June
19, 2012 10:41 PM
Chiến
tranh Việt Nam kết thúc năm 1975. Cuộc chiến nầy là cuộc chiến phức tạp nhất
trong lịch sử Việt Nam, xen lẫn nhiều yếu tố chính trị quốc tế lồng trong chiến
tranh lạnh toàn cầu giữa hai khối tư bản và cộng sản. Vì vậy, để góp phần soi
rõ chiến tranh Việt Nam vừa qua, thiết tưởng nên đặt chiến tranh Việt Nam trong
toàn cảnh chính trị thế giới.
1.- VẬN MỆNH VIỆT NAM TRONG TAY NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
Trong
điều 1 hòa ước Pháp Việt ngày 6-6-1884, có đoạn nguyên văn như sau: “… Nước
Pháp đại diện cho nước Nam trong các việc giao dịch với nước ngoài… ” Như thế
có nghĩa là từ năm 1884 tất cả những vấn đề ngoại giao của Việt Nam đều do Pháp
quyết định.
Đến
thế chiến thứ hai (1939-1945), đế quốc Nhật Bản thao túng Đông Dương từ năm
1940, nhưng mãi đến ngày 9-3-1945, Nhật Bản mới đảo chánh, lật đổ Pháp. Vua Bảo
Đại tuyên bố độc lập ngày 11-3-1945. Tuy nhiên nền độc lập quá mong manh, vì
vua Bảo Đại dựa vào Nhật, mà Nhật sắp thất trận.
Sau
khi Đức đầu hàng ngày 7-5-1945, nguyên thủ các nước Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô họp
hội nghị thượng đỉnh tại thị trấn Potsdam (gần Berlin, thủ đô nước Đức), từ
ngày 17-7 đến 2-8-1945, có mục đích bàn về các vấn đề hậu chiến tại Đức. Hoa Kỳ
thử nghiệm thành công bom nguyên tử ngày 16-7, nên chọn ngày 17-7 để bắt đầu
hội nghị Potsdam, nhằm tăng uy lực cho Hoa Kỳ trong các cuộc thương thuyết. Bên
cạnh đó, cũng tại Potsdam, đại diện Hoa Kỳ, Anh và Trung Quốc (không họp hội
nghị Potsdam, nhưng đồng ý qua truyền thanh) cùng gởi một tối hậu thư cho Nhật
Bản ngày 26-7-1945. Lúc đó, Nhật Bản còn tiếp tục chiến đấu ở Á Châu. Liên Xô
không tham dự vào tối hậu thư vì Liên Xô chưa tham chiến ở Á Châu và chưa tuyên
chiến với Nhật Bản.
Tối
hậu thư nầy, thường được gọi là tối hậu thư Potsdam, buộc Nhật Bản phải đầu
hàng vô điều kiện, chấp nhận những điều kiện của Đồng minh, như chấm dứt quân
phiệt, giải giới quân đội, từ bỏ đế quốc… Cũng theo tối hậu thư Potsdam, tại
Đông Dương quân Nhật sẽ bị giải giới do quân Trung Quốc ở bắc và do quân Anh ở
nam vĩ tuyến 16. Như thế, qua tối hậu thư Potsdam, các cường quốc tự ý quyết
định tương lai chính trị cho Việt Nam mà không có đại diện của Việt Nam.
Tối
hậu thư Potsdam không đề cập đến ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật
bị giải giới và rút về nước, nghĩa là không đưa ra một giải pháp chính trị cho
tương lai Đông Dương. Phải chăng các cường quốc cố tình tạo ra một khoảng trống
hành chánh và chính trị ở Đông Dương, nhằm sử dụng Đông Dương làm chiến lợi
phẩm đổi chác với nhau, hay đổi chác với Pháp? Nhân cơ hội nầy, Pháp hết sức
vận động với cả hai nước Anh và Trung Quốc để Pháp tái lập quyền bảo hộ Đông
Dương.
Ngay
sau khi Nhật Bản đầu hàng ngày 14-8-1945, mặt trận Việt Minh (VM) do Hồ Chí
Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) điều khiển, nhanh tay cướp chính quyền
và lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945. Trong khi
đó, để giải giới quân đội Nhật, tướng Douglas Gracey chỉ huy quân Anh đến Sài
Gòn ngày 13-9-1945 và tướng Lư Hán cầm đầu quân Quốc Dân Đảng Trung Quốc đến Hà
Nội ngày 14-9-1945.
Pháp
ký với Anh Tạm ước về hành chính và tư pháp tại London ngày 8-10-1945, theo đó
Anh giao quyền cho Pháp cai trị phía nam vĩ tuyến 16 ở Việt Nam. (Chính Đạo,
Việt Nam niên biểu, tập A, tr. 275.) Sau đó, Pháp ký với Quốc Dân Đảng Trung
Quốc hiệp ước tại Trùng Khánh (Chongqing) ngày 28-2-1946, nội dung là Trung
Quốc chịu cho quân Pháp thay thế ở bắc vĩ tuyến 16, và ngược lại Pháp nhường
cho Trung Quốc nhiều quyền lợi kinh tế ở Bắc Kỳ cũng như ở Trung Quốc. (Chính
Đạo, sđd. tr. 311.) Như thế các nước Anh, Trung Quốc, Pháp xem Việt Nam như một
món hàng trao đổi, buôn bán với nhau.
2.- VIỆT NAM TRONG CHIẾN TRANH LẠNH
Sau
khi Nhật Bản đầu hàng (14-8-1945), thế chiến thứ hai chấm dứt. Các nước thắng
trận chia thành hai khối: một bên là Hoa Kỳ cùng các nước Tây Âu theo chủ nghĩa
tư bản, và một bên là Liên Xô cùng các nước Đông Âu do Liên Xô mới chiếm đóng,
theo chủ nghĩa cộng sản. Hai khối tư bản và cộng sản tranh chấp quyết liệt trên
tất cả các lãnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự; tăng cường sức mạnh
cho mình và khối của mình, đồng thời tìm cách làm suy yếu khối đối phương. Tuy
nhiên hai bên tránh đụng độ trực tiếp với nhau vì cả hai bên đều thủ đắc võ khí
nguyên tử, sợ chiến tranh nguyên tử xảy ra thì cả hai bên đều thiệt hại thảm
khốc. Tình trạng tranh chấp căng thẳng nhưng không đánh nhau nầy gọi là chiến
tranh lạnh. (Liên Xô thử nghiệm thành công bom nguyên tử ngày 29-8-1949.)
Trong
khi đó, sau thế chiến thứ hai, phong trào giải thực chống đế quốc lan tràn khắp
nơi. Lợi dụng hoàn cảnh nầy, Liên Xô tiếp tục chủ trương xuất cảng cách mạng,
xúi giục và giúp đở các nước nhỏ bị các nước Tây phương đô hộ vào thế kỷ trước,
đứng lên giành độc lập, rồi sau đó gia nhập khối Liên Xô. Các cuộc võ trang nổi
dậy, hoặc các cuộc nội chiến tranh chấp quyền lực, tạo nên những cuộc chiến cục
bộ, là những điểm nóng địa phương trong chiến tranh lạnh toàn cầu.
Ở
Á Châu, sau thế chiến hai, các điểm nóng quan trọng là Trung Quốc, Triều Tiên
và Việt Nam. Khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945, chiến tranh Quốc Cộng ở Trung Quốc
tái diễn ngày 20-7-1946. Đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) thành công, lập ra
Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ) ngày 1-10-1949. Sự ra đời của CHNDTQ tăng
cường sức mạnh cho khối CS và gây nhiều ảnh hưởng ở Á Châu.
Trước
sự thành công của đảng CSTQ, Hoa Kỳ rất lo ngại sự bành trướng của CS ở Á Châu.
Từ tháng 1-1950, thượng nghị sĩ Joseph Raymond McCarthy, thuộc đảng Cộng Hòa,
tiểu bang Wisconsin, phát động chiến dịch “tố cộng”, thịnh hành đến nỗi người
ta còn gọi là chủ thuyết McCarthy (Carthyism).
Tại
Triều Tiên, sau thế chiến thứ hai, Triều Tiên được chia ở vĩ tuyến 38: phía Bắc
do Liên Xô tạm chiếm và phía Nam do Hoa Kỳ tạm chiếm. Tại miền Nam, năm 1948
quốc hội được bầu ra và soạn thảo hiến pháp, công bố thành lập Cộng Hòa Triều
Tiên (Republic of Korea), thủ đô là Hán Thành (Seoul). Tại miền Bắc, Cộng Hòa
Dân Chủ Nhân Dân Triều Tiên (Democratic People’s Republic of Korea) được thành
lập ngày 9-9-1949, thủ đô là Bình Nhưỡng (Pyong-yang). Với sự hỗ trợ của Liên
Xô, Trung Quốc giúp Bắc Triều Tiên xâm lăng Nam Triều Tiên ngày 25-6-1950. Nam
Triều Tiên được Hoa Kỳ giúp đỡ, vận động đưa quân Liên Hiệp Quốc (LHQ) chống
Bắc Triều Tiên. Sau thời gian đánh qua, đánh lại, ngày 27-7-1953, hai bên Nam
và Bắc Triều Tiên đình chiến và trở lại vị trí trước chiến tranh ở vĩ tuyến 38
Bắc.
Tại
Việt Nam, nhờ sự giúp đỡ của Anh, quân Pháp chiếm Nam Kỳ, rồi tiến ra Trung và
Bắc Kỳ, đe dọa chính phủ VNDCCH. Hồ Chí Minh nhượng bộ, ký thỏa ước Sơ bộ ngày
6-3-1946, sẵn sàng tiếp đón quân Pháp đến thay thế quân Trung Quốc để giải giáp
quân Nhật (điều 2), trái với lời Hồ Chí Minh thề khi đọc bản “Tuyên ngôn độc
lập” ngày 2-9-1945: “Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không
đi lính cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không
đưa đường cho Pháp.” (Tô Tử Hạ, 60 năm chính phủ Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Thông
Tấn, 2005, tr. 26.) Hồ Chí Minh còn ký Tạm ước (Modus Vivendi) tại Paris tối
14-9-1946 với Marius Moutet, bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại, gồm 14 điều khoản,
một lần nữa nhượng bộ để cho Pháp tái tục các hoạt động kinh tế, tài chính,
giao thông, văn hóa trên toàn quốc Việt Nam.
Sau
hai hiệp ước nầy, quân Pháp đến Bắc Kỳ càng ngày càng đông. Tại Hà Nội, tự vệ
VM dựng nhiều rào cản, gây trở ngại. Quân Pháp gởi tối hậu thư cho VM ngày
18-12-1946, báo rằng nếu VM không duy trì được an ninh ở Hà Nội, thì Pháp sẽ
phụ trách an ninh kể từ 20-12-1946. Nếu quân Pháp giữ gìn an ninh Hà Nội, thì
toàn bộ lãnh đạo VM, đảng CSĐD và cả Hồ Chí Minh ở Hà Nội, đều nằm trong tay
Pháp. Không thể để bị Pháp bắt và cũng không thể tự nhiên bỏ trốn khỏi Hà Nội,
Hồ Chí Minh liền hô hào toàn dân kháng chiến chống Pháp tối 19-12-1946, nhằm
tạo cơ hội cho Hồ Chí Minh và lãnh đạo CS thoát thân khỏi Hà Nội mà không bị
tai tiếng chạy trốn. Từ đó bùng nổ cuộc kháng chiến chống Pháp.
Vì
không biết bị Hồ Chí Minh phỉnh gạt, lúc đầu toàn dân Việt Nam hưởng ứng cuộc
kháng chiến chống Pháp, nhưng càng ngày Hồ Chí Minh và mặt trận VM càng để lộ
chân tướng cộng sản, nên các thành phần theo chủ nghĩa dân tộc quy tụ chung
quanh cựu hoàng Bảo Đại. Bảo Đại thương thuyết với Pháp, đưa đến kết quả là cựu
hoàng Bảo Đại ký kết với tổng thống Pháp Vincent Auriol hiệp định Élysée ngày
8-3-1949, thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam (QGVN), chống lại VNDCCH. Từ
nay, cuộc kháng chiến chống Pháp biến thành của chiến tranh Quốc Cộng.
Sau
sự kiện trên, chiến tranh Việt Nam bước vào một giai đoạn mới khi Trung Quốc
(ngày 18-1-1950), rồi Liên Xô (ngày 30-1-1950) thừa nhận VNDCCH; trong khi Hoa
Kỳ (ngày 4-2-1950), rồi Anh Quốc (ngày 7-2-1950) thừa nhận QGVN. Các cường quốc
càng ngày càng góp lửa vào chiến tranh Việt Nam. Nhờ sự viện trợ về mọi mặt của
Liên Xô và nhất là Trung Quốc (nước láng giềng phía bắc), Hồ Chí Minh và đảng
CSVN thắng thế, cao điểm là trận Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954.
Trước
tình hình mới, các cường quốc lại họp nhau tại Genève từ ngày 8-5-1954, tìm
giải pháp cho chiến tranh Việt Nam. Theo giải pháp chia hai Triều Tiên, Hiệp
định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết ngày 20-7-1954 tại Genève, chia
hai Việt Nam ở vĩ tuyến 17: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc do Hồ Chí Minh
làm chủ tịch, và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam do Bảo Đại làm quốc trưởng. Một
lần nữa, số phận Việt Nam do các cường quốc sắp đặt với nhau, và buộc hai phe
Việt Nam chấp hành.
Trước
khi ký kết hiệp định Genève, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc mời Hồ Chí Minh
sang Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây, họp từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954.
Tại đây, Chu Ân Lai ép Hồ Chí Minh phải chấp nhận giải pháp chia hai nước Việt
Nam do các cường quốc đưa ra, đồng thời Chu Ân Lai đưa kế hoạch cho Hồ Chí Minh
rằng trước khi rút ra Bắc, Hồ Chí Minh nên gài cán bộ ở lại miền Nam, đồng thời
phân tán và chôn giấu võ khí ở lại miền Nam, chuẩn bị lực lượng tiếp tục chiến
tranh.
Sau
hội nghị Liễu Châu, và trước khi ký hiệp định Genève, Hồ Chí Minh triệu tập hội
nghị Ban chấp hành Trung ương đảng Lao Động ngày 15-7-1954, trình bày mục tiêu
chiến đấu mới của CSVN. Hồ Chí Minh tuyên bố: “Mỹ không những là kẻ thù của
nhân dân thế giới mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân
Việt Miên Lào… Mũi nhọn của ta cũng như mũi nhọn của thế giới đều chĩa vào Mỹ…”
(Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7: 1953-1955, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb.
Chính Trị Quốc Gia, 2000, tt. 314-315.) Lúc đó Hoa Kỳ chưa chính thức can thiệp
vào Việt Nam, mà Hồ Chí Minh đã chỉa mũi nhọn vào Hoa Kỳ, chẳng qua chỉ vì Hồ
Chí Minh theo chân Liên Xô và Trung Quốc, tấn công Hoa Kỳ nhằm lập công với hai
nước nầy.
Hiệp
định Genève ngày 20-7-1954 chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 17. Phía bắc là
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH). Phía nam là Quốc Gia Việt Nam và đổi thành
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm 1955. Khi Hoa Kỳ viện trợ cho miền Nam Việt Nam
tái thiết đất nước, chưa đem quân vào Việt Nam, Hồ Chí Minh tuyên bố ngày
7-1-1959, trên báo Tin Tức (Liên Xô), số đặc biệt về nước VNDCCH, rằng VNDCCH
là tiền đồn của QTCS. “Như vậy là ở Đông Nam Á, chúng tôi đã đứng ở tiền đồn
của mặt trận dân chủ và hòa bình toàn thế giới chống chủ nghĩa đế quốc và chiến
tranh.” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, 1958-1959, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội,
Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 309.)
Phát
động chiến tranh tấn công miền Nam Việt Nam sau nghị quyết của Hội nghị Trung
ương đảng Lao Động ngày 13-5-1959 và sau Đại hội III đảng Lao Động từ ngày 5
đến 10-9-1960, CSVN đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”. Thực chất, Lê Duẫn,
bí thư thứ nhất đảng LĐ cho biết: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho
Trung Quốc.” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, tr. 422.)
Trong
khi đó, Hoa Kỳ và khối tư bản cho rằng khi một nước bị cộng sản chiếm quyền,
thì các nước lân bang dần dần sẽ bị mất vào tay cộng sản, nghĩa là một quân cờ
domino sụp đổ, thì các quân cờ domino khác cũng sụp theo. Đó là nguồn gốc
thuyết domino tại các nước Tây phương, nhất là Hoa Kỳ. Vận dụng thuyết địa lý
chính trị nầy, Hoa Kỳ can thiệp vào các nước Đông Nam Á, hầu ngăn chận sự bành
trướng của cộng sản.
Trước
sự bành trướng của CS tại Á Châu, đại diện ba nước Australia (Úc), New Zealand
(Tân Tây Lan), United States of America (USA) (Hoa Kỳ) họp tại San Francisco
(Hoa Kỳ) ngày 1-9-1951, ký hiệp ước thành lập khối quân sự ANZUS, nhằm hợp tác
phòng thủ nếu xảy ra các cuộc tấn công trên Thái Bình Dương được xem là ảnh
hưởng đến hòa bình và an ninh của mỗi nước và các nước khác trong khu vực. Khối
ANZUS không lập lực lượng riêng, chỉ họp hằng năm cấp bộ trưởng ngoại giao để
duyệt xét tình hình và họp bất thường khi một trong ba nước thành viên yêu cầu
vì an ninh bị đe dọa.
Sau
hiệp định Genève (20-7-1954), Hoa Kỳ vận động ký kết Hiệp ước Hỗ tương Phòng
thủ Đông Nam Á (Southeast Asia Collective Defence Treaty) tại Manila, thủ đô
Phi Luật Tân, ngày 8-9-1954. Từ đó ra đời Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á
(Southeast Asia Treaty Organization, SEATO), gồm các nước (theo thứ tự ABC)
Australia, France, New Zealand, Pakistan, Philippines, Thailand, United Kingdom
(Anh), và United States of America. Trong phụ bản của hiệp ước, ba nước
Cambodia, Laos và Việt Nam được liệt kê trong vùng lãnh thổ được bảo vệ. Hoa Kỳ
dựa vào phụ bản hiệp ước nầy để minh chứng sự ủng hộ của họ đối với các chế độ
chống cộng ở Đông Nam Á.
3.- CHIẾN TRANH GIỚI HẠN TRONG CHIẾN TRANH LẠNH
Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa được khối CSQT hậu thuẫn, quyết định tấn công VNCH năm
1960. Việt Nam Cộng Hòa ở thế tự vệ, phải nhờ đến sự giúp sức của Hoa Kỳ và
đồng minh chống lại cuộc tấn công của cộng sản. Khi can thiệp vào Việt Nam, Hoa
Kỳ nhắm mục đích chính là ngăn chận sự bành trướng của CS, nhất là của CS Trung
Quốc, nhằm phòng thủ từ xa để chủ nghĩa CS không thâm nhập vào Hoa Kỳ. Tuy
nhiên, các chính phủ Hoa Kỳ bị ám ảnh bởi chiến tranh Triều Tiên, nên chủ
trương “chiến tranh giới hạn”. (Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War,
1954-1965, New York: Cambridge University Press, 2006, tr. 306.)
Nguyên
trong chiến tranh Triều Tiên, ngày 25-6-1950, Bắc Tiều Tiên (BTT) xâm lăng Nam
Triều Tiên (NTT), chiếm Hán Thành. Ngày 12-9-1950, đại tướng Douglas MacArthur
cầm đầu quân đội Liên Hiệp Quốc (LHQ), đẩy lui Bắc quân, tái chiếm Hán Thành.
Ông tiếp tục truy đuổi Bắc quân, vượt vĩ tuyến 38, chiếm Bình Nhưỡng và tiến
đến sông Áp Lục (Yalu River), vùng biên giới Trung Quốc. Lấy cớ quân LHQ đe dọa
biên giới, khoảng 250,000 chí nguyện quân Trung Quốc vượt biên giới, giúp BTT
ngày 26-11-1950. Trung Quốc dùng chiến thuật biển người, đẩy lui quân LHQ,
chiếm Hán Thành. Matthew Ridgway thay thế tướng MacArthur, cầm quân LHQ, đuổi
cộng quân khỏi vĩ tuyến 38 tháng 1-1951, chứ không tiến xa lên phía bắc.
Lần
nầy ở Đông Dương, tuy Hoa Kỳ giúp VNCH chống lại CSBV, nhưng vẫn lo lắng Trung
Quốc có thể dựa vào lý do Hoa Kỳ hăm dọa vùng biên giới phía nam Trung Quốc để
tung quân vào Việt Nam như đã từng làm ở Triều Tiên. Lúc đó, dân số Trung Quốc
đông gấp bốn lần dân số Hoa Kỳ. Để tránh trường hợp Trung Quốc can thiệp, Hoa
Kỳ chủ trương “chiến tranh giới hạn” (limited war), tức giới hạn mục tiêu tấn
công, không đánh ra Bắc, như trước đây Mac Arthur đã từng đánh ra Bắc Triều
Tiên, nhất là tránh khu vực biên giới Việt Nam – Trung Quốc.
Trong
cuộc chiến từ 1960 đến 1975 tại miền Nam Việt Nam, CSVN vừa dùng khủng bố, vừa
dùng chiến thuật du kích, rồi tiến lên chiến tranh quy ước. Du kích là rình mò
tấn công lẻ tẻ, làm tiêu hao lực lượng đối phương. Khủng bố nguy hiểm hơn,
chẳng những là tấn công hủy diệt, mà khủng bố còn là đòn chiến tranh tâm lý cân
não, uy hiếp làm cho dân chúng kinh hoàng và khiếp sợ suốt đời. Quân đội Hoa Kỳ
cũng như quân đội VNCH (khi còn được trang bị đầy đủ), đánh trả hữu hiệu những
cuộc tấn công lớn của CS, nhưng không có đối sách nào có thể dẹp yên hoàn toàn
được khủng bố và du kích CS.
Ai
cũng biết khủng bố, du kích và cả chiến tranh quy ước luôn luôn phải có hậu
phương yểm trợ. Khủng bố, du kích CS phát xuất từ Bắc Việt Nam. Bắc Việt Nam
hay VNDCCH chính là kẻ chủ trương, nuôi dưỡng khủng bố và du kích ở Nam Việt
Nam, là hang ổ của khủng bố, du kích và quân đội chính quy CS ở miền Nam, là nguồn
tiếp liệu to lớn về tất cả các mặt cho CS miền Nam. Đánh rắn phải đánh đầu.
Bứng cây phải đào tận gốc. Muốn dẹp khủng bố, du kích CS tại miền Nam Việt Nam,
thì phải tấn công sào huyệt của khủng bố và du kích ở Bắc Việt Nam, chận đứng
hậu phương của CS, chận đứng nguồn tiếp liệu liên tục của CS, và buộc Bắc Việt
Nam từ bỏ cuộc tấn công Nam Việt Nam. Nếu không đánh Bắc Việt Nam, CS Nam Việt
Nam cứ tiếp tục khủng bố và du kích không ngừng nghỉ.
Các
tướng lãnh VNCH thấy rõ điều nầy và nhiều lần đề nghị Bắc tiến, đánh ra phía
bắc vĩ tuyến 17, lấy thế công làm thế thủ, buộc CSVN phải lui về phòng ngự đất
Bắc, ngưng hoặc giảm tiếp liệu cho du kích miền Nam, hoặc dựa vào đó để thương
thuyết với CS, buộc CS Bắc Việt chấm dứt tiếp tế du kích miền Nam, như liên quân
Liên Hiệp Quốc đã làm ở Triều Tiên.
Tuy
nhiên Hoa Kỳ chủ trương chiến tranh giới hạn, không chấp nhận kế hoạch Bắc
tiến, không viện trợ phương tiện cho các kế hoạch Bắc tiến và chận đứng ngay
các kế hoạch Bắc tiến của quân đội VNCH.
Có
thể kể các ví dụ: Ngày 4-5-1964, trung tướng Nguyễn Khánh đề nghị với đại sứ
Cabot Lodge mở rộng chiến tranh ra Bắc. (Vietnam Task Force – Office of the
Secretary of Defence, United States – Vietnam Relations 1945-1967, Washington
D.C.: 2011. Part IV. C. 1., p. a-7.) Trong cuộc mít-tinh ngày 19-7-1964, thủ
tướng Nguyễn Khánh công khai hô hào Bắc tiến. (John S. Bowman, The Vietnam War:
Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tt. 42.) Kết quả, Nguyễn Khánh bị
các tướng trẻ đẩy ra nước ngoài làm đại sứ. Không biết Hoa Kỳ có nhúng tay vào
vụ nầy hay không?
Ngày
1-12-1965, trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Vùng I Chiến thuật kiêm tư
lệnh Quân đoàn I viết thư cho chính phủ, đưa ra đề nghị Bắc tiến. Tướng Thi
cũng công khai đề nghị với người Mỹ. (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam, một trời tâm
sự, California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt. 319-334.) Tướng Thi sau đó bị cách chức
vào tháng 3-1966, đưa đến vụ Biến động miền Trung.
Khi
mở cuộc hành quân Lam Sơn 719, tấn công qua Hạ Lào tháng 1-1971, tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu đề nghị với Hoa Kỳ là VNCH đưa một sư đoàn tiến qua phía bắc
vĩ tuyến 17 như một chiến thuật đánh lạc hướng CSVN, nhưng Hoa Kỳ không chấp
thuận. (Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter, Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los
Angeles: C & K Promotions, Inc., không đề năm xuất bản, tr. 75 và tr. 116.)
Trong
mùa hè đỏ lửa năm 1972, Bắc Việt tràn quân qua vĩ tuyến 17, tấn công VNCH. Viện
dẫn lý do nầy, Quân đoàn I đưa ra đề nghị đánh thẳng qua sông Bến Hải, nhằm đe
dọa hậu cứ địch, nhưng cố vấn Mỹ không đồng ý. Lo ngại Quân đoàn I có thể tự ý
tiến quân ra Bắc, các cố vấn Mỹ giới hạn việc cấp bổng tiếp vận cho Lữ đoàn 1
Kỵ binh 20 gallons xăng mỗi ngày cho một xe, đạn pháo binh chỉ được bắn 5 quả
mỗi ngày cho một khẩu và ngưng tiếp tế lương khô cho Lữ đoàn. (Hà Mai Việt,
Thép và Máu, Thiết giáp trong chiến tranh, Texas: 2005, tr. 103.) Cuối năm
1972, Hoa Kỳ rút hết quân khỏi Việt Nam.
Về
Không quân, ban đầu Hoa Kỳ chỉ cung cấp các chiến đấu cơ loại cánh quạt cho
Không quân VNCH. Trong năm 1965, khi mở màn tấn công Bắc Việt, các phi công VNCH
lái các loại máy bay AD5 (2 chỗ ngồi) và AD6 (một chỗ ngồi) tức khu trục cơ
cánh quạt Skyraider (Thiên kích), bay xa nhất đến Hà Tĩnh lại phải quay về
liền. Sau năm 1965, Không quân VNCH không còn bay ra Bắc nữa. Khi cung cấp phản
lực cơ chiến đấu cho Không quân VNCH, Hoa Kỳ chỉ cung cấp loại phản lực F-5 và
A-37, chứa nhiên liệu ít, nên không ở lâu trên không trung và không bay xa được
để khỏi tấn công đất Bắc.
Theo
hồi ký của đại tướng Cao Văn Viên, nguyên là tổng tham mưu trưởng quân lực
VNCH, thì vào năm 1966, ông đưa ra một chiến lược 7 điểm, trong đó điểm thứ 6
là đổ bộ lên Vinh (tỉnh Nghệ An) hay Hà Tĩnh (tỉnh Quảng Bình), tuy nhiên kế
hoạch nầy không được thi hành. (Cao Văn Viên, Những ngày cuối của Việt Nam Cộng
Hòa, tr. 288.)
Cũng
trong năm 1966, nhận thấy quân Bắc Việt qua vùng phi quân sự, xâm nhập tỉnh
Quảng Trị, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, tướng William Westmoreland đề
nghị với bộ Quốc phòng Hoa Kỳ dùng lực lượng quốc tế lập phòng tuyến KANZUS,
chận ngang qua khu phi quân sự, chống sự xâm nhập và bảo vệ miền Nam Việt Nam.
KANZUS viết tắt của các chữ Korea, Australia, New Zealand và United States. Đại
sứ các nước nầy tại Sài Gòn đều chấp thuận kế hoạch KANZUS, nhưng kế hoạch
KANZUS bị Washington DC bác bỏ. (William C. Westmoreland, A Soldier Reports,
New York: Da Capo Press, 1989, tr. 197.) Westmoreland không giải thích vì sao
chính phủ Hoa Kỳ từ chối. Phải chăng Hoa Kỳ không muốn gây sự hiểu lầm về sự
hiện diện của một lực lượng đa quốc tại vùng phi quân sự.
Rõ
ràng vì chủ trương “chiến tranh giới hạn”, Hoa Kỳ không chấp nhận tất cả những
kế hoạch tấn công Bắc Việt bằng bộ binh như ở Triều Tiên. Nếu không tấn công
hậu cứ CSVN ở Bắc Việt Nam để CSVN lui về thế thủ, chấm dứt tiếp liệu cho CS
miền Nam, thì không có cách gì có thể chận đứng nạn khủng bố, nạn du kích ở
miền Nam và cũng không thể chận đứng nguồn tiếp liệu của CSVN, để CSVN có thể
mở những trận đánh lớn trên khắp miền Nam Việt Nam. Các tướng lãnh cầm quân Hoa
Kỳ, dù thay đổi chiến thuật, chiến lược, dù được tăng cường tối đa và được
trang bị tối tân, có thể thắng chiến tranh quy ước, nhưng cũng không thể chận
đứng thủ đoạn khủng bố và chiến tranh du kích của CSVN.
Một
ví dụ cụ thể là sau biến cố ngày 11-9-2001 (Tòa Tháp đôi ở New York bị đánh
sập, chết 3,000 người), chính phủ Hoa Kỳ với phương tiện lớn lao, hùng hậu, với
sự tiếp tay của nhiều nước trên thế giới, mở chiến dịch truy lùng khủng bố ở
Hoa Kỳ và khắp toàn cầu, tấn công hậu cứ của khủng bố ở Trung đông, Pakistan,
Afghanistan, mà cuối cùng cũng chẳng diệt hết được khủng bố.
Với
kinh nghiệm về việc truy diệt khủng bố rất khó khăn sau biến cố 11-9-2001, ngày
nay chúng ta mới dễ hiểu được trước năm 1975, Hoa Kỳ và VNCH chỉ hành quân bên
trong lãnh thổ Nam Việt Nam, thì làm thế nào có thể tiêu diệt được khủng bố và
du kích CS ở miền Nam Việt Nam mà cái đầu vốn ở miền Bắc Việt Nam? Loại khủng
bố và du kích nầy còn được sự tiếp tay của toàn khối CS trên thế giới.
Vì
chủ trương chiến tranh giới hạn, Hoa Kỳ không thành công về quân sự tại Việt
Nam, lại bị phong trào phản chiến trong nước chống đối mạnh mẽ, nên Hoa Kỳ tìm
cách ra khỏi chiến tranh Việt Nam và cứu tù binh Hoa Kỳ về nước. Đặc tính nổi
bật của nền ngoại giao Hoa Kỳ là rất thực tế và linh hoạt, sẵn sàng thay đổi
hay điều chỉnh chính sách để phù hợp với tình hình và quyền lợi của người Hoa
Kỳ. Vì vậy, Hoa Kỳ chuyển qua thế cờ mới trong chiến tranh lạnh toàn cầu.
4.- THẾ CỜ MỚI TRONG CHIẾN TRANH LẠNH
Trong
chiến tranh Triều Tiên từ năm 1951, hai bên Hoa Kỳ và Trung Quốc trực tiếp đánh
nhau. Liên Xô đứng ngoài, bảo toàn lực lượng, quan sát hai địch thủ lâm chiến
tiêu diệt nhau. Lần nầy, ở Việt Nam, Hoa Kỳ chủ trương “chiến tranh giới hạn”,
không tấn công Bắc Việt Nam bằng bộ binh, không tiến đến biên giới Việt-Trung,
không thách thức và không trực tiếp đụng độ với Trung Quốc.
Về
phía Trung Quốc, ngoài nguồn viện trợ cho Bắc Việt Nam, Trung Quốc chỉ gởi quân
qua bảo vệ phía Bắc Việt Nam, chứ không tham gia chiến đấu ở miền Nam. Quân
Trung Quốc không đụng độ trực tiếp với quân Hoa Kỳ tại Việt Nam. Vì vậy, về
chính trị, lần nầy hai bên Hoa Kỳ và Trung Quốc chẳng trực tiếp thù oán nhau.
Hai bên có thể nói chuyện với nhau khi có cơ hội thuận tiện, nhất là từ khi
Stalin qua đời năm 1953, những tranh chấp giữa Trung Quốc và Liên Xô càng ngày càng
trở nên căng thẳng.
Về
địa lý chính trị đối với Trung Quốc, Liên Xô có bom nguyên tử (năm 1949) như
Hoa Kỳ, nhưng nguy hiểm hơn Hoa Kỳ vì Liên Xô ở sát biên giới Trung Quốc, và
bao vây Trung Quốc dọc theo biên giới dài giữa hai bên. Quân đội Liên Xô có thể
tràn qua biên giới Trung Quốc bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào. Thực tế Trung
Quốc và Liên Xô đã đánh nhau trên vùng sông biên giới Ussouri năm 1969. Còn Hoa
Kỳ ở xa, bên kia bờ biển Thái Bình, muốn đổ bộ vào Trung Quốc cũng khó khăn.
Về
phía Hoa Kỳ, từ thập niên 60, những nhà nghiên cứu chiến lược Hoa Kỳ cho rằng:
“Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành
phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiển nguyên tử, Liên Xô có thể làm được
việc đó. Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít vũ khí nguyên tử,
nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân
số đông đảo của họ.” (Roger Warner, Shooting at the Moon, Steerforth Press,
South Royalton, Vermont, 1996, tr. 333-334.) Vì vậy, Hoa Kỳ bắt đầu chuyển
hướng, mở những cuộc vận động ngoại giao thẳng với Trung Quốc.
Sau
nhiều cuộc thăm dò và đàm phán bí mật, cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc đều tỏ thiện
chí nhằm xích lại gần nhau. Tháng 12-1969, Trung Quốc trả tự do cho hai người
Mỹ bị bắt vì vi phạm hải phận Trung Quốc trên một du thuyền. Ngày 20-1-1970,
Lei Yang [Lôi Dương], một nhà thương thuyết Trung Quốc báo cho Walter Stoessel,
đại sứ Hoa Kỳ tại Varsaw (Ba Lan), biết rằng Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận đề
nghị của Hoa Kỳ gởi một nhà ngoại giao đến Bắc Kinh để bàn luận về những vấn đề
liên hệ song phương. Ngày 10-7-1970, Trung Quốc thả giám mục Ky-Tô giáo La Mã,
James Walsh, người Hoa Kỳ, thuộc dòng Marydnoll (Hoa Kỳ). Ông bị bắt năm 1958
và bị kêu án 20 năm cấm cố từ năm 1960. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars,
1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tr. 182.)
Trong
cuộc phỏng vấn trên tạp chí Time ngày 5- 10-1970, tổng thống Nixon tuyên bố:
“Nếu có điều gì tôi muốn thực hiện trước khi từ trần, thì đó là đi thăm Trung
Quốc.” Mao Trạch Đông đáp ứng ngay. Qua cuộc phỏng vấn của Edgar Snow ngày
18-12-1970, Mao Trạch Đông hoan nghênh việc Nixon thăm Trung Quốc dù với tư
cách là một tổng thống hay một du khách.
Ngày
14-4-1971, tại Đại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh, thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân
Lai tiếp đãi và nói chuyện thân mật với đoàn bóng bàn Hoa Kỳ sang đấu giao hữu
với đoàn bóng bàn Trung Quốc theo lời mời của Tổng cục Bóng bàn nước nầy.
Ngày
9-7-1971, trong một chuyến công du Pakistan, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ là
Henry Kissinger bí mật đến Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến. Ngoài những
vấn đề song phương và thế giới, Kissinger còn thảo luận với Chu Ân Lai về vấn
đề Việt Nam và cho Chu Ân Lai biết: “Nhân danh tổng thống Nixon, tôi xin thông
báo với Thủ tướng một cách trịnh trọng nhất rằng trước hết, chúng tôi sửa soạn
rút quân hoàn toàn ra khỏi Đông Dương và ấn định ngày giờ rút quân, nếu có một
cuộc ngưng bắn và phóng thích tù binh của chúng tôi. Thứ đến, chúng tôi sẽ để
cho giải pháp chính trị của Nam Việt Nam tự diễn biến và phó mặc cho một mình
người Việt.” (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư tổng thống Thiệu, California: Cơ sở Hứa
Chấn Minh, 2010, tr. 617.) Trong cuộc họp hôm sau (10-7-1971), Kissinger nói
thêm: “Điều chúng tôi yêu cầu là một khoảng thời gian chuyển tiếp giữa sự rút
quân và diễn biến chính trị. Không phải là để chúng tôi có thể trở vào lại
[Việt Nam], nhưng chúng tôi có thể để cho dân tộc Việt Nam và dân tộc các nơi
khác ở Đông Dương tự quyết định lấy số phận của họ… Hôm qua, tôi đã thưa với
Thủ tướng, và tôi muốn nhắc lại rằng, nếu sau khi quân đội Mỹ rút lui hoàn
toàn, mà các dân tộc Đông Dương thay đổi chính quyền của họ, Hoa Kỳ sẽ không
can thiệp.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tr. 624.)
Lót
đường cho cuộc bang giao với Trung Quốc, Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan, không phủ quyết
cuộc bỏ phiếu của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc ngày 25-10-1971 theo đó CHNDTQ
được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay Đài Loan. Sau đó, tổng thống Hoa Kỳ
Richard Nixon viếng thăm CHNDTH một tuần bắt đầu từ ngày 21-2-1972 mà ông Nixon
cho rằng đây là “một tuần lễ sẽ làm thay đổi thế giới”. Trong cuộc họp đầu tiên
với Chu Ân Lai ngày hôm sau 22-2-1972, tổng thống Nixon đề cập ngay đến vấn đề
Việt Nam: “Nếu tôi ngồi vào bàn với bất cứ nhà lãnh đạo nào của Bắc Việt Nam,
và cùng nhau bàn bạc về việc đình chiến và nhận lại tù binh của chúng tôi, tất
cả người Hoa Kỳ sẽ được rút ra khỏi Việt Nam trong sáu tháng kể từ ngày đó…
Chúng tôi đã đề nghị rút hết người Hoa Kỳ, mà không để cái “đuôi” đàng sau –
như cách nói của Thủ tướng – và ngưng bắn trên toàn Đông Dương, miễn là chúng
tôi lấy lại được tù binh. Sau đó, chúng tôi sẽ để cho dân chúng ở đó tự quyết
định.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tr. 627.)
Thế
là xong, số phận Việt Nam lại do Hoa Kỳ và Trung Quốc quyết định và trao đổi
với nhau. Dĩ nhiên hai nước nầy quyết định theo quyền lợi của nước họ và bất
cần quyền lợi của các đồng minh. Những diễn tiến sau đó thì mọi người đều biết.
Hoa Kỳ ngưng cung cấp đạn dược, nhiên liệu cho quân đội VNCH. Thế là VNCH hết
phương tiện chiến đấu, phải buông súng.
5.- PHE NÀO THẮNG NHÂN DÂN ĐỀU THẤT BẠI
Trong
cuộc chiến vừa qua ở Việt Nam, nếu nhìn cục bộ và ngắn hạn vấn đề Việt Nam, thì
rõ ràng Bắc Việt Nam tức VNDCCH hay CSVN thắng lớn; Nam Việt Nam tức VNCH thất
bại hoàn toàn và Hoa Kỳ kể như thua vì không thành công trong việc giúp VNCH
chống CSVN ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, nếu nhìn toàn diện cuộc chiến từ năm
1945 cho đến năm 1975 và đặt cuộc chiến Việt Nam trong toàn cảnh chính trị thế
giới cho đến ngày nay, thì lẽ thắng thua có phần khác.
Trước
hết, để đi đến chiến thắng, CSVN phải cầu viện Liên Xô và Trung Quốc về mọi
mặt. Vay thì phải trả. Không có gì để trả, CSVN lấy tài sản, đất đai tổ tiên để
trả nợ. Đây là tội phản quốc không thể tha thứ, nặng nề hơn và tệ hại hơn bất
cứ tội phản quốc nào đã qua trong lịch sử Việt Nam. Chiến thắng rồi rước tên ăn
cướp vào phá nhà, để nó cướp mất đất của tổ tiên thì có phải là chiến thắng
không?
Trung
Quốc vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu sau khi nội chiến Quốc Cộng chấm dứt
năm 1949. Do chiến tranh Việt Nam, khi ngồi vào bàn Hội nghị Genève năm 1954,
Trung Quốc nghiễm nhiên trở thành ngang hàng với các cường quốc Anh, Pháp, Hoa
Kỳ, Liên Xô. Vào đầu hội nghị Genève 1954, ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster
Dulles không thèm bắt tay xã giao với Châu Ân Lai, thủ tướng kiêm ngoại trưởng
Trung Quốc. (Henry Kissinger, White House Years, Toronto: Little, Brown and
Company, 1979, p. 1054.) Thế mà gần 20 năm sau, do chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ
bắt tay với Trung Quốc và mở cửa cho Trung Quốc vào Liên Hiệp Quốc giữ ghế đại
diện tại LHQ, thay thế Đài Loan năm 1971. Trong cuộc gặp gỡ năm 1972, tổng
thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã tặng cho Trung Quốc một món quà lớn: Hai bên ký
bản thông cáo chung Thượng Hải ngày 28-2-1972, theo đó, Hoa Kỳ xác nhận trong
điều thứ 12 của thông cáo chung, rằng chỉ có một nước Trung Quốc, và Đài Loan
là một phần lãnh thổ của Trung Quốc.
Chẳng
những hưởng lợi về ngoại giao và lãnh thổ, Trung Quốc còn nghiễm nhiên trở
thành chủ nợ của CSVN và xem CSVN như là chư hầu, buộc CSVN chạy theo chính
sách của Trung Quốc, ép Việt Nam phải ký hiệp ước nhượng ải Nam Quan (1999) và
nhượng 10,000 Km2 mặt biển vịnh Bắc Việt (2000).
Cộng
sản VN khoe rằng “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”. Hoa Kỳ không chiến
thắng ở miền Nam Việt Nam, được kể là thua trận. Hoa Kỳ mất 58,000 quân ở Việt
Nam, nhưng khi quay lưng rời khỏi Việt Nam, Hoa Kỳ chẳng mất một tấc đất nào
của Hoa Kỳ, mà cũng chẳng một tấc đất nào của Hoa Kỳ bị bom đạn quấy rầy. Chính
sách của Hoa Kỳ từ trước đến nay là phòng thủ từ xa.
Mục
đích ban đầu của Hoa Kỳ là đến Việt Nam để ngăn chận làn sóng CS, nhất là Trung
Quốc, phòng thủ từ xa chống lại sự thâm nhập của CS vào Hoa kỳ. Do chiến tranh
Việt Nam, các nước Đông Nam Á có thời giờ xây dựng và củng cố vòng đai phòng
tuyến chống cộng, từ Thái Lan, Mã Lai đến Phi Luật Tân, Indonesia. Cũng từ
chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ bắt tay với Trung Quốc, tách Trung Quốc ra khỏi
liên minh với Liên Xô. Như thế Hoa Kỳ cũng đã đạt được mục tiêu ban đầu đã đề
ra. Sau năm 1975, CSVN trải thảm đỏ rước Hoa Kỳ trở lại Việt Nam. Rõ ràng Hoa
Kỳ không “cút”, mà còn mạnh hơn trước.
Việt
Nam Cộng Hòa hoàn toàn thất bại, bị CS gọi là “ngụy”. Quân đội VNCH đã anh dũng
chiến đấu để bảo vệ nền dân chủ tự do son trẻ của miền Nam Việt Nam. Sau thời
kỳ quân chủ và thực dân đô hộ Việt Nam, sự hiện diện chuyển tiếp trong 21 năm
của QGVN rồi VNCH ở miền Nam Việt Nam, tuy ngắn ngủi nhưng là bước mở đầu cho
con đường dân chủ hóa Việt Nam. Chính thể VNCH đã gieo mầm tự do, dân chủ, dân
quyền, nhân quyền, cho người Việt Nam. Ngược lại, trong chừng đó năm ở Bắc Việt
Nam và cả cho đến bây giờ, người dân dưới chế độ CS chưa bao giờ được nghe nhắc
đến “Bản tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền” ngày 10-12-1948 của LHQ, chứ đừng nói
gì chuyện thực thi dân quyền và nhân quyền. Sau năm 1975, người miền Bắc dưới
chế độ CSVN bỏ nón cối, bỏ dép râu, bỏ đại cán và ăn bận theo người miền Nam.
Dân chúng Việt Nam hiện nay đang ước mong bài học dân chủ VNCH trở lại. Còn nhà
nước CSVN thì kêu gọi “khúc ruột ngàn dặm” quay về giúp nước. Như thế sao có
thể gọi VNCH là “ngụy”? Có thể nói VNCH không “ngụy”, không “nhào”, mà vẫn hiện
diện ở Việt Nam.
Người
xưa viết: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” (Một viên tướng thành công có
hàng vạn người chết.) Ngày nay, nhà thơ Nguyễn Duy diễn đạt một cách khác nhưng
không kém phần bi đát: “Xin tạc vào đá nầy lời chúc hòa bình/ Nghĩ cho cùng mọi
cuộc chiến tranh / Phe nào thắng nhân dân đều thất bại…” (Nguyễn Duy, “Đá ơi”,
Cambodia 28-8-1989.) Vâng, do CSVN gây chiến, hơn ba triệu người Việt Nam đã
nằm xuống và dân tộc Việt Nam đau đớn mất đi một phần đất đai của tổ tiên vào
tay Trung Quốc.
KẾT LUẬN
Từ
sau thế chiến thứ hai, khi đảng CS cướp được chính quyền ở Việt Nam, Việt Nam
nằm giữa hai thế lực tư bản và CS, và bị các cường quốc áp đặt những quyết định
theo quyền lợi của họ.
Khi
can thiệp vào Việt Nam nhằm phòng thủ và ngăn chận CS từ xa, Hoa Kỳ chủ trương
chiến tranh giới hạn, không tấn công Bắc Việt để chận đứng nguồn tiếp liệu của
khủng bố và du kích phát xuất từ Bắc Việt Nam. Vì vậy, CS ở miền Nam Việt Nam
được Bắc Việt Nam với sự tiếp tay của CSQT, nuôi dưỡng, tiếp liệu, đã hoạt động
liên tục, không nghỉ ngơi, thắng thua gì cũng cứ tiếp tục chiến đấu theo lệnh
của đảng Lao Động, hết keo nầy bày keo khác trên toàn quốc. Hoa Kỳ chẳng những
không thành công trong việc giúp VNCH chiến thắng CS ở miền Nam Việt Nam, mà
càng ngày Hoa Kỳ càng sa lầy trong chiến tranh Việt Nam. Hoa Kỳ liền thay đổi
sách lược, bắt tay với Trung Quốc, rút quân khỏi Việt Nam, bỏ rơi VNCH, theo
một đường lối khác trong khi tiếp tục chống khối CS trong chiến tranh lạnh.
Sự
chuyển hướng của Hoa Kỳ cho thấy rõ, trong chiến tranh lạnh giữa hai khối tư
bản và cộng sản, chiến tranh Việt Nam không phải chỉ được quyết định trên chiến
trường Việt Nam hay quyết định tại Sài Gòn và Hà Nội, mà chiến tranh Việt Nam
còn là kết quả của những trao đổi giữa Washington DC, Moscow, Bắc Kinh, và cả
Paris, London … Cần chú ý rằng không riêng gì Việt Nam, mà trên thế giới, ở
Trung Đông, ở Trung và Đông Âu, ở Đông Nam Á, ở Phi Châu, ở Nam Mỹ, từ giữa thế
kỷ 19, các cường quốc đều lạm quyền đối với các nước nhược tiểu, xem các nước
nhược tiểu như những món hàng tồn kho, chia chác với nhau trên lưng các nước
nhược tiểu.
Đặt
chiến tranh Việt Nam trong toàn cảnh chính trị thế giới, trong chiến tranh lạnh
toàn cầu, rõ ràng kết quả cuối cùng chỉ có lợi cho ngoại bang. Hai bên thắng
thua đều bị chi phối bởi các thế lực quốc tế. Bên thắng trận chẳng có gì để
hãnh diện trong vai trò con cờ của CSQT. Bên thất trận được đánh giá là chế độ
tốt hơn bên thắng trận (John McCain tuyên bố tại Sài Gòn năm 2000), vì nền cai
trị dựa trên nguyên tắc tự do dân chủ, là lý tưởng bất biến của dân tộc, của
nhân loại. Do hoàn cảnh quốc tế, lý tưởng tự do dân chủ ở Việt Nam phải tạm
thời lép vế trước bạo lực, nhưng chắn chắn tương lai đất nước sẽ tiến về phía
lý tưởng tự do dân chủ, như hoa hướng dương luôn luôn quay về ánh mặt trời.
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto,
19-6-2012)
No comments:
Post a Comment