9-8-2012
Trong “Thư gửi
người đang yêu” nhà văn Phạm Đình Trọng đã nói với
những bạn bè còn vương vấn chút “yêu đương” với Chủ nghĩa Cộng sản, rằng chủ
nghĩa Cộng sản mà học thuyết Mác-Lê vạch đường là một chủ nghĩa sai lầm, chỉ
gây ra tội lỗi với đất nước, không thể sửa chữa mà chỉ có cách duy nhất là xoá
bỏ tận gốc.
Có một thực tế là trong nước cũng
không ít người đã suy nghĩ gần giống như vậy nhưng còn đắn đo chưa nói hết ra
thôi. Nhưng kẻ xâm lược đâu có chờ ta, chúng cứ khẩn trương lấn tới, ngày một
nguy hiểm. Nay quân xâm lược đã riễu binh đến sát cửa nhà, thậm chí vào rất sâu
trong nội tình, nội địa. Trước tình hình ấy, nhiều Blogger đã bày tỏ ý kiến rốt
ráo quyết liệt hơn trước. Tôi xin liên kết nhiều ý kiến về lý luận và thực tiễn
đã có trên công luận, từ gốc đến ngọn, nói gọn lại cho rõ ràng hơn.
1. Nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lê
đã xong về LÝ LUẬN:
Chủ nghĩa Mác-Lê [1] là một lý
thuyết muốn làm điều tốt nhưng nội dung tư duy lại phi khoa học, hoang tưởng,
nên sau những phấn khích ban đầu, cuối cùng chỉ tạo ra những xã hội phi lý, đảo
ngược luân thường, kìm hãm và phá nát xã hội, tạo những cơ hội bằng vàng cho
những kẻ cơ hội chính trị lợi dụng nhảy lên thành những bạo chúa mới, và gây
những tai hoạ cực lớn cho nhân loại, vì thế cần phải vứt bỏ.
Trải hơn một thế kỷ và trên phạm vi
toàn nhân loại, đến nay nhận thức khoa học đào thải chủ nghĩa hoang tưởng ấy đã
hoàn tất. Quanh vấn đề phê phán chủ nghĩa này bây giờ nói gì cũng chỉ là lặp
lại (hoặc nhai lại) những điều đã giải quyết xong. Với một chân lý đã hiển
nhiên thì mọi lý luận dài dòng đều là thừa. Chân lý đã có (căn cứ vào nhân loại
văn minh) thì mặc nhiên sử dụng đâu cần chứng minh lại? Chân lý nằm ở cộng đồng
nhân loại 200 nước, trong đó có tất cả những nước tiêu biểu nhất cho tri thức
nhân loại, hay nằm ở 4 nước Cộng sản tàn dư đang cố biến thái để tồn tại?
Với người có tim óc bình thường,
chân lý ấy khỏi cần bàn cãi. Còn với những luận điểm “chày cối” thì vấn đề lại
sang một bình diện khác, không còn ở lý luận khoa học, càng lý luận khoa học
bao nhiêu lại càng vô ích bấy nhiêu.
2. Vấn đề Mác-Lê chưa xong trong
thực tế Việt Nam.
Mặc dù chân lý đã hiển nhiên, nhưng
ở Việt Nam, với 3 “típ” người này thì chân lý ấy vẫn cứ “có vấn đề” để tranh
cãi mãi không dứt:
- Những người quá yếu về tư duy khoa học nên lạc hậu về
nhận thức,
- Những người có tư duy nhưng còn nặng duy cảm hơn duy lý, nên lúng túng chưa biết xử lý ra sao với gánh nặng tình nghĩa và di sản trong quá khứ.
- Những người có tư duy nhưng còn nặng duy cảm hơn duy lý, nên lúng túng chưa biết xử lý ra sao với gánh nặng tình nghĩa và di sản trong quá khứ.
- Những kẻ cố tình cãi chầy cãi cối vì mục đích duy lợi.
Tổng số 3 “típ” người này đang còn rất đông và còn chi
phối xã hội, nên trong thực tế câu chuyện Mác-Lê chưa thể chấm dứt.
Tuỳ theo mức độ và động cơ khước từ
chân lý mà họ có thể còn những nét đáng yêu, đáng thông cảm, hoặc đã thành đáng
trách, đáng giận, hoặc đáng ghét. Với những trường hợp ấy hoặc chỉ cần nói ngắn
gọn, chỉ nói vào những chuyện thực tế, hoặc phải ứng xử bằng cách khác, tuyệt
nhiên không cần lý luận bài bản dài dòng như một đề tài triết học chuẩn mực cho
phí công.
Lại có người suy nghĩ đơn giản: Chính ĐCS ngày nay thực chất có theo Mác-Lê nữa đâu, ta
nói Mác-Lê nữa làm gì? Xin thưa, ĐCS chỉ bỏ một phần trong “Mác Kinh tế” thôi,
đâu có bỏ lề lối chuyên chính Mác-Lênin-Staline trong hệ thống chính trị? ĐCS còn
cần đến Mác-Lê cả về danh nghĩa lẫn nội dung.
Chủ nghĩa Mác-Lê (và dẫn xuất là tư tưởng HCM) vẫn là cơ sở để một đảng CS độc quyền có thể tồn tại,
vẫn là yêu cầu có tính chất sinh-tử để duy trì một xã hội với nhiều điều ngang
trái như hiện nay, mất nó điều 4 Hiến pháp sẽ không có lý do tồn tại, đảng phải
giữ nó như giữ con ngươi của mắt mình chứ không phải chỉ là cái vỏ hờ bên
ngoài. Có điều là cái mà người ta cần đặt lên bàn thờ để sử dụng chưa hẳn đã là
cái người ta coi là thiêng liêng (như sẽ nói thêm ở phần sau).
Thực chất khẩu hiệu “Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”
không phải nhằm cái đích XHCN xa xôi mà ai cũng biết là không có thật, mà phải
hiểu một cách thiết thực đó là “Kinh
tế thị trường kiểu Cộng sản”, tức là quá trình “tư bản hóa theo những bài bản có lợi nhất mà giới CS
chóp bu độc quyền mong muốn”, là dùng chuyên chính Vô sản độc tôn để độc
quyền tích lũy tư bản, không loại trừ quyền buôn bán tài nguyên và lãnh thổ
quốc gia. Chừng nào quá trình tư bản hoá ấy đã xong thì cái vỏ Mác-Lê sẽ hết
tác dụng, và buộc phải hết tác dụng, nếu không thì những nguyên lý “có áp bức
thì có đấu tranh” và “đào mồ chôn Tư bản” sẽ quay ngược mũi dùi vào chính giai
cấp Tư bản đỏ do Mác-Lê đẻ ra.
3. Vua đã cởi truồng , dân làm
sao còn giữ “Lễ” ?
Tại sao sự giả
dối lại phát triển thành căn bệnh phổ biến và trầm kha như hiện nay?
Một chủ nghĩa phi khoa học lại muốn
được mọi người tôn vinh là duy nhất khoa học để cả xã hội tuân theo thì đương
nhiên phải lừa bịp, kết hợp với bạo lực áp đặt. Nhưng trong hai biện pháp đó
thì cách lừa bịp, nguỵ biện, giả khoa học để ngụy tạo sự “tự nguyện” mới là chủ
yếu, là sở trường, còn bạo lực với nhân dân chỉ là phương án 2, phương án bất
đắc dĩ. Nhưng sang giai đoạn mạt kỳ, thực tế đã phơi bày hết thảy, sự mị dân
mất tác dụng, thì phương án 2 dần trở thành chủ yếu, các ĐCS phải bỏ sở trường
dùng sở đoản là dùng bạo lực với nhân dân. Uy tín không còn, chính danh không còn, ngai vàng còn
giữ được nhờ hết vào đội KIÊU BINH khổng lồ, rải khắp hang cùng ngõ hẻm.
Công an thì ngang nhiên tuyên bố “chỉ biết còn
Đảng còn mình” , quân đội
chẳng những tuyên thệ trung với Đảng mà còn tuyên bố nhân dân nào theo đảng mới
được coi là nhân dân!. Tóm lại, dưới gầm trời Việt Nam thì công an, quân đội đã là của đảng mà dân cũng là của đảng luôn
(nếu không chấp nhận điều ấy thì thành thù địch). Kiêu binh vừa gắn chặt với Đảng của xã hội đỏ lại vừa công khai
đi sóng đôi với côn đồ của xã hội đen trước thanh thiên bạch nhật, kiêu binh
thản nhiên làm điều vô pháp luật, luật là tao, tao thích bắt là bắt cần gì phải
lệnh, kiêu binh đánh chết người nếu thích, kiêu binh sẵn sàng văng cả đồ dơ vào mặt những vị đương
quyền tối cao của họ nếu cần thiết…, khi kiêu binh đã muốn ra oai với dân thì
mặt mũi các quan đương triều cũng chẳng là cái đinh gì, vì họ thừa biết lúc này
ai đang cần đến ai?
Phơi hết sự tàn bạo bất cận nhân tình không cần che
đậy, đấy là sự tự bóc trần, tự “khoả thân chính trị” của chế độ chuyên chính
trong nước. Đồng thời, sự chuyên chính
trong thế giới Cộng sản với nhau cũng “khoả thân” luôn không che đậy: việc
chính thức thành lập thành phố biển Tam Sa với đầy đủ quy chế hành chính và
quân sự, việc kêu gọi đầu tư ngay trong thềm lục địa đương nhiên của Việt Nam,
đưa 23.000 tàu đánh cá tràn vào vùng biển Việt Nam… đã tự lột trần cái bản mặt
giả dối của chủ nghĩa quốc tế Cộng sản đến mức không còn một chút lá
nho, cả những 16 chữ vàng, quan hệ 4 tốt, và cuộc thi ca khúc Việt-Trung và lời
kêu gọi tri ân kẻ xâm lược cũng trở nên trơ trẽn, hèn hạ không thể chấp nhận. Làm những điều quá hạ sách ấy, cả thế giới Mác-Lê như
muốn thách thức công luận rằng “ông
vô lý, ông tàn bạo, ông ngang ngược thế đấy, ông cứ làm trái ý dân, cứ làm trái
công pháp quốc tế thế đấy làm gì được ông”?.
Thế là Vua đã cởi truồng tồng
ngồng giữa phố như trong truyện ngắn Andersen mà hết thảy vẫn cứ đeo mặt nạ để
ca ngợi bộ áo choàng quang vinh vô địch muôn năm! Thực chất chế độ Cộng sản chỉ là một chế độ phong kiến biến tướng [2], nên suốt nửa thế kỷ nay,
dù oan ức đến mấy người dân vẫn phải cư xử, ăn nói nhỏ nhẹ cho phải đạo, nói có
chỗ dù không bao giờ được trả lời, chỉ nói râu ria cấm nói vào chỗ phạm. Ngay
cả khi có báo chí “lề Dân” ở trong nước thì lúc đầu cũng chỉ dám nói vào những
việc cụ thể, không chạm đến Đảng, nếu muốn chạm đến gốc rễ của chủ nghĩa và
lãnh tụ thì nói theo kiểu “ám chỉ”
xa xôi nhưng ai cũng hiểu… Tất cả những sự đeo mặt nạ giả dối ấy chẳng qua là
giữ LỄ trong một thể chế phong kiến cho phải đạo, ăn nói ra vẻ cung kính nể
nang nhưng trong lòng đã hết tin yêu rồi.
Trò xiếc dối trá lẫn nhau, cố giữ bộ
mặt đúng quy cách ấy không thể kéo dài mãi. Phía vua quan đã “khoả thân tới
số” thì dân chúng còn cung kính giả vờ sao được? Dùng súng hoa cải uy hiếp kẻ
cưỡng chế đất, bắt nhốt Công an để hỏi cung, phụ nữ liều mạng khoả thân để giữ đất…
vân vân… là những hành động “phá cách”! (Nhưng mẹ con bà Lài đã lầm, cái giới hạn
nhân cách tuyền thống mà bà tưởng là ranh giới phòng vệ cuối cùng thì trong thế
giới của những Nguyễn Trường Tô-Hô đâu có giá trị gì?).
Đến giai đoạn này thì các Blogger
trong nước cũng không giữ Lễ nữa: không cần ám chỉ mà kể thẳng tên người tên
việc dù là thủ tướng hay tổng bí thư, hay Bộ Chính trị. Mác-Lê không còn là
điểm nhạy cảm phải kiêng, lại còn nghi ngờ rằng Đảng và nhà nước có định chống
xâm lược thật không (hay đã đồng tình với giặc xâm lược?), coi chính quyền chỉ
là một đám cướp lớn phản động đã rõ ràng…
Một Blogger tối thân cận với trùm
chuyên chính Vô sản đã gọi Hồ Chí Minh là ”Ku Nghệ”
mà không bị khiển trách thì đủ biết trong hậu trường họ đối với cụ Hồ cũng
chẳng thành kính gì. Lại xuất hiện Blog quanlambao
(là tiếng nói của nội bộ Đảng, phe Chỉnh đốn đảng chống phe Tham nhũng)
chửi thẳng như tát nước vào mặt đương kim Thủ tướng còn hơn đánh kẻ thù mà
không bị trừng trị.
Những ranh giới cũ đã bị phá hết.
Một giai đoạn đối thoại mới, bằng ngôn ngữ khác trước, đã bắt đầu. Phía Đảng và
nhà nước đã dùng “NGÔN NGỮ” mới (gồm cả ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ hành động)
thì nhân dân cũng dùng “ngôn ngữ” mới tương xứng. Vua đã cởi truồng,
sao Dân còn giữ Lễ mãi được? Tinh thần nói đúng sự thật, nói hết sự
thật đang sang một chất lượng mới.
Cuộc đối thoại mới đã bớt đi rất
nhiều mặt nạ phù phiếm để đến gần với sự thật hơn, bổ ích hơn, khẩn trương hơn,
hiệu quả hơn. Những lời mạn đàm này gửi đến bạn bè cũng trên tinh thần mới và
ngôn ngữ mới ấy.
Một khía cạnh khác của nhu cầu nói
thật là nhu cầu về phương pháp. Nếu phía quyền lực đã dùng phương pháp che đậy,
nguỵ trang, mơ hồ, chung chung… mà phía phản biện cũng chơi đúng theo cách ấy
thì thua! Trong bóng đá người ta bảo thế là “bị áp đặt lối chơi”, phải hết sức tránh. Lúc đầu nói thật quá
e sẽ bị quy chụp nên phải thủ thế, nhưng nay đã khác.
4. Tình hình đã quá chín muồi cho
một cuộc xâm lược.
Khi Trung quốc chính thức thành lập
thành phố Tam Sa (gồm 2 quần đảo HS và TS của Việt Nam) và đưa 23.000 tàu đánh
cá vào vùng biển VN nhiều người gọi hành động ấy là liều lĩnh và lấy làm ngạc
nhiên. Thực ra không đáng ngạc nhiên và Trung Quốc không hề liều lĩnh khi đã
thiết kế chiến lược một cách vững chắc và tính toán cụ thể chắc ăn trăm phần
trăm.
Do vị trí địa-chính trị nên Việt
Nam trở thành cửa ngõ mà chủ nghĩa Đại Hán buộc phải chiếm lĩnh để bành trướng
về phía nam, nhưng Việt Nam trước đây đã kiên cường và mưu lược, phá tan mộng
xâm lăng ấy của Trung Quốc.
Bất hạnh thay, sự xuất hiện trào
lưu Quốc tế Cộng sản hoang tưởng đã cung cấp cho Trung Quốc một cơ hội bằng
vàng. Họ tận dụng những đặc trưng của Cộng sản để đưa con mồi vào lưới. Con mồi
tự tìm đến cái bẫy, nhưng bị tấm màn “Quốc tế đại đồng” che mắt, nhìn
cái bẫy thành chốn ruột thịt nương thân. Những năm 1949-1950 khai thông biên
giới Việt Trung, một VN đã kiệt lực buộc phải dựa hẳn vào Trung Quốc để có sức
đánh nhau với Pháp, những món hàng viện trợ từ vũ khí, quân trang quân dụng đến
nhu cầu dân sinh là khởi đầu những trói buộc có tính chiến lược, là sợi dây thòng lọng đầu
tiên, tận dụng những quan hệ thân thuộc của những người
lãnh đạo đã có với Trung Quốc làm sợi dây liên kết.
Cái thòng lọng thứ hai là do chuyến ngoại giao cầu hòa
của Việt Nam diễn ra tại Thành Đô ngày 3-4/9/1990. Xét trong quan hệ có tính
lịch sử giữa 2 kẻ thù truyền kiếp thì cuộc
cầu hoà này chính là cuộc tuyên bố đầu hàng. Với hiệp ước Thành Đô (nhất định lịch sử sau này sẽ bạch hoá)
Trung Quốc đã tẩy rửa được dấu vết chống Trung Quốc của Việt Nam tượng trưng
bởi ý chí chống Tàu cứng rắn của TBT Lê Duẩn và cuộc chiến biên giới 1979. Sau
hội nghị Thành Đô kế hoạch xâm lược đã thiết kế xong những nước cờ căn bản.
Từ đấy trở đi, chỉ cần 4 năm một
lần Trung Quốc khống chế người cầm đầu Việt Nam, tức Tổng Bí thư đảng, là đủ
cho kế hoạch xâm lược tiến hành trôi chảy. Muốn vậy phải giữ cho VN yên vị theo
chế độ Cộng Sản, không được dân chủ hoá, không được liên kết chiến lược với Hoa
Kỳ.
Kết quả của chủ
trương liên kết chiến lược với Trung
Quốc và liên kết lửng lơ
với Hoa Kỳ là đã tạo những “điều kiện cần” và “điều kiện
đủ” cho cuộc thôn tính Việt Nam một cách hoà bình. Điều kiện “cần” là một bộ máy lãnh đạo Việt Nam phải
là bộ máy thân thiện Trung Quốc, không coi Trung quốc là xâm lược, đồng thời
nhân dân Việt Nam thì tinh thần bạc nhược, không quan tâm đến sự đe doạ của
Trung quốc, chấp nhận để “Đảng và Nhà nước lo”. Điều kiện “đủ” là làm sao khống chế được sự phản
kháng của lực lượng tinh hoa là những người Việt còn giữ được sự cảnh giác và
lòng quyết tâm bảo vệ đất nước, không cho họ đánh thức được dân chúng, đồng
thời Hoa Kỳ và quốc tế không can thiệp.
Khi ĐCSVN đã cam kết với ĐCS TQ thực hiện đủ những điều kiện ấy, thì
(xin lỗi) chỉ một Trung Quốc ngu mới không tiến hành xâm lược Việt Nam.
Giữa lúc quân xâm lược kéo binh mã rầm rập vào trong biên cương Tổ quốc
mà các thủ lĩnh tối cao thì im phăng phắc, nhưng ra lệnh cho khắp nơi hát vang
lời hữu nghị và tri ân, cho tướng lĩnh đứng ra tay bắt mặt mừng, và ra sức bắt
giữ những người phản đối xâm lược! Cảnh tượng diễn ra như một trận công thành
được chuẩn bị chu đáo, có nội công, vô hiệu hóa lính gác, vô hiệu được quân
lính trong thành, lại tổ chức sẵn một đội kèn trống chào mừng, nghênh đón sứ
quân của thiên triều. Tất cả như có sự phân công, phối hợp trong ngoài vậy.
Chẳng trách người dân phải đặt thẳng sự nghi ngờ vào lòng dạ của người cầm vận
mệnh đất nước:
“Nguy cơ
mất nước là hoàn toàn có thật. Đến lúc này nhân dân buộc phải hỏi: Đảng và Nhà nước có thực sự muốn chống xâm lược không? “
(Cả đến việc thông qua Luật biển,
làm nức lòng nhiều người , nhưng tiến hành song song với những động tác ve vãn
kẻ xâm lược và cấm dân biểu tình thì có đáng tin không hay chỉ là “đánh trận
giả” để đánh lừa dân chúng, giúp kẻ địch tiến thêm một bước nguy hiểm?).
Thiên vạn cổ chưa có trận chiến nào
được bố trí vẹn toàn như thế, sao lại bảo cuộc tấn công ấy là liều lĩnh được? Chiến thắng trong tầm tay, an toàn 100% như
thế mà không tiến công thì Trung Quốc ngu à?.
5. Giải Cộng nhi thoát! Có từ bỏ
Mác-Lê cùng với cái gọi là XHCN mới cứu được nước!
Xem như vậy thì suốt từ 1950 tới nay (2012), tất cả những thiết kế
chiến lược và thực thi từng bước chiến thuật cho sự thôn tính Việt Nam kiểu mới
của Trung Quốc đều phải dựa trên một nhân tố trung tâm và quán xuyến là đảng
Cộng sản, thiết chế Cộng sản, và quan hệ Cộng sản. Việt Nam nếu không là Cộng
sản thì Trung Quốc hoàn toàn bó tay.
Vậy, theo lô-gích, đáp số của bài
toán phòng thủ đất nước trước nạn Tân Bắc thuộc đã hiện ra rõ mồn một. Một Việt
Nam 90 triệu dân, dân chủ pháp quyền phi Cộng sản, có bầu bạn khắp năm châu,
chẳng có lý gì phải nằm trong vòng tay “ôm ấp” của Trung Quốc thì anh bạn khổng
lồ xấu tính buộc phải nhớ đến những Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa mà chìa bàn
tay hữu nghị giao thương với sự bình đẳng và kính nể.
Truyện kể rằng: Tướng nhà Minh Lưu
Bá Ôn vào thăm mộ Khổng Minh, mặc giáp sắt khi đi qua cổng lát bằng nam châm
liền bị hút chặt xuống đất. Lưu Bá Ôn đang luống cuống bỗng ngước nhìn lên thấy
một bức hoành trên đề bốn chữ "Giải y nhi thoát" 解 衣 而 脱 (Cởi áo ra thì thoát) bèn làm
theo...
Nay chủ nghĩa Mác-Lê đối với ĐCSVN
cũng chỉ như chiếc áo giáp sắt, mặc vào là bị thanh nam châm khổng lồ Trung
quốc hút chặt, không ngẩng lên được. Giải Cộng nhi thoát 解共而 脱, là cách tự cứu duy nhất, đẹp lòng
dân tộc, và vẹn cả đôi đường.
KẾT LUẬN: GIỜ NGUY BIẾN ĐÃ ĐIỂM !
1. Trước mắt, muốn cứu
nước, dân ta cần phá cho được cái chiến lược “diễn biến hoà bình” trong quan hệ Trung-Việt, mà thực chất là
xâm lược hoà bình và làm mất nước một cách hoà bình! Họ
muốn đô hộ một nước khác mà không cần gây một cuộc chiến tranh xâm lược, kế
hoạch thật là thâm độc!
Chiến lược xâm lược hoà bình này do
nhà cầm quyền Tân Đại Hán khởi thảo và áp đặt, ĐCSVN tự sa vào thế kẹt buộc
phải làm theo. Hai đảng thoả thuận
kín, quyết định số phận của Việt Nam là nước nhỏ hơn, nhân dân cả
hai nước đều được sử dụng như những công cụ.
Chỉ có nhân dân Việt Nam mới giúp
được ĐCSVN ra khỏi thế bị kìm kẹp này. Nhưng muốn vậy ĐCS phải dũng cảm chịu đau
một chút, khiêm nhường một chút, giảm đi một chút lòng “kiêu ngạo cộng sản” vô
lối, để thừa nhận nhân dân, để “lột xác”, thoát khỏi chủ nghĩa hoang tưởng phản
tiến hoá để trở về với dân tộc, tìm lại sự vinh quang chính đáng trong niềm
kiêu hãnh chung của cả dân tộc.
Bằng sự gặm nhắm của chiến lược
Việt-Trung hữu hảo diễn biến hoà bình, “cái ổ chim đại bàng” mà tổ tiên
ta gây dựng đang từng ngày từng giờ chật hẹp dần lại một cách toàn diện, thành “cái
tổ con chim chích” như vua Trần Nhân Tông đã lo trước nhiều thế kỷ. Hoạ mất
nước đã nhỡn tiền!
Không nhân dân nào thích chiến tranh, nhưng lời QUYẾT CHIẾN, chứ không
HÒA, của Hội nghị Diên Hồng là vết son trong lịch sử. Hoà bình là quý, nhưng
hoà bình để mất nước êm như ru là thứ hoà bình đáng nguyền rủa, không thể so
với sự diễn biến hoà bình để tự chuyển hóa thành một nước dân chủ văn minh,
chính là thứ hòa bình công chính và kiêu hãnh, không kẻ nào chống được.
2. Về căn bản và lâu dài, xuất phát từ nhu cầu xây dựng đất nước cũng như từ yêu
cầu bảo vệ đất nước khỏi hiểm họa Bắc thuộc, xã hội Việt Nam phải từ giã ảo tưởng Cộng sản, trở
về một chế độ dân chủ lành mạnh thông thường như các nước văn minh, không có
con đường nào khác. Chừng nào còn giữ chế độ gọi là “Xã hội chủ nghĩa” bên cạnh anh Cộng sản
khồng lồ Trung Quốc, thì hoạ mất nước là hường trực.
Có thể ĐCSVN lường trước bước thứ
hai này nên nghi ngờ và cấm người dân biểu tình chống Trung Quốc xâm lược?
Tôi nghĩ mọi việc hoàn toàn trong
sáng, không có gì thủ đoạn ở đây. Cần nói thật với nhau rằng việc trước mắt
cũng như lâu dài đều đòi hỏi phải tháo vòng Kim-cô chuyên chính Vô sản, nhưng
tính chất hai việc khác nhau xa. Kẻ xâm lược là giặc đến từ bên ngoài, cần phải
làm cho họ thất bại trong âm mưu đó, việc ấy phải làm ngay không thể chần chừ,
hoàn toàn không giống với quan hệ người trong một nước với nhau, quan hệ được
cố kết bởi tình yêu Tổ quốc ngàn đời thiêng liêng, để cùng xây dựng một đất
nước văn minh là điều hoàn toàn có thể thực hiện được, mà nước Đức là một tấm
gương đầy thuyết phục.
9-8-2012
Hà Sỹ Phu
danlambaovn.blogspot.com
Hà Sỹ Phu
danlambaovn.blogspot.com
==========================================================
[1] Sai lầm gốc từ Mác nhưng phải cộng với Lênin mới thành một thể hoàn chỉnh về chính trị và lan rộng ra thế giới.
[2] Hà Sĩ Phu : http://www.hasiphu.com/ll3.html
PHẦN VIẾT THÊM:
Cần thoát khỏi một vài nguỵ biện và những suy nghĩ tự
trói buộc
* Nhiều đảng viên rất lo ngại cho
hiện tình xuống dốc và bất lực của đảng hiện nay, nhưng băn khoăn trước câu
hỏi: Đảng không ưu việt sao đánh được Pháp, được Mỹ? Đảng cũng làm được nhiều việc
tốt đấy chứ? Ba triệu đảng viên hầu hết là tốt thì đảng sao lại xấu được?
Xin nêu tóm tắt mấy ý góp phần giải đáp:
- Mác-Lê vào được Việt Nam là do
tháp tùng lòng yêu nước, những thành tựu có được là do tựa vào sức mạnh yêu
nước của dân tộc mà có. Ở đâu và khi nào nhân tố chuyên chính vô sản phát huy
tác dụng, lấn át truyền thống dân tộc, thì ở đó, khi đó, phát sinh sai lầm và
tổn thất.
- Cái tốt chủ yếu ở giai đoạn đầu, khi cầm quyền là bắt
đầu thoái hóa, càng củng cố được quyền lực thì càng thoái hoá, càng về sau càng thoái hóa. Muốn lấy
lại thiện cảm thì phải “ăn mày quá khứ”.
- Cá nhân đảng viên có thể tốt,
nhưng đứng trước tổ chức thì những cái tốt cá nhân bị vô hiệu hoá. Tổ chức Cộng
sản là phép cộng những “số dương” thành một “số âm”, sử dụng rất nhiều người
tốt để thực hiện một điều huyễn hoặc, không tốt. Càng lên trên thì tính “bản
thiện” của con người càng bị tính chuyên chính sai lầm của tổ chức lấn át, cho
nên càng lên trên càng tiêu cực.
Tham nhũng độc quyền ghê gớm nhất
đều ở cấp cao. Chính gương tốt, liêm chính, của các đảng viên ở cơ
sở là tấm bình phong che cho tội lỗi của cấp cao
- Bởi là người tốt, người yêu nước,
nhưng bị dòng lịch sử cuốn vào một trào lưu huyễn tưởng nay đã bị lịch sử đào
thải, thì mỗi người đảng viên cộng sản đều phải chọn một trong hai sự “phản
bội” không thể thoái thác: hoặc cứ nhắm mắt theo chủ nghĩa thì phản bội dân
tộc, hoặc đặt dân tộc lên trên thì sẵn sàng từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lê ảo tưởng, đó
là sự từ bỏ, sự “phản bội” đáng ca ngợi.
* Một nguỵ biện nhằm chống biểu
tình:
Người dân muốn biểu thị quyết tâm
chống xâm lược, bảo vệ đất nước thì phương pháp truyền thống ở mọi quốc gia là
BIỂU TÌNH. Muốn giúp cho quân xâm lược khỏi bị làm phiền thì nhà cầm quyền Việt
Nam hứa với họ là kiên quyết cấm dân VN mình biểu tình. Nhưng không thể công khai cấm biểu tình (vì
cấm là phi lý và thất nhân tâm) thì
cấm những gì liên quan không thể tách rời với biểu tình là đi đông người trên
phố, bèn quy tội là gây
rối trật tự, ảnh hưởng đến giao thông. Đây là nguỵ biện dùng “mẹo Trạng Quỳnh”: nếu không thể cấm ỈA thì cấm
ĐÁI, không được đái thì làm sao mà ỉa? Thế là không cấm biểu tình mà
dân không biểu tình được.
Nhà nước ta quả là nhiều sáng kiến và tận tâm với bạn
vàng xâm lược. Nhưng xin thưa điều quy kết này
là bậy bạ và phạm pháp. Đường xá là của toàn dân, người dân được sử dụng để đi
lại thông thường và đi lại trong những việc đông người chính đáng: đám cưới,
đám tang rất cản trở giao thông, đón rước, hội hè rất cản trở giao thông…thì
giao thông tạm ngừng một thời gian ngắn, có sao đâu? Biểu tình bảo vệ Tổ quốc
còn chính đáng và quan trọng hơn mọi sinh hoạt khác, giao thông phải tạm dừng
để phục vụ biểu tình cũng là chính đáng, huống chi lèo tèo vài trăm người thì
cản trở nỗi gì? Mẹo “cho Ỉa nhưng
cấm đái” này sẽ còn phát huy nhiều nguỵ biện xảo trá khác nữa, nhưng
nhân danh một “Chính” quyền mà dùng mẹo bẩn như vậy thì còn “chính” nữa không?
9/8/2012
No comments:
Post a Comment