18-6-2012
Ông Hồ Chí Minh có rất nhiều tội cả
về cá nhân và tội với dân tộc. Trong đó, ông ta có 2 tội nặng nhất là: Bán nước
và Giết người. Đó chính là 2 tội nặng nhất mà trước đến nay ít người dám đề cập
và đi sâu, ngay cả trong cuốn DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” của linh mục
Nguyễn Hữu Lễ. Trong khuôn khổ những bài viết của mình, tôi xin nêu chủ yếu về
2 tội ác này của ông Hồ.
Như trong phần 2, và 3 tôi đã chứng
minh ông Hồ là kẻ bán nước, gây ra chiến tranh phi nghĩa. Nhưng chúng ta còn sẽ
được thấy một khía cạnh khác của ông ta: Phận Chư Hầu. Ông Hồ làm chư
hầu cho chủ nghĩa cộng sản và đặc biệt làm chư hầu cho kẻ thù của dân tộc:
Trung cộng.
Trung cộng và mưu mô bành trướng,
tạo ra chư hầu
Chúng ta hẳn không thể quên được
Trung quốc chính là kẻ hàng xóm to xác nhưng rất xảo quyệt. Trải qua hơn 4000
năm lịch sử của dân tộc chúng ta đã phải đương đầu với các triều đại phong kiến
Trung quốc xâm lăng Việt Nam. Dù là Hán, Đường, Tống hay Nguyên… có mạnh đến
đâu cũng không thể khuất phục được lòng yên nước của dân tộc ta. Thời nào chúng
ta cũng có các anh hùng hào kiệt giết giặc thù như: Lê Lợi, Quang Trung, Trần
Hưng Đạo, Hai Bà Trưng.
... Thằng nhãi con Tuyên Đức động
binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu
chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem
binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia
đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt
nguồn lương thực
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu
Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu
Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh
đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh
cùng kế tự vẫn…
(Trích Bình Ngô Đại Cáo của
Nguyễn Trãi)
Đó là truyền thống đáng tự hào của
dân tộc Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ bé nhưng anh dũng, thông minh. Tuy nhiên sau
này, đất nước chúng ta lại có kẻ sẵn sàng can tâm làm chư hầu cho giặc. Đó là
ông Hồ Chí Minh.
Sau khi đảng cộng sản Trung Quốc
giành được thắng lợi. Trung cộng lại muốn nhuộm đỏ các nước đông nam Á trong đó
có Việt Nam. Chúng nuôi mộng bá vương dựa trên quan điểm về “thế giới cộng sản”
và Đại Hán bành trướng, coi mình là Trung tâm vũ trụ.
Trong cuốn sách: Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc 30 năm
qua (NXB Sự Thật – Nhà xuất bản của
ban tuyên giáo đảng cộng sản Việt Nam T10/79)
(links: http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=9915.0)
có đoạn:
Đông nam châu Á là hướng bành
trướng cổ truyền trong lịch sử Trung Quốc, là khu vực mà từ lâu những người
lãnh đạo nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ước mơ thôn tính.
Trong năm 1936, chủ tịch Mao
Trạch Đông kể chuyện với nhà báo Mỹ Etga Xnâu ở Diên An về thời trẻ của mình,
đã bộc lộ ý nghĩ sau khi đọc một cuốn sách nhỏ nói đến việc Nhật chiếm Triều
Tiên và Đài Loan, việc mất “chủ quyền” Trung Hoa ở Đông Dương, Miến Điện và
nhiều nơi khác:
“Đọc xong, tôi lấy làm thất vọng
đối với tương lai đất nước tôi và tôi bắt đầu nhận thức rằng bổn phận của mọi
người là phải đóng góp cứu nước”.
Tài liệu của Đảng cộng sản Trung
Quốc do chủ tịch Mao Trạch Đông viết mang tên Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng
sản Trung Quốc, xuất bản năm 1939 có viết:
“Các nước đế quốc sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc
của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và
Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…”
Cuốn sách Sơ lược lịch sử Trung
Quốc hiện đại xuất bản năm 1954 ở Bắc Kinh có bản đồ vẻ lãnh thổ Trung Quốc bao
gồm cả nhiều nước chung quanh, kể cả ở Đông nam châu Á và vùng biển Đông.
Như vậy trong cuốn sách này đảng
cộng sản Việt Nam cũng đã phải công nhận mộng xâm lăng của Trung cộng là không
thể chối bỏ.
Ý đồ bành trướng của những người
lãnh đạo Trung Quốc đặc biệt lộ rõ ở câu nói của Mao Trạch Đông trong cuộc hội
đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963: “Tôi sẽ làm chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân
xuống Đông nam châu Á”.
Cũng trong dịp này, Mao Trạch Đông
so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, về diện tích thì tương
đương nhưng về số dân thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và nói rằng Trung Quốc
cần đưa người xuống Thái Lan để ở; đối với nước Lào đất rộng người thưa, chủ
tịch Mao Trạch Đông cũng cho rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào để ở.
Mao Trạch Đông còn khẳng định trong
cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc,
tháng 8 năm 1965:
“Chúng ta phải giành cho được
Đông nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và
Singapo… Một vùng như Đông nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng
đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông nam châu Á,
chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng
ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió
Tây…”
(Trích từ NXB Sự Thật – Nhà xuất
bản của ban tuyên giáo đảng cộng sản Việt Nam)
Kết luận: Kẻ thù Trung Quốc luôn có mộng xâm lăng chúng ta từ
ngàn đời. Và đến thời của đang cộng sản Trung Quốc (Trung cộng) cái mộng bành
trướng ấy càng rõ rệt hơn thể hiện qua nghị quyết và phát biểu cũng hành động
bán vũ khí để đổi lấy HS-TS với chính phủ VNDCCH(Đã chứng minh ở 2 phần trước).
Bán nước trong thân phận kẻ chư
hầu cuồng tín
Như tôi đã nêu ở phần đầu, Trung
cộng là kẻ thù của Việt Nam. Đáng lẽ ra đảng cộng sản Việt Nam phải hiểu điều
này và làm đúng chức năng của một nhà nước vì dân tộc. Tuy nhiên họ không làm
như Trần Hưng Đạo đã từng nói với vua Nhân Tông về việc chủ hòa hay chủ chiến
với giặc "Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng Tôn miếu Xã tắc thì
sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi sau hãy
hàng!!"
Những người cộng sản ở Việt nam đã
không có thái độ kiên quyết với kẻ thù mà còn can tâm làm thân chư hầu chính kẻ
thủ của cả dân tộc. Họ sẵn sàng bán biển đảo của tổ quốc cho giặc Tàu với mong
muốn nhuộm đỏ Việt Nam, tăng cường độc tài. Nhưng đồng thời với hành động bán nước
qua công hàm 1958, họ lại còn tồi tệ hơn là bán nước trong thân phận kẻ chư hầu
cho giặc.
Bán nước là một hành động phản bội
dân tộc và hèn hạ. Nhưng can tâm làm chư hầu cho giặc đã lấy đất đai của mình
thì càng hèn hạ hơn. Chính ông Hồ và đảng cộng sản phải chịu trách nhiệm việc
này.
Ông Hồ là người ham mê quyền lực và
cuồng tín với cộng sản. Ông ta đã thần thánh và ngoan ngoãn làm theo chỉ đạo
của Trung cộng và Liên xô trong mọi hành động của mình. Ở khuôn khổ bài này tôi
chỉ xin đi sâu vào sự nhục nhã khi can tâm làm chư hầu của ông Hồ với Trung
cộng.
Nhà thơ cộng sản Chế Lan Viên có
câu nổi tiếng: “Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao” thì đủ hiểu ông Hồ thần thánh và tuân chỉ Trung cộng thế
nào. Tôi xin phân tích vào từng giai đoạn và sự việc tại Việt Nam trong việc
ông Hồ bán nước can tâm làm chư hầu cho Trung cộng.
Đầu tiên
là cuộc Cải cách ruộng đất gây bao đau thương cho dân tộc (Tôi xin trình bày ở bài khác).
Mục tiêu của cuộc Cải cách này mới
thực sự là một đòn thâm hiểm của ông Hồ và đảng cộng sản. Mục tiêu quan trọng
của việc phế bỏ quyền tư hữu đất đai là để giành giật khả năng và quyền lực
chính trị khỏi tay nông dân, và tập trung quyền lực chính trị đó vào tay chế độ
chuyên chính vô sản. Những người thợ và trí thức vô sản bị mất hết quyền lực
chính trị vì họ bị khống chế bởi tên chủ Cộng sản qua hệ thống hộ khẩu và chế
độ bình công chấm điểm. Họ chỉ được đủ ăn tới một mức... lúc nào cũng còn đói,
nếu họ tuân theo những quy luật do "tên chủ" Cộng sản đề ra. Đây cũng
chính là cái bài quen thuộc mà cộng sản hiện nay đang làm với nhân dân.
Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng
Cộng sản chiếm được lục địa Trung Hoa, thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa (Trung cộng). Trung cộng thừa nhận chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của
Hồ Chí Minh ngày 18-1-1950. Tiếp theo, Liên Xô thừa nhận ngày 30-1-1950. Tháng
2-1950, Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh và Moscow xin viện trợ. Khi gặp Hồ Chí Minh,
Stalin ra lệnh cho Hồ Chí Minh phải thực hiện ngay hai việc: thứ nhất tái công
khai đảng Cộng sản và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ theo đường lối Cộng sản. Stalin chỉ
đạo cho Hồ Chí Minh phải cử người sang Trung cộng học tập phương pháp CCRĐ
triệt để, vì lúc đó mối liên lạc Xô-Trung còn bình thường và vì Việt Nam nằm
sát biên giới Trung cộng.
Sau khi về nước, Hồ Chí Minh liền
triệu tập Đại hội lần 2 đảng Cộng sản Đông Dương tại chiến khu rừng núi Tuyên
Quang, tái công khai đảng Cộng sản dưới danh xưng mới là đảng Lao động ngày
19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư. Trong đại
hội này, Hồ Chí Minh đã phát biểu: “Về
lý luận, đảng Lao động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin… lấy tư tưởng Mao
Trạch Đông làm kim chỉ nam… Tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin”. (Hồ Chí Minh toàn tập).
Chẳng những thế, cũng trong Đại hội
nầy, Hồ Chí Minh còn nhiều lần tuyên bố:
“Ai có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể
sai được”. (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động
trong phong trào Cộng sản quốc tế, 2001, tr. 63.)
Để tiến hành CCRĐ, sau Đại hội 2,
đảng cộng sản cử người sang Trung cộng tham dự khóa học tập về chủ nghĩa
Mác-Lênin tổ chức tại Bắc Kinh cho các đảng Cộng sản các nước Á Châu như
Indonesia, Mã Lai, Thái Lan, Pakistan, Phi Luật Tân, Nhật Bản, chính là để học
phương thức CCRĐ theo đường lối Trung cộng. Phái đoàn này trở về liền được đảng
LĐ gởi tổ chức thí điểm CCRĐ, bắt đầu phát động "giảm tô, giảm tức" ở
vài tỉnh Việt Bắc và ở Thanh Hóa.
Trong khi đó, từ năm 1949, ban lãnh
đạo cộng sản đã đưa ra phong trào "Rèn cán chỉnh quân" trong quân
đội, và "Rèn cán chỉnh cơ" về phía dân sự. “Rèn cán chỉnh quân” là
rèn luyện cán bộ, chỉnh đốn quân đội. “Rèn cán chỉnh cơ” là rèn luyện cán bộ,
chỉnh đốn cơ quan. Phong trào này không đạt được những mục tiêu do đảng cộng
sản đề ra. Ông Hồ và đảng cộng sản liền theo đường lối cứng rắn quyết liệt của
Trung cộng tổ chức phong trào "Chỉnh huấn" năm 1950.
Sự việc đầu tiên đã gây bao đau
thương cho dân tộc với con số hàng trăm nghìn người bị chết oan, hàng triệu
người còn sống trong tủi nhục. Ở đây có 2 ý, ông Hồ không chịu thấy hoặc thấy
sự thất bại trong cách mạng cải cách ở Trung cộng, vẫn cố tình đem nó về hại
dân tộc. ngoài ra, ông Hồ và đảng cộng sản không đặt lợi ích dân tộc lên ban
đầu mà chỉ tin vào những kẻ theo chủ nghĩa cộng sản cuống tín. Điều tối kỵ với
lãnh tụ chính là không đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu.
Việc thứ
hai, đó là nhẫn nhục bán nước nhưng
lại làm chư hầu cho mộng ước quyền lực của mình và của Trung cộng. Sở dĩ nói
như vậy vì trong bài thứ 2
tôi đã phân tích rõ ràng việc ông Hồ và đảng cộng sản cố tình bán đảo HS-TS để
có vũ khí gây chiến với VNCH. Hành động đó ngoài việc củng cố quyền lực cho
riêng mình, ông Hồ còn muốn chứng tỏ mình là chư hầu đắc lực cho Liên xô và
Trung cộng. Đặc biệt với kẻ thù không đội trời chung của dân tộc như Trung cộng
thì đó lại là hành động không chấp nhận được.
Trung cộng thực chất muốn dùng con
bài Việt cộng để đánh nhau với Mỹ. Trung cộng lợi dụng việc ông Hồ cuồng tín và
ham mê quyền lực để đạt 3 mục tiêu. Mục tiêu dùng người Việt đánh Mỹ, mục tiêu
thứ hai là mua thành công HS-TS và áp đặt cho Việt Nam từ đây là chư hầu của
Trung cộng. Và để đáp lại mưu đồ của Trung Cộng thì ông Hồ sẵn sàng chấp nhận
thân phận này. Trong bài trước,
tôi đã phân tích việc ông Hồ nhận được sự “giúp đỡ” về vật dụng, khí tài,
chuyên gia của Trung cộng để đánh VNCH đó là hành động “Đổi biển đảo lấy vũ
khí”. Còn bây giờ chúng ta có thể thấy thêm việc làm chư hầu cho Trung cộng
nữa.
Ông Hồ tôn sùng Trung cộng như thân
phận của nước chư hầu với thiên tử. Trong bài: "Hồ Chí Minh với Trung
quốc” trên trang Vietnamnet (links: http://www.tuanvietnam.net/2010-05-14-ho-chi-minh-voi-trung-quoc)
có đoạn phát biểu của ông Hồ với quan hệ Việt-Trung: “Trong lĩnh vực này, tôn trọng vai trò và lợi ích nước
lớn của Trung Quốc trong quan hệ quốc tế với Bác không có nghĩa là không tôn
trọng lợi ích chung của phe xã hội chủ nghĩa của phong trào cộng sản quốc tế,
của nhân dân các nước khác”. Điều này
cho thấy ông Hồ rất muốn coi mình như một chư hầu của Trung cộng và cả chư hầu
cho chủ nghĩa cộng sản khát máu.
Cũng trong bài báo này, tác giả lề
đảng đã tái khẳng định ông Hồ muốn “cổ vũ” cho cách mạng ở Trung quốc- một hành
động không vì lợi ích của dân tộc, chỉ mang tính chất của cuộc cách mạng đỏ đầy
đau thương:
"Trong ba lần hoạt động dài
ngày ở Trung Quốc, có lúc Bác tham gia chi đội Bát Lộ Quân của Diệp Kiếm Anh
nhưng ngay cả những lúc chuyên hoạt động vì cách mạng Việt Nam, Bác không quên
cách mạng Trung Quốc.
Bộ "Toàn tập Hồ Chí
Minh" mà tôi có trong tay được xuất bản vào những năm quan hệ hai nước
chưa bình thường và tôi biết có một số bài viết của Bác về Trung Quốc không
được đưa vào, nhưng chỉ bằng vào những bài đã được công bố trong đó, tôi có thể
mạnh dạn nói rằng ngay từ khi ở Pháp, ở Liên Xô cho đến khi hoạt động ở Trung
Quốc và về Việt Nam, khi còn là nhà cách mạng hoạt động bí mật cho đến khi trở
thành người đứng đầu một nước, Bác luôn là người nước ngoài tuyên truyền cổ vũ
nhiều nhất cho cách mạng Trung Quốc.”
Trong một cuộc họp với Trung cộng
năm 1970, ông Lê Duẩn đã nói với Mao Trạch Đông: "Tại sao chúng tôi giữ lập trường bền bỉ chiến đấu cho
một cuộc chiến kéo dài, đặc biệt trường kỳ kháng chiến ở miền Nam? Tại sao
chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là vì chúng tôi phụ thuộc vào công
việc của Mao Chủ tịch… Chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu, đó là vì Mao Chủ
tịch đã nói rằng 700 triệu người Trung Quốc đang ủng hộ nhân dân Việt Nam một
cách vững chắc”. (Trích trong cuốn sách: War in
Viet Nam – Trung tâm lưu trữ Wilson – Mỹ - Trang 23)
Ở một tài liệu khác, cuốn “Sự
thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua” (Nhà xuất bản Sự Thật của Đảng Cộng sản Việt Nam phát
hành – tại trang 53), có đăng nguyên văn nội dung lãnh
đạo Đảng Cộng sản Việt Nam trả lời ông Đặng Tiểu Bình hồi năm 1966, như sau: "Sự nhiệt tình của một nước XHCN, với một nước
XHCN khác là xuất phát từ tinh thần quốc tế vô sản. Chúng tôi không bao giờ
nghĩ nhiệt tâm là có hại. Nếu các đồng chí nhiệt tâm giúp đỡ thì chúng tôi có
thể đỡ hy sinh 2-3 triệu người... Miền Nam chúng tôi sẽ chống Mỹ đến cùng và
chúng tôi vẫn giữ vững tinh thần quốc tế vô sản".
Tuy đảng cộng sản Việt Nam đã tiến
hành cuộc chiến tranh mà họ gọi là “giải phóng miền Nam”, nhưng thực chất việc
này để phục vụ mục tiêu đưa cả thế giới cùng tiến lên Chủ nghĩa Cộng sản, như
tuyên bố của ông Lê Duẩn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc,
cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại”.
Kết luận: Ông Hồ và đảng cộng sản đã can tâm bán nước nhưng đồng
thời đưa nước ta thành một dạng nô lệ và chư hầu mới của Trung cộng.
Hậu quả của việc bán nước trong thân
phận của kẻ chư hầu
Những hậu quả của việc bán nước và
làm tay sai, chư hầu cho Trung cộng là vô cũng to lớn. Ông Hồ với vai trò là
người đứng đầu cả nước VNDCCH, là tổng bí thư của đảng CSVN đã gây ra những đau
thương khôn cùng cho dân tộc trong thời kỳ của ông ta mà còn để lại tàn dư cho
đến ngày nay trong vấn đề quan hệ với Trung cộng.
Trong vấn đề ông Hồ rập khuôn cải
cách ở Trung cộng đã gây ra hậu quả to lớn đó là số người chết oan vô cùng
nhiều.
Dựa vào tài liệu các nước ngoài,
giáo sư Lâm Thanh Liêm cho rằng số người bị giết trong cuộc CCRĐ năm 1955-1956
ở Bắc Việt có thể lên đến từ 120,000 đến 200,000 người. (Lâm Thanh Liêm, bđd., sđd. tt. 203-204).
Theo sách Lịch sử Kinh tế Việt Nam
1945-2000 tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 (tài
liệu mới của đảng cộng sản Việt Nam) cho biết: cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956) được thực hiện ở 3,563 xã,
có khoảng 10 triệu dân, và tổng số người bị sát hại trong CCRĐ đợt nầy lên đến
172,008 người, trong đó có 123,266 người (71,66%) sau nầy được xác nhận đã bị
giết oan.
Như vậy dù với con số nào thì ít
nhất cũng có gần 2 trăm ngàn người bị chết oan nghiệt dưới bàn tay của ông Hồ
và đảng cộng sản. Ông Hồ và đảng cộng sản phải chịu trách nhiệm về hành động
diệt chủng theo chủ trương của Trung cộng trong thân phận chư hầu.
Vấn đề thứ hai đó là hàng triệu
thanh niên nam bắc đã chết trong cuộc chiến tranh mà ông Hồ “đánh cho Trung
cộng”. Đó là cuộc chiến tranh phi nghĩa mà người thiệt hại chỉ là nhân dân. Ông
Hồ và đảng cộng sản Việt Nam đạt được mục đích cướp bóc và quyền lực. Còn Trung
cộng thì có đảo HS-TS và cái thế của kẻ bề trên. Chỉ xin nêu một số những con
số nho nhỏ cho thấy hậu quả của cuộc chiến tranh phi nghĩa này đã nướng nhân
dân ta thế nào. Thông tin trên wiki (Links: http://vi.wikipedia.org/wiki/Chiến_tranh_Việt_Nam):"Tùy
theo nguồn, số người Việt Nam bị thiệt mạng trong chiến tranh Việt Nam là từ 3
đến 5 triệu, hàng triệu người khác tàn tật và bị thương. Một nửa diện tích rừng
của Việt Nam bị phá hủy..."
Vấn đề thứ ba cũng là vấn đề lớn
hiện nay đó là đất đai và biển đảo của chúng ta bị Trung cộng xâm lăng trong sự
im lặng làm chư hầu của đảng cộng sản.
Như chúng ta đã biết, việc ông Hồ
và ông Đồng bán nước cho Trung cộng đổi lấy vũ khí khiến cho chúng ta bị mất
HS-TS. Sự lập lờ trong tuyên bố và im lặng trước việc Trung cộng hoành hành
trên biển, đường lưỡi bò, im lặng trong việc quốc tế hóa vấn đề Biển đông của
đảng cộng sản là minh chứng cho việc bán nước, làm chư hầu cho giặc.
Ngày 26/5/2011 ba chiếc tàu Trung
cộng cố tình chạy vào hải phận Việt Nam trong khu vực chiếc tàu của Công ty dầu
khí Việt Nam đang làm việc, cắt đứt dây cáp mà tàu đang sử dụng, rồi khoảng ba
giờ sau mới rời hiện trường.
Theo Reuters, Phát ngôn viên Bộ
Ngoại giao Trung quốc nói: "Trung Quốc phản đối việc Việt Nam thăm dò
dầu khí tại vùng biển thuộc quyền pháp lý của Trung Quốc". "Lập
trường của Trung Quốc về Biển Đông là rõ ràng và nhất quán. Chúng tôi phản đối
các hoạt động thăm dò dầu khí của Việt Nam, vì tổn hại đến lợi ích và quyền lợi
pháp lý của Trung Quốc tại Biển Đông, và vi phạm thỏa thuận chung mà hai nước đã đạt được trên vấn đề này".
Theo RFI.
Vấn đề ở đây đó là tại sao bà
Khương Du lại nói "VI PHẠM THỎA THUẬN CHUNG MÀ HAI BÊN ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC
"?. Đó chính là thêm một bằng chứng nói về việc bán nước cho Trung cộng
của ông Hồ và đảng cộng sản trước đó. Và bây giơ thì nhân dân ta đang bị đảng
chăn dắt để trả nợ cho đảng với Trung cộng.
Ngoài ra việc mất đất tại ải Nam
Quan hay thác Bản Giốc, cũng đã minh chứng cho việc bán nước và làm chư hầu cho
Trung cộng. Trong cuốn: Vấn Đề Biên Giới Giữa Việt Nam Và Trung Quốc (NXB Sự Thật 1979 - nhà xuất bản của đảng cộng sản
Việt Nam)
Trên đoạn biên giới đất liền cũng
như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi, phía Trung Quốc đã
tự tiện mở rộng xây dựng các công trình để từng bước xâm lấn đất.
Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thủy,
huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu
là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 20
tháng 2 năm 1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng
vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản
Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố
bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm
lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là
của Trung Quốc.
Các thị trấn Ái Điểm (đối diện
với Chi Ma, Lạng Sơn), Bình Mãng (đối diện Sóc Giang, Cao Bằng) vốn đã nằm sát
các mốc giới 43 và 114 lại ngày càng được phía Trung Quốc mở rộng ra lấn sang
đất Việt Nam từ hàng chục đến hàng trăm mét với công trình, nhà cửa, trường
học, khu phố…
Bằng cách tổ chức lâm trường,
trồng cây gây rừng, làm đường chắn lửa, đặt hệ thống điện cao thế, điện thoại
lấn vào lãnh thổ Việt Nam, Trung Quốc đã biến nhiều vùng đất khác của Việt Nam
thành đất của Trung Quốc.
Tuy nhiên trong việc mất đất đai
này chúng ta chỉ thấy ở trong những cuốn sách ít người đọc và không được phổ
biến rộng rãi. Các lãnh đạo Việt Nam luôn im lặng đến khó hiểu hoặc tuyên bố
như ông Trọng “không có gì mới” trong vấn đề với Trung cộng. Vì sao họ
không dám lên tiếng phản đối mất đất? Vì họ đã bị đảng cộng sản và ông Hồ trói
buộc vào vị thế của phận làm chư hầu cho Trung cộng nhằm giữ ghế quyền lực độc
tài. Họ phải im lặng vì không thể nói “Đảng tôi đã bán nước, Bác Hồ đã bán
nước”. Những minh chứng này càng rõ hơn khi nhà nước cho công an bắt bớ, đạp
mặt nhân dân yêu nước biểu tình chống Trung cộng. Và gần đây những bằng chứng
về boxit tây nguyên, vịnh Cam Ranh càng cho thấy Việt Nam đã dần từng bước thực
hiện con đường làm chư hầu cho Trung cộng.
Như vậy qua bài này, bằng những tư
liệu của cả lề dân, lề đảng, nước ngoài và phát biểu của ông Hồ, ông Duẩn…
chứng minh việc ông Hồ chỉ đạo đảng cộng sản bán nước, nhưng đồng thời can tâm
chấp nhận đưa dân tộc ta làm nô lệ bán công khai cho Trung cộng - kẻ thù truyền
kiếp của dân tộc. Đây là tội phản quốc không thể tha thứ.
Chỉnh sửa và hoàn thiện: 17/06/2012
danlambaovn.blogspot.com
-------------------------------------------
-------------------------------------------
NHỮNG
SỰ THẬT KHÔNG THỂ CHỐI BỎ
Đặng Chí Hùng (Danlambao)
Đặng Chí Hùng 15-6-2012
Đặng Chí Hùng 12-6-2012
Đặng Chí Hùng 9-6-2012
Đặng Chí Hùng 1-6-2012
Đặng Chí Hùng 30-5-2012
-------------------------
No comments:
Post a Comment