Gabriel Kolko
Viết từ
Amsterdam
Cập nhật: 06:11 GMT - thứ sáu, 15 tháng 6, 2012
Nếu lịch
sử có chứng minh được điều gì, thì đó là luôn phải sẵn sàng cho sự thay đổi.
Lãnh đạo và các
đảng cai trị đều đến lúc sụp đổ – như ta chứng kiến ở phần lớn quốc gia ở Trung
Đông, khu vực một thời tưởng là ổn định. CIA, cơ quan khổng lồ, tốn kém với các
phân tích gia được trả tiền để dự báo tương lai, hoàn toàn ngạc nhiên khi Liên
Xô tan rã và đi cùng nó là cả khối Cộng sản Đông Âu.
Thay đổi là lẽ
thường ngày nay, và những kẻ cai trị nào nghĩ sẽ nắm quyền mãi mãi chỉ là kém
hiểu biết lịch sử, ngay cả nếu họ cố đè bẹp dấu hiệu bất mãn. Điều chắc chắn là
người Mỹ có động cơ muốn thấy chính thể ở Việt Nam, từng đánh bại họ về quân
sự, sụp đổ do chính những thất bại của mình.
Với khoảng cách to lớn ngày càng tăng giữa ý thức hệ Marxist-Leninist trên giấy tờ và hoạt động tư bản do nhà nước dẫn dắt,
Việt Nam đủ chín muồi cho sự lật đổ như bất kỳ quốc gia nào. Các nhà cai trị
của Việt Nam hôm nay không nên nghĩ cuộc đời cứ mãi y nguyên, như những người
từng dẫn dắt Liên Xô.
Đã hết chính danh
Những thay đổi
căn bản rất có khả năng xảy ra ở Việt Nam: ta không thể dự báo chính xác như
thế nào và khi nào, nhưng mâu thuẫn giữa ý thức hệ và thực tế quá lớn để có thể
kháng cự mãi mãi. Tầng lớp trên ở trong Đảng hiện rất thoái hóa và ngày càng
chẳng tin vào cái gì. Tính chính danh mà Đảng từng có khi dẫn dắt cuộc đấu
tranh chống Pháp, chống Mỹ đã hết. Thế hệ trẻ ngày càng xem các đảng viên là kẻ tham nhũng bè cánh với nhau.
Lần cuối cùng
tôi ở Việt Nam năm 1987, tôi chứng kiến tham nhũng ở mọi cấp, còn chuyện bà
con, phe nhóm đã là cách cai trị ở nhiều nước – Việt Nam chẳng phải ngoại lệ.
Nó có nghĩa là Đảng Cộng sản đang để mất tính chính danh và dựa vào bộ máy an
ninh để cai trị. Nhưng công an sẽ không giúp mang lại sự ủng hộ một lòng của
quần chúng như trong cuộc chiến chống Mỹ. Ngược lại, dùng an ninh để kiểm soát
dư luận chỉ có thể làm quần chúng càng chán ghét. Đó là gánh nặng, mặc dù người
Cộng sản có một bộ máy lớn và hiệu quả về ngắn hạn. Ta cũng thấy ở Trung Đông,
hay Cách mạng Bolshevik thời Lenin, người lính và công an có thể đổi phe, mà
nếu xảy ra có thể tạo thành khủng hoảng thật sự cho bộ máy.
Người đứng đầu
chính thể Sài Gòn, Nguyễn Văn Thiệu, cũng tham nhũng và kết bè kết cánh, có bộ
máy an ninh (cũng tham nhũng) và đã sụp đổ cho dù chính thể Sài Gòn có sức mạnh
quân sự to lớn hơn phe Cộng sản.
Khi đã để mất
tính chính danh, người Cộng sản đối mặt nguy cơ bị thay thế, thậm chí bị lật
đổ. Những sự thay thế thực ra có thể còn tồi tệ hơn (như đã xảy ra ở nhiều
nước), nhưng suy nghĩ ấy có thể không hiện ra trong đầu những ai xem giới cai
trị ngày nay ở Hà Nội là đầu mối của mọi xấu xa.
Chính thể có thể
đổ vào tháng sau hay năm năm nữa, không biết được. Nhưng người nông dân là nguy
hiểm cho chế độ (như ở Trung Quốc) vì quá nhiều người bị đuổi đi để có khu công
nghiệp, sân golf trong khi nhiều lãnh đạo Cộng sản tư lợi và cũng ngày càng
chia thành những phe nhóm mâu thuẫn nhau.
Hoa Kỳ muốn gì?
Có những tin tức
nói rằng chính phủ Hoa Kỳ có các chuyên gia về Việt Nam, những người cũng đang
suy nghĩ làm thế nào và vì sao chính phủ Cộng sản có thể bị thay thế. Những tin
này có lẽ là thật. Họ tin rằng sự du nhập văn hóa Hoa Kỳ, chủ yếu âm nhạc, rồi
sẽ lật đổ chế độ - nhưng rất có thể đó chỉ là ảo tưởng.
Quan trọng hơn
là Đảng đã đánh mất tính chính danh. Cũng không kém quan trọng là rạn nứt giữa
các lãnh đạo đã xuất hiện. Nhiều người biết và thực tế là nó thể hiện công khai
– sự chia rẽ này chưa từng xảy ra ở mức độ như vậy. Chia rẽ từ trên đã mở màn
cho sự suy sụp của Liên Xô.
Người chống đối
hàng đầu trong các lãnh đạo là Võ Nguyên Giáp, kiến trúc sư của những chiến thắng
trong hai cuộc chiến và là “người cha sáng lập” cuối cùng còn sống. Có Đại
tướng Giáp bên cạnh rất có thể làm bộ phận chống đối tiềm tàng cảm thấy bạo dạn
hơn. Trong đó có một số Đảng viên vẫn còn tin vào những lý tưởng giúp Đảng ra
đời lúc ban đầu.
Chính quyền
Obama có lập trường không rõ rệt. Chế độ hiện nay ở Việt Nam sẵn sàng nằm trong
liên minh chống Trung Quốc trong một phần chiến lược Thái Bình Dương còn mơ hồ
của Hoa Kỳ.
Nhưng theo tôi,
trong 10 năm tới, Hoa Kỳ có thể bị sao lãng vì khủng hoảng ở các nơi khác. Sẽ
là ngây thơ nếu Hà Nội cho rằng liên minh do Hoa Kỳ dẫn đầu sẽ thành hình trong
thập niên tới, mặc dù, như đã thể hiện trước đây, Việt Nam cũng rất có thể ngây
thơ trong quan hệ ngoại giao.
Nhưng chính phủ
Hoa Kỳ sẽ vui vẻ nếu chính thể Cộng sản sụp đổ. Hoa Kỳ đã thua một cuộc chiến
trước đây và sự sụp đổ của chính phủ Cộng sản sẽ khiến nhiều nhân vật quan
trọng ở Washington cảm thấy an ủi.
Hoa Kỳ, kể từ
1945, cảm thấy phải vươn tay đến mọi ngõ ngách trên thế giới. Ý thức trách
nhiệm toàn cầu đó khiến ta không thể đoán Hoa Kỳ sẽ dành tài lực vào đâu 10 năm
nữa.
Chính quyền Việt
Nam cần hiểu rằng ý định của Hoa Kỳ ngày hôm nay có thể không được thực thi một
năm sau, chứ đừng nói 10 năm. Nếu họ lại gửi gắm niềm tin vào lời hứa và ý định
của Hoa Kỳ thì sẽ là trái ngược với kinh nghiệm lịch sử.
Không nhà quan
sát hay người cầm quyền nào có thể biết chắc điều gì sẽ xảy ra trên thế giới.
Việt Nam có thể hay không thể hỗn loạn, nhưng các nước Cộng sản đã không còn
tồn tại.
Sẽ dại dột nếu
Việt Nam không suy xét các sự kiện ở Đông Âu có ý nghĩa gì cho tương lai của
họ. “Chủ nghĩa Cộng sản” Việt Nam, như họ vẫn thích tự gọi mình, có thể kéo dài
vĩnh viễn hay rụng rơi tháng sau. Nhưng rõ ràng nhà nước gặp nhiều vấn đề và
nếu họ chẳng làm gì, thì mâu thuẫn giữa ý thức hệ và thực tế rồi sẽ đe dọa Đảng.
Nếu Đảng bỏ qua
các câu hỏi này, họ cũng bỏ qua ý nghĩa của lịch sử gần đây, không chỉ ở Đông
Âu mà cả các nước Hồi giáo.
Một kiểu liên
minh nào đó với Mỹ chống Trung Quốc – mà tôi nghĩ sẽ chẳng bao giờ thành hình đúng như dự tính của Hoa Kỳ - sẽ không giải quyết các vấn đề
căn bản.
Bài viết thể
hiện quan điểm riêng của tác giả, một sử gia cánh Tả đã viết nhiều về Việt Nam.
Tác phẩm Anatomy of a War: Vietnam, the US and the Modern Historical Experience
được NXB Quân đội Nhân dân dịch và ấn hành chính thức, nhưng tác giả cho biết Việt
Nam đã "bỏ rất nhiều" những đoạn có tính chỉ trích. Ông cùng vợ từng
thăm Việt Nam tháng 12 năm 1973 và đã đi viếng hai bên vùng vĩ tuyến 17 ở tỉnh
Quảng Trị. Ông thăm Việt Nam lần cuối năm 1987 và không còn trở lại sau khi phê
phán chính sách Đổi mới của Việt Nam.
No comments:
Post a Comment