cả Thượng Đế, kể cả Nhà Thờ. Kant hô to : “ Hãy dám tư tưởng ! ”
Không có lĩnh vực nào là lĩnh vực riêng của bất cứ quyền uy nào : tất cả đều
phải bước qua “ tòa án của lý tính ”.
Trước
tòa án đó, bị cáo mà tư tưởng hiện đại nhắm đến trước tiên là lòng tin tôn
giáo. Phải giải phóng lý tính ra khỏi lòng tin. Phải giải phóng Galilée ra khỏi
lòng tin nô lệ, tin rằng mặt trời xoay chung quanh trái đất. Với lý tính, khoa
học sẽ phát triển, và khoa học có khả năng vén những tấm màn bí mật của vũ trụ
mà lòng tin cố cản. Khoa học, tư tưởng khoa học, đó là ánh sáng dẫn đường cho
tính hiện đại, giúp con người tự mình biến đổi thếgiới, làm thành thế giới của
con người, đập tan mọi xiềng xích của mê muội. Khoa học sẽ phát triển không
ngừng, do đó tiến bộ cũng đi tới không ngừng, tiến bộ giống như mũi tên bắn ra,
chỉ bay thẳng phía trước, không ngoằn ngoèo, vòng vo.
Với
tự chủ của con người trưởng thành, với lý tính được giải phóng ra khỏi lòng
tin, với khoa học vén màn bí mật, các bạn thấy lịch sử của tư tưởng Âu châu cứ dần dần đi vào chiều
hướng củng cố địa vị của con người, bắt đầu từ thời Phục Hưng (thế
kỷXIV-XVI). Chiều hướng đó, khuynh hướng đó, cao trào đó, tên của nó là nhân bản chủ nghĩa
(humanisme). Không thể hiểu được tư tưởng Âu châu nếu không thấy
cái hướng đi đó của chủ nghĩa nhân bản, và cũng không thể hiểu được hiện đại là
gì nếu trước hết không hiểu sự giằng co, có khi âm thầm, có khi dữ dội, giữa
Thiên chúa giáo và nhân bản chủ nghĩa (2). Cố gắng, cố gắng không ngừng để phát
triển, phát triển không ngừng tất cả những khả năng của con người để đừng làm
mất đi bất cứ cái gì làm con người lớn lên, làm con người vinh thăng. Lớn lên
bằng cách nào trong lịch sử Âu châu ? Bằng cách làm bớt đi, làm nhỏ dần Thượng Đế.
Cho đến thế kỷ 19 thì Nietzsche loan báo : “ Thượng Đế chết rồi ! Chúng ta
đã giết ! ”
Sự
thực là Thượng Dế vẫn còn đấy thôi, nhưng thay hình đổi dạng, không còn là
Thượng Đế nhân dạng nữa. Mà cũng chẳng còn thống trị nữa trong tư tưởng, trong
đời sống xã hội, trong luật pháp, trong chính trị, trong sinh hoạt thường ngày
của người Âu châu. Thế kỷ 20 không còn đặt vấn đề giết Thượng Đế nữa, bởi vì
người ta sống ngoài vòng cương tỏa của Thượng Đế, chẳng cần biết Thượng Đế là
ai, có hay không, và chính thái độ dửng dưng đó làm các người bênh vực Thượng
Đế bực mình còn hơn là thái độ chống đối Thượng Đế. Xã hội ngày nay ở châu Âu
đi vào tình trạng mà các nhà xã hội học gọi là thế tục hóa. Thế tục hóa : đó cũng là
một trong những yếu tố đặc trưng của hiện đại. Trên quá trình hiện đại hóa đó thì Tây phương gặp đạo
Phật.
II.
Đạo Phật hiện đại như thế nào trước mắt Tây phương ?
Con
người Tây phương khám phá ra rằng cách đặt vấn đề của đạo Phật đáp ứng nhu cầu
của thời đại mới. Tây phương đang chối từ Thượng Đế thì đạo Phật giải thích
không có Thượng Đế. Tây phương phải nhờ Darwin để cắt nghĩa rằng vũ trụ không
phải do một Đấng nào sáng tạo ra cả trong bảy ngày thì đạo Phật đã nói cách đây
hơn 2500 năm rằng thời gian là vô thủy vô chung, vũ trụ là vô cùng vô tận. Tây
phương ngay ngáy lo sợ về ngày phán xét cuối cùng của Thượng Đế thì Phật giáo
nói : không có ai phán xét ta cả, chỉ có con người phán xét con người thôi. Tây
phương trăn trở về những vấn đề siêu hình thì Phật giao kể chuyện mũi tên : khi
anh bị mũi tên độc bắn vào thân thì anh phải rút nó ra ngay hay anh ca vọng cổ
hỏi mũi tên do ai bắn, lý lịch thế nào, hộ khẩu ở đâu. Rút mũi tên ra : đó là
nhu cầu giải phóng con người ở Tây phương và họ thấy nơi Phật giáo một đáp số
hợp với lý tính, đặt nặng trên kinh nghiệm, trên thực hành, và kiểm chứng được
bằng kết quả bản thân, ở ngay đời này, chứ không phải đợi đến khi lên thiên
đường, xuống địa ngục.
Hợp
với lý tính : người Tây phương ngưỡng mộ nét đặc biệt đó của Phật giáo, làm
Phật giáo khác với các tôn giáo khác. Phật giáo từ chối lòng tin nếu không đặt
cơ sở trên trí tuệ. Bởi vậy, trong Phật giáo không có tín điều. Tây phương ngưỡng
mộ kinh Kâlâma khi Phật dạy : Đừng vội tin một điều gì dù điều
đó được ghi trong kinh điển hay sách vở. Hãy quan sát, suy tư, thể nghiệm, thực
chứng rồi mới tin. Tinh thần đó xuyên suốt kinh kệ Phật giáo. Người
trí thức Tây phương thấy tinh thần đó hợp với khoa học, hợp với đầu óc phê
phán. “ Phật giáo là tôn giáo duy nhất thích ứng với khoa học hiện đại
”, Einstein đã phát biểu như vậy.
Tại sao Phật giáo
hợp với khoa học ?
Tại vì Phật giáo không nói điều gì mà không có kiểm chứng. Phật giáo nói: sự
vật là vô thường. Hãy nhìn chung quanh với mắt của
mình, kinh nghiệm của mình : có cái gì là thường còn đâu ? Cái thường còn duy
nhất là khoảnh khắc này đây. Vậy thì tìm thiên đường ở đâu nếu không phải nơi
chính cái khoảnh khắc này ? Hạnh phúc nằm ngay nơi mỗi khoảnh khắc : đó là bài
học hiện đại quý giá nhất mà Phật giáo đem đến cho người Tây phương. Và hãy
nhìn thêm nữa : mọi sự mọi vật đều tương quan lẫn nhau mà có và tương quan lẫn
nhau mà diệt. Màu hồng nơi đóa hoa kia có phải tự nó mà có không ? Đâu phải !
Nếu không có mặt trời thì nó đâu có hồng thắm như vậy ? Nhưng mặt trời có phải
là tác giả duy nhất của màu hồng kia không ? Không ! Vì nếu không có mưa thì
làm sao hoa sống ? Nhưng mưa có cũng là do mây, mây có cũng là do hơi nước. Cái
này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia cũng không. Đó là luật vô ngã
của Phật giáo và cũng là luật tương quan tương sinh. Ai đọc sách của nhà vũ trụ
vật lý học Trịnh Xuân Thuận đều biết : những luật đó có nhiều điểm hội tụ với
khoa học vũ trụ vật lý. Áp dụng được luật đó vào đời sống bản thân, đời sống
gia đình, đời sống xã hội, cam đoan không cần tìm thiên đường ở đâu xa. Đó là
chưa kể đến luật nhân quả mà ai cũng có thể dễ kiểm
chứng. Từ đó, người Tây phương đi đến một cái nhìn hiện đại hơn nữa vào bản
chất của cuộc đời để hiểu chữ “ khổ ” trong Phật giáo. Họ chất vấn Thượng Đế :
Nếu Thượng Đế là toàn năng thì sinh ra làm chi thiên tai, động đất, triều
cường, dịch này dịch nọ giết hại phút chốc hàng trăm ngàn người như vậy ? Nếu
Ngài là nhân từ thì sao con người khổ thế, con người khổ thế thì Ngài ở đâu ?
Phải chăng, người Tây phương hỏi, khổ nằm ngay trong bản chất của cuộc đời như
muối nằm trong biển, mà sinh lão bệnh tử chỉ là những khía cạnh dễ thấy nhất ?
Từ đó, Tây phương hiểu chữ “ niết bàn ” của Phật giáo đúng hơn hồi thế kỷ 19 :
niết bàn là hết khổ, mà hết khổ là tự mình. Bản thân tôi, mỗi khi tôi nghe ai
cầu cho người chết được siêu thoát, tôi không khỏi cười thầm, bởi vì “ siêu ”
là vượt lên, “thoát ” là giải thoát, vượt lên trên tham sân si thì giải thoát,
vậy thì nên cầu cho cả người sống được siêu thoát. Tôi không dám đùa đâu, người
Tây phương hiểu điều đó hơn ta, bởi vì họ hiểu tư tưởng nhân bản của chính họ :
nhân bản nghĩa là con người vượt lên trên con người, con người có đủ khả năng
để vượt lên trên chính mình.
Nhưng
vượt lên như thế nào, cụ thể bằng cách nào ? Đây là cái mới mà Phật giáo đem
đến cho Tây phương và đem đến trong tinh thần khoa học. Trong lịch sử, Tây
phương đã vượt quá ta hằng mấy thế kỷ nhờ khám phá thế giới bên ngoài. Nhưng
đến một lúc họ bỗng giật mình thấy rằng khám phá thế giới bên ngoài không đủ để
đem lại hạnh phúc như họ tưởng bởi vì con người còn có đời sống ở bên trong.
Ngài Đạt Lai Lạt Ma nhắc họ: “ Những vấn đề của chúng ta, dù đến từ bên
ngoài, như chiến tranh, như bạo lực, như tội ác, hay đến từ bên trong dưới hình
thức khổ đau về tâm lý hay tình cảm, đều sẽ không tìm ra giải pháp chừng nào
chúng ta còn không hiểu chiều sâu nội tâm của ta ”(3). Đó là lúc mà ngài và
các vị sư đắc đạo của Tây Tạng đến Âu Mỹ, mang theo một ánh sáng khoa học mới
rọi soi vào nội tâm của con người, để làm một cuộc cách mạng thứ hai mà người
Tây phương gọi là “ cách mạng ở bên
trong ”, bổ túc cho “ cách mạng ở
bên ngoài ” mà Tây phương đã từng làm, từng biết với khoa học. Chìa khóa
của hạnh phúc không nằm ở đâu khác hơn là trong nội tâm mỗi cá nhân. Mà muốn
nhìn thấy cái chìa khóa đó thì phải rọi soi vào bên trong bằng những kỹ thuật thiền định mà các nhà sư Tây Tạng đã thực chứng do
chính kinh nghiệm của họ. Trong lĩnh vực này, đừng hòng các lang băm đến làm ăn
bịp bợm : khoa học Âu Mỹ đã đặt nền móng vững chắc cho cuộc thám hiểm vào não
bộ của con người. Các nhà sư Tậy Tạng đã đem chính bản thân để các máy móc tối
tân trong các đại học danh tiếng nhất của Mỹ đo lường ảnh hưởng của thiền định
trên não bộ. Họ không phải chỉ đem lời nói, họ đem thực hành, họ đem kỹ thuật,
phương pháp cụ thể để các nhà khoa học quan sát, phán xét tính hiệu nghiệm của
thiền định, góp phần lớn vào sự phát triển của ngành sinh học thần kinh. Tôi
xin thú thực : bản thân tôi có tính đa nghi, khi đọc lịch sử đức Phật, tôi
không hiểu làm sao Phật có thể ngồi thiền định dưới bóng cây bồ đề trong suốt
49 ngày. Bây giờ thì tôi hiểu : mỗi người chúng ta đều có một sức dự trữ tâm
linh mà ta không ngờ bởi vì chưa bao giờ sử dụng. Tôi sẽ trở lui lại điểm này –
cuộc hành trình của ta tìm ta để chữa bệnh cho chính ta và chữa bệnh cho thời đại.
Bây giờ, tiếp tục vấn đề nhân bản và khoa học, có phải
sức quyến rũ của Phật giáo chỉ nằm ở tính khoa học của Phật giáo mà thôi hay
không ?
Tôi không nói đến chiều sâu của triết lý Phật giáo ở đây, cũng không nói đến
tính minh triết mà Tây phương đang tìm lại. Tôi chỉ hạn chế trong một vấn đề
nữa thôi : đạo đức. Đạo đức học ở Tây phương là những răn
cấm, những mệnh lệnh. Người Tây phương hiện đại có cảm tưởng như có ngón tay
chỉ vào trán và ra lệnh : mày không được thế này, mày không được thế kia, mày
làm là phạm tội. Phạm tội với ai ? Tại sao như thế là phạm tội ? Tại sao tội đó
phải nhờ một người khác giải tội với Trên Cao ? Đạo đức đó, con người hiện đại
chối bỏ vì họ cảm thấy như vậy là hãy còn vị thành niên. Đạo đức của Phật giáo
trái hẳn, bắt nguồn từ con người. Không ai ra lệnh, không ai răn cấm. Phật giáo
nói : tham thì khổ, sân thì khổ, si thì khổ. Từ thì vui, bi thì vui, hỷ thì
vui, xả thì vui. Từ bi hỷ xả, cứ thực hành sẽ thấy vui. Tham sân si, cứ mắc vào
sẽ thấy khổ. Đừng giết hại,đừng nói dối, đừng trộm cắp, đừng tà dâm, đừng say
rượu : đó là năm điều tôi tự nguyện với tôi, làm được đến đâu chính tôi nhẹ
nhàng đến đó. Đạo đức của Phật giáo là thực nghiệm, nhắm mục đích làm cho con
người tốt hơn đã đành, nhưng cốt nhất là làm nội tâm thanh thản, bởi vì thanh
thản chính là hạnh phúc.
Hơn
thế nữa, đạo đức Phật giáo còn thức tỉnh con người hiện đại ở Tây phương ở chỗ
nới rộng lòng từ bi và ý thức liên đới ra khắp chung quanh, không những giữa
người với người, mà còn giữa người với thú vật, với thiên nhiên. Dưới ảnh hưởng
của tôn giáo cổ truyền của họ, Tây phương đã cổ vũ, huy động từ thế kỷ 17 mọi
cố gắng để chinh phục, cai trị thiên nhiên. Chiến công đó, nhân loại cám ơn. Xẻ
sông, lấp núi : cái gì con người cũng làm được, thiên nhiên đã bị nhân hóa.
Nhưng thiên nhiên cũng đã bị khai thác, bóc lột đến kiệt quệ, rừng trọc đầu,
mưa hóa chất, nước nhiễm độc, chúng ta biết rõ hơn ai hết. Và rốt cục, con
người ăn trong miếng ăn những chất độc do chính con người thải ra. Đạo đức đối
với thiên nhiên trở thành trách nhiệm của chính con người. Các tôn giáo khác
nói : không được giết người. Phật giáo nói : tôi nguyện không sát sinh, nghĩa
là không giết sự sống, và sự sống đó, thú vật đều có, cây cối thiên nhiên đều
có, vũ trụ, khí quyển, trái đất đều có, tất cả đều liên đới với con người, phải
yêu thương nhau như một thì mới sống còn với nhau.
Tôi
vừa động đến một vấn đề hiện đại có tính tiêu cực : vấn đề môi trường. Bởi vì hiện
đại không phải cái gì cũng hay. Hiện đại cũng có lắm tiêu cực. Hiện đại cũng
đang gặp khủng hoảng. Bởi vậy, sau khi tán thưởng hiện đại và giải thích Phật
giáo hiện đại như thế nào, tôi bắt qua điểm thứ ba, trình bày những khủng hoảng
của hiện đại.
III.
Khủng hoảng của hiện đại
Khủng
hoảng quan trọng nhất của hiện đại là khái niệm về Tiến Bộ.
Hồi thế kỷ 19, với sự phát triển thần kỳ của khoa học, ai cũng lạc quan về
tương lai. Cha đẻ của môn xã hội học, Auguste Comte, xây dựng cả một hệ thống
lý thuyết cắt nghĩa rằng lịch sử của nhân loại là lịch sử của tiến bộ, tiến bộ
của đầu óc con người từ giai đoạn thần linh qua giai đoạn siêu hình để cuối
cùng đến giai đoạn khoa học. Đó là một sự tiến bộ không ngừng và giai đoạn sau
tốt đẹp cho con người hơn giai đoạn trước về phúc lợi, vật chất cũng như tinh
thần. Lạc quan đó, Tây phương đã thấy đổ vỡ phũ phàng với chiến tranh thế giới
thứ hai. Một nước văn minh như nước Đức trở thành một nước dã man, phi nhân,
trong học thuyết cũng như trong hành động. Nước Đức quốc xã đưa ra hình ảnh ghê
rợn của một phá sản tinh thần, khi phá sản đó xảy ra trong chính niềm tin vào “
tiến bộ đạo đức ” mà người ta chờ đợi ở hiện đại. Rồi bom nguyên tử, rồi
Hiroshima, rồi chiến tranh lạnh, rồi leo thang vũ khí tận diệt nhân loại, đâu là
Tiến Bộ, đâu là đạo đức của khoa học ? “ Khoa học mà không có lương tâm là
đổ nát của linh hồn ”, câu nói ấy trở thành thời sự trước mắt. Khoa học là
mục đích nhưng lương tâm phải là người bạn đồng hành. Nói là nói thế, nhưng
trên thực tế người bạn đồng hành của khoa học lại là chiến tranh, buôn bán vũ
khí, chiến tranh làm phát triển khoa học, khoa học phục vụ chiến tranh.
Khái
niệm “ tiến bộ ” cũng được cảnh báo cả khi khoa học làm đúng nhiệm vụ của khoa
học là tìm tòi, nghiên cứu, phát minh, vén màn bí mật của vũ trụ và đời sống.
Không có gì quý hóa cho con người hơn là những phát minh càng ngày càng nhiều
trong y khoa. Khám phá về tế bào gốc chẳng hạn là một trong những phúc lợi lớn
mà nhân loại chờ đợi. Nhưng lương tâm có cho phép ta tạo ra đồng loạt vô số
những người y chang giống nhau trong tương lai ? Chẳng lẽ khoa học cũng bắt
chước Tôn Hành Giả nhổ một sợi lông, thổi một cái, để biến ra thành cả trăm con
khỉ giống hệt nhau, chẳng biết con nào là khỉ gốc họ Tôn ? Hiện đại đang gặp
phải vấn đề của “ đạo đức sinh học ”, mà đạo đức sinh học không thể không liên
quan đến cái nhìn của tôn giáo.
Cuối
cùng, khái niệm “ tiến bộ ” còn được đặt lại khi tiến bộ vật chất đưa đến xã
hội tiêu thụ trong đó con người bị tha hóa, nghĩa là mất địa vị chủ. Đây là mê
lộ trong đó con người Âu Mỹ nhởn nhơ sa vào. Muốn phồn thịnh kinh tế, phải sản
xuất. Muốn sản xuất, phải có tiêu thụ. Muốn có tiêu thụ, phải kích thích nhu
cầu, không có nhu cầu cũng phải kích lên cho có. Nhu cầu này được thỏa mãn,
phải kích lên nhu cầu khác, nhu cầu phải luôn luôn mới để đáp ứng sản xuất phải
mới luôn luôn. Hiện đại đòi hỏi những con người có lý tính. Đâu còn là lý tính
nữa trước cuộc chạy đua không ngừng đuổi theo nhu cầu giả tạo, đuổi theo tiêu thụ phù
du ? Con người trở thành nô lệ của quảng cáo, và quảng cáo, tuyên truyền, có đủ
mánh lới để tước bỏ phê phán ra khỏi đầu óc người nghe. Lúc nhỏ, ở lớp 11, 12,
tôi học câu thơ của Nguyễn Công Trứ : “ Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời
túc ”. Biết đủ thì đủ, tìm đủ thì biết đến bao giờ mới thấy đủ ! Ấy là câu
thơ dí cái chìa khóa vào tay ta để mở cửa thoát ra khỏi mê lộ tiêu thụ. Nhưng
cái tài của quảng cáo là mê hoặc, đưa con người tiêu thụ vào siêu thị mà làm
người ta tưởng vào chốn đào nguyên!
Tha hóa : con người hiện đại thoát ra khỏi tha hóa
đối với Trên Cao thì lại rơi vào tha hóa ở dưới đất. Tha hóa trước sản phẩm,
hàng hóa. Tha hóa trước thịt rường. Bởi
vì cái gì bây giờ cũng trở thành thị trường, cái gì cũng bị thị trường khai
thác, kể cả lĩnh vực tâm linh. Phật giáo cũng bị thôi, và bị chính vì sự thành
công của mình. Tôi chỉ lấy một ví dụ thôi : cái nhãn hiệu “Nirvana” trên một
sản phẩm sắc đẹp của quý bà. Thoa kem ấy vào, lập tức thấy cực lạc ! Cực lạc
bỗng trở thành nạn nhân của tha hóa. Tôi nhấn mạnh điểm này để giải thích cho
các bạn về sự biến đổi của lòng tin ở Tây phương. Đúng là người Âu châu có vấn
đề với Thượng Đế. Đúng là nhà thờ vắng tín đồ. Đúng là linh mục khan hiếm, phải
cầu viện đến tận các linh mục Phi châu. Đúng là người Âu châu không đi tìm nữa
trong tôn giáo truyền thống của họ câu giải đáp lớn cho những khắc khoải của
tâm linh, mà đi tìm những phương thuốc tức thì trên hạ giới này, trên đời sống
này, ở đây và bây giờ, here and now. Đúng như quy luật của thị trường, ở đâu có
cầu thì ở đấy có cung. Hàng loạt tín ngưỡng lang băm, chính tà lẫn lộn, xuất
hiện trên thị trường tâm linh, tranh nhau giành khách. Và khách ở đây là những
người có đời sống vật chất đầy đủ,nhưng bơ vơ, cô đơn, mất tập thể, mất phương
hướng, mất ý nghĩa sống. Ngày trước, con người Âu châu cũng yếu đuối trước Thượng Đế, nhưng
họ có cái gì để tin, họ có cái chắc chắn. Bây giờ họ cũng yếu đuối, nhưng không
có cái gì để tin nữa, họ mất chân đứng, họ mất quân bình, họ mất chiều cao lẫn
chiều ngang, họ lung lay. Và vì họ lung lay, họ tưởng cần phải củng cố cái “
tôi ” của họ, cái “ tôi ” mà một chủ nghĩa cá nhân quá đà đã đề cao lên thượng
đỉnh.
Các
bạn hiểu tại sao ngành phân tâm học phát triển như thế ở Âu Mỹ, tại sao các bác
sĩ phân tâm học đông khách nhà giàu và trí thức : họ đi tìm cái “ tôi ” của họ!
Nhưng cái “ tôi ” của họ trốn ở đâu ? Một số người đi tìm trong cùng tận thâm
sâu bí ẩn của ý thức dưới ánh đèn pin của ông Freud. Một số, nông cạn hơn, nghĩ
rằng cái “ tôi ” của mình là cái thân này đây, phải làm cho nó mạnh, khỏe, đẹp,
và nhất là trẻ mãi, để “ cực lạc ” mãi. Tất nhiên họ biết : cung cấp món ăn cho
cái thân thì cũng phải cung cấp món ăn cho cái tâm, vì tâm không yên thì thân
cũng khó khỏe. Nhưng họ ăn gì trên mâm cơm tinh thần của họ ? Ăn lẩu. Nghĩa là
hổ lốn. Chút tôm, chút mực, chút thịt gà. Chút Chúa chút Phật. Bác ái lộn xà
ngầu với từ bi. Lấy một chút chỗ này, một chút chỗ kia, cái gì mà cá nhân mỗi
người thấy hoặc tưởng thích hợp cho riêng mình thì gắp bỏ chung vào cái lẩu
nước xúp tâm linh. Người Pháp gọi cách thực hành tân thời này là “ bricolage
”- lắp ghép thủ công.
Trong
chiều hướng đó, ngồi thiền phát triển khắp nơi tại Âu Mỹ. Tất nhiên là hay.
Nhưng trong cái hay đó, coi chừng cái dở. Cái dở là thị trường tâm linh đánh
đúng vào tâm lý con người thời đại, quảng cáo ngồi thiền như một kỹ thuật để
gìn giữ sức khỏe và chỉ như một kỹ thuật mà thôi. Như một kỹ thuật, quảng cáo
biến ngồi thiền thành một thứ kem xức mặt, xức vào thì da mặt mát ra, nhìn vào
gương thấy cái “ tôi ” của mình như gái một con trông mòn con mắt. Chắc các bạn
biết thần thoại Hy Lạp về anh chàng Narcisse. Anh chàng mê mình ến độ ngất ngây
soi bóng mình trên mặt nước, soi gần, thật gần, môi chạm môi, và anh chàng lộn
cổ xuống ao. Con người hiện đại ở Tây phương cũng mê cái “ tôi ” của mình như
thế, ve vuốt nó, hôn nó, tưởng nó có thật trong một dòng sông ảo. Nhà sư danh
tiếng Tây Tạng Chögyam Trungpa gọi đùa khuynh hướng đó là “ chủ nghĩa duy vật
tâm linh ” (“spiritual materialism ”). Nhưng đó đích thực là một vấn
đề,một thách thức đối với hiện tại và tương lai của Phật giáo tại Âu Mỹ. Bởi vì
ngồi thiền không phải chỉ là một kỹ thuật, lại càng không phải để phục vụ cho
cái “ tôi ”. Ngồi thiền, chính là để thấy cái “ tôi ” là không có. Và như vậy
là tôi bắt qua điểm thứ tư : Phật giáo trong thời hiện đại bị khủng hoảng.
IV.
Phật giáo và khủng hoảng của hiện đại
Nhiều
tác giả gọi thời đại này là “ hậu hiện đại”. Tôi không đồng ý với khái
niệm này nên chỉ đề cập ở đây hiện tượng khủng hoảng thôi. Và tôi cũng chỉ xin
hạn chế vấn đề vào một khủng hoảng thôi là khủng hoảng của cái “ tôi”.
Trước
hết, tôi không phủ nhận phúc lợi của việc ngồi thiền, dù cho ngồi thiền chỉ để
tăng cường sức khỏe. Ai đã ngồi thiền và ngồi thiền đúng kỹ thuật rồi đều nói :
không phải chỉ sức khỏe được tăng cường, tâm hồn cũng được thư thái. Bản thân
tôi không phải chỉ chứng nghiệm một lần mà cả ngàn lần : chỉ cần biết nén giận
trong một giây thôi, đừng cho nó nổ ra, đã là khóa được cái cửa của địa ngục.
Huống hồ ngồi thiền không phải chỉ trong một giây ! Bởi vậy, người Tây phương
biết đưa việc ngồi thiền vào nhiều lĩnh vực : bệnh viện, nhà tù, trường học,
công sở, xí nghiệp… Họ làm có phương pháp, bài bản, làm việc gì cũng phải làm
cho đến nơi đến chốn.
Nhưng
thiền không phải chỉ là thế. Thiền là tự biết mình, và tự biết mình là để quên
mình. Quên mình là để nhập làm một với tất cả những gì hiện hữu. Đó là câu định
nghĩa của Đạo Nguyên mà các thiền viện ở Âu Mỹ áp dụng như kinh nhật tụng. Thế
nào là tự biết mình ? Tôi không muốn đưa các bạn vào lý thuyết xa xôi. Chỉ nói
một hành động nhỏ nhặt, cụ thể, của một người Âu Mỹ khi lần đầu tiên bước vào
thiền đường. Cử chỉ đầu tiên là cởi giày. Cởi giày, xếp ngay ngắn. Bước nhẹ vào
thiền đường. nghe một mùi hương thoảng, gặp một im lặng thẳm sâu, đi trên một
sàn gỗ sạch không một hạt bụi, thấy một không gian không chướng ngại mở rộng ra
trước mắt. “ Cởi giày ”: đó là bài kinh đầu tiên của họ. Cởi vướng mắc ra, giải
thoát cho hai bàn chân, hai bàn chân quý lắm, bao nhiêu nút thần kinh nằm ở
trong đó, hai bàn chân quý lắm, nhờ nó mà mình đứng vững được, hai bàn chân quý
lắm, hãy biết quý hai bàn chân như chưa bao giờ mình biết quý nó trước đây, hãy
nghe hai bàn chân đang hạnh phúc khi gặp hơi mát của sàn gỗ, nó và cái sàn gỗ
đang tan thành một, người bước vào phòng đang biến thành một với gian phòng
trống, với im lặng mênh mông. Bàn chân quên nó. Người bước vào phòng quên mình,
để cái “ tôi ” ngoài cửa, như để đôi dép.
Từ
khi sinh ra, ta đã muốn chỉ huy cả thế giới, sai khiến mọi người chung quanh.
Đói, khóc ầm lên, mẹ phải đưa ngay bầu sữa. Thèm hơi ấm, mếu máo để được người
bồng. Muốn cái gì phải có ngay cái nấy, không thì la hét. Ta là trung tâm của
vũ trụ, tất cả mọi người đều phải chiều ta. Lớn lên, ta cũng vậy thôi, 99% của
cuộc đời ta được xài phí để lái thiên hạ, bắt thiên hạ phải thỏa mãn ý muốn của
ta. Thậm chí, cái mà ta gọi là “ tình yêu ” suy cho cùng cũng chỉ là nhu cầu
cần có một quan hệ gần gũi để ta cảm thấy sung sướng. Có lẽ ở đâu cũng vậy,
nhưng trong văn hóa của cá nhân chủ nghĩa Âu Mỹ, nghĩ đến ta được xem là chuyện bình
thường, tất nhiên. Ai lái người khác giỏi ể phục vụ mình tốt, người ấy được xem
là thành công. Thiền là trái ngược lại. Không nhắm tích tụ.Không nhắm chinh
phục. Càng nhiều cái “ có ” càng ít cái “ là ”, cái tinh túy, cái bản chất, cái
đem lại hạnh phúc. Và tôi “ là ” gì,
chính là ở phút này đây. Ở phút này đây, tôi còn sống, còn thở, còn nói, còn có
các bạn để nghe, còn có nắng đẹp ngoài kia, gió mát đang thổi, hạnh phúc vô
biên, hạnh phúc được sống với cái khoảnh khắc này, được làm một với các bạn,
được làm một với tất cả, được làm một với tờ giấy trước mắt tôi. Thiền không
phải là ngồi yên. Thiền là không đi ăn mày nữa, không ngửa tay xin xu hào nơi
người khác, nơi bên ngoài, bởi vì thiền là biết rằng cả một kho tàng châu báu
nằm ở trong ta, hãy nhìn vào để thấy, và để chiêm nghiệm rằng ta càng trống đi
cái “ tôi ” thì kho tàng ấy càng đầy.
Các
thiền viện Âu Mỹ biết nhắm đến cái mục đích ấy. Kho báu trong tôi càng đầy, khả
năng nhập thành một với mọi vật chung quanh càng nhạy bén, và khi ấy, tôi khổv ới
cái khổ của bạn, tôi vui với cái vui của bạn, tôi không còn nữa, bạn cũng không
còn nữa, chỉ còn cái khổ chung, cái vui chung. Định nghĩa của chữ “ từ bi ”là
như vậy, và ngồi thiền chính là để mở rộng lòng từ bi. Tôi đã là một với tất
cả, làm sao tôi không thương tất cả, từ thiên nhiên đến loài vật, từ người gần
đến người xa ?
Tôi
biết : đó là lý thuyết rất cao mà không phải ai cũng đạt được hoặc hiểu được.
Nhưng, tôi xin quả quyết : cứ bước dần đi mỗi bước rồi sẽ thấy : quên mình
nhiều nhiều hơn một chút, nghĩ đến người khác nhiều nhiều hơn một chút, ấy là
con đường đi đến hạnh phúc. Và xin các bạn hãy biết điều này : các người Âu Mỹ
ngồi trong thiền đường phần đông là trí thức hoặc thuộc thành phần cao trong xã
hội, đã nắm khá vững lý thuyết Phật giáo và có lòng hướng đến một cái gì cao
hơn đời sống vật chất, vị kỷ. Tôi nói điều này là để nghĩ đến tương lai của Phật giáo ở Âu Mỹ. Phật
giáo hạn chế ở tầng lớp trí thức hay mở rộng ra cho đại chúng ?
Tôi
không có thì giờ để đi sâu vào câu hỏi này. Chỉ xin nói rằng : bộ não của con
người gồm hai phần : khả năng lô-gích, trừu tượng, phân tích, tương ứng với não
bộ phía trái ; khả năng nhận ra sự giống nhau giữa những cái khác nhau, trực
giác, tổng hợp, tương ứng với não bộ phía phải (4). Tác giả Frédéric Lenoir cho
rằng văn minh Tây phương chú trọng tác động trên vũ trụ, tương ứng với việc đặt
ưu tiên trên não bộ phía phải. Phật giáo đến Tây phương đã đóng vai trò tích
cực trong việc làm quân bình hai vùng trong não bộ con người Tây phương. Trong
cái ý đó, câu nói nổi
tiếng của nhà sử học Arnold Toynbee đã thành dễ hiểu : “ Sự gặp gỡ giữa Phật giáo và Tây phương là biến cố có ý nghĩa
nhất của thế kỷ 20 ”.
Tôi
cũng nhân cái ý đó để nói thêm rằng Phật giáo chính là sự quân bình và trước
hết là quân bình giữa trí tuệ và lòng tin. Không có trí tuệ thì không hiểu được
đức Phật. Nhưng không có lòng tin thì cánh cửa cuối cùng của trí tuệ vẫn không
mở ra. Trí tuệ cũng như hoa mai. Lòng tin cũng như hơi ấm đầu tiên của mùa
xuân. Chạm vào một điểm của hơi ấm đó thôi, hoa nở bung.“ Nhất điểm xuân
quang xứ xứ hoa ” là vậy. Chỉ một làn gió xuân thoảng qua thôi, chốn chốn
hoa mai bừng nở. Thiền là cây cầu bắt qua giữa trí tuệ và lòng tin. Đó là pháp
môn – cánh cửa đạo – mở ra cho các bậc thượng thủ. Nhưng không phải ai cũng là
thượng thủ cả, cho nên Phật giáo nói có đến “ bốn vạn tám ngàn pháp môn ” thích
hợp với căn cơ của mỗi người. Ai giàu trí tuệ, như giới trí thức ở Âu Mỹ, đi
vào Phật giáo bằng cửa thiền. Ai giàu lòng tin… Đây chính là tương lai của Phật
giáo tại Tây phương. Bởi vì Phật giáo muốn lan tỏa ở đây phải biết rằng không
phải ai cũng là trí thức. Vậy
thì, có một nhánh Phật giáo nào ở Âu Mỹ có khả năng lan tỏa ra đại chúng chăng
? Có. Đó là Phật giáo Tây Tạng mà ngài Đạt Lai Lạt Ma là hình ảnh sống động.
Phật giáo bám rễ được ở Tây phương là nhờ ngài và cả một loạt những nhà sư Tây
Tạng xuất chúng qua giáo hóa tại đấy. Chỉ mỗi một việc xuất hiện của các vị đó
thôi đã làm dấy động được lòng tin nơi quần chúng. Phật giáo Tây Tạng đáp ứng
được những khắc khoải về tâm linh của quần chúng hơn là thiền tông đến từ các
thiền sư Nhật Bản. Nhưng dù là thiền tông hay Phật
giáo Tây Tạng, trí tuệ và lòng tin phải cùng bay với nhau như hai cánh của con
đại bàng.
Các
bạn đồng nghiệp trí thức và sinh viên thân mến, chính vì hai cánh của con đại
bàng mà tôi chọn đề tài này để nói chuyện với các bạn hôm nay. Tôi đâu có nói
chuyện bên Tây. Tôi nói chuyện bên ta ! Chúng ta đã lãng quên trí tuệ của thiền
tông Yên Tử. Chẳng lẽ đạo Phật trí tuệ đã bay cả rồi qua bên Tây ? Chẳng lẽ Tây
phương thừa hưởng hết tinh túy của Phật giáo ? May thay, chúng ta rất giàu lòng
tin, nhưng buồn thay, lắm khi, lắm nơi, đó là tin nhảm, đó là mê tín, đó không
phải là đạo Phật. Không, nhất quyết ta không để gãy chiếc cánh trí tuệ của con
đại bàng Lý Trần. Nhất quyết ta củng cố lòng tin chân chính. Đó là nhiệm vụ của
Tuần Lễ Văn Hóa hôm nay. Các bạn trí thức Nghệ An thân mến, hãy chắp lại hai
cánh của con đại bàng lịch sử. Hãy bay với hai cánh vào hiện đại.
Chú thích :
Câu nói của Nietzsche, trích trong Frédéric Lenoir, Le
bouddhisme en Francetrang 9.
Fernand Braudel :Grammaire des civilisations,
Arthaud-Flammarion, 1987, trang 371.
Dẫn trong Frédéric Lenoir, La rencontre du
bouddhisme et de l’Occident, Albin Michel, 2001, trang 318.
Frédéric Lenoir, như trên, trang 353.
NGUỒN : Bài phát biểu tại Tuần lễ Văn hóa Phật giáo tỉnh
NghệAn
(trung tuần tháng 8.2012). Bản do tác giả gửi Diễn Đàn.
No comments:
Post a Comment