25/06/2024
https://www.voatiengviet.com/a/tu-theo-thay-thich-minh-tue-/7669360.html
HÌNH : https://gdb.voanews.com/01000000-0aff-0242-74c3-08dc7621146d_w1023_r1_s.png
Sư
Minh Tuệ (ở giữa hình), người tu theo Hạnh Đầu Đà, đã và đang là một hiện tượng
tại Việt Nam.
Ông
Trần Đình Sơn ở London, Anh Quốc, không đồng ý với một nhận xét trong bài tuần
trước viết về thầy Thích Minh Tuệ, “… chỉ đi ngoài đường sẽ không có cơ hội …
thực chứng những giáo nghĩa sâu xa như Tánh Không, như Lý Duyên Khởi …” Ông Sơn
nhận xét thấy, “…Lục Tổ Huệ Năng mù chữ nhưng khi đắc ngộ thì bất cứ giáo lý
thâm sâu nào của ĐỨC PHẬT cũng đều giảng giải rất rõ ràng minh bạch … cư sĩ Duy
Ma Cật … chỉ kinh doanh và cũng không sống trong tu viện nhưng đã đắc ngộ Phật
Pháp cao thâm …”
Chúng
tôi không phản đối kết luận của ông: “… sư Minh Tuệ khi đạt tới tột đỉnh của Giới
thì đạt Định ngay lập tức … Định rồi là Tuệ xuất hiện ngay tức đắc pháp thượng
thừa mà không cần phải học gì trong chùa, viện.” Tuy nhiên, theo truyền thuyết
thì ngài Duy Ma Cật đã tu trong rất nhiều kiếp, trước khi thác sinh làm một
thương gia. Ngài Huệ Năng đã tu học trong chùa rồi được thầy gửi qua một chùa
khác, khi đang quét sân ngài chợt nghe câu “Ưng vô sở trụ.”
Nhưng
không nhất thiết phải vào chùa mới có thể thực tập Giới, Định, Tuệ. Thời Phật tại
thế, có một người theo Đạo Jain (Kỳ Na Giáo) quy y tam bảo. Đức Thích Ca đã
khuyên ông ta hãy tiếp tục hành trì tín ngưỡng cũ của gia đình mình. Đạo Jain
cũng theo nhiều giới giống đạo Phật; đầu mùa mưa cũng an cư kiết hạ để tránh vô
tình sát hại côn trùng. Các mùa an cư này dẫn tới việc thành lập các tu viện,
do những Phật tử dựng lên để cung dưỡng người xuất gia.
Cuộc
sống chung với nhiều người khiến phải đặt ra giới luật. Giới luật do chính các
vị đệ tử của Phật xướng xuất, thảo luận cho đến khi mọi người đều chấp thuận.
Sau khi Đức Thích Ca nhập diệt mấy tháng, các đệ tử họp nhau ôn lại các lời Phật
dạy (Kinh). Họ cũng nhắc lại để ôn tập các giới luật. Ông Upali là người nhớ đầy
đủ nhất, khi đọc mỗi giới ông có thể cho biết trong hoàn cảnh nào nhu cầu đặt
ra giới luật đó được đưa ra.
Giới
luật của Nam Tông và Bắc Tông phần lớn giống nhau, với hai phần chính: Thứ nhất
là những quy định về hành vi của mỗi cá nhân, như 5 giới căn bản, 10 giới cho
người mới vào chùa, các Bồ tát giới cho người tại gia hoặc xuất gia, vân vân.
Thứ hai là những quy định về cuộc sống tập thể. Thí dụ, một người gia nhập tăng
đoàn phải được một vị thầy đã thọ giới lớn ít nhất 10 năm thâu nhận; người thọ
giới tỳ kheo cần có năm vị thầy như vậy chứng minh. Các tông phái cũng đồng ý về
các trường hợp một tu sĩ phạm lỗi bị phạt, nhẹ thì sám hối, nặng có thể bị trục
xuất, vân vân.
Tuy
giới luật thi hành trong các tự viện phần lớn giống nhau nhưng một điều đặc biệt
là trong cùng một tu viện, mỗi người có thể chú tâm hành trì theo các giáo lý
khác nhau; không ai bị coi là theo “tà giáo.” Thầy Huyền Trang, thế kỷ thứ 7,
đã ghi nhận tại Đại học Nalanda có các tăng sĩ thuộc cả Nam Tông và Bắc Tông.
Các tông phái đều tôn trọng giới luật và hệ thống truyền thừa của tông phái
khác. Tinh thần bao dung này thể hiện trên các “cột đá” của vua Asoka (cai trị
từ 268 đến 231 trước Công Nguyên) dựng trong bán đảo Ấn Độ và gửi sang tận
Trung Đông, Hy Lạp, và miền Trung Á. Asoka không đề cao đạo Phật, chỉ cổ động
việc thực hành Phật Pháp. Ngoài các khuyến cáo như không sát sanh, phải cấp thuốc
men hoặc thức ăn cho người thiếu thốn, nhà vua còn yêu cầu phải tôn trọng các
tín ngưỡng khác biệt.
Thi
hành giới luật nhắm đạt hai mục tiêu chính: Giữ cho đoàn thể tu học thuần nhất
và hòa hợp để nâng cao trình độ tu chứng, và tạo mối ràng buộc giữa các người
tu và xã hội chung quanh. Không được giữ tiền, không được dự trữ thức ăn trừ
khi bị bệnh, tránh không tự nấu bếp, mỗi người chỉ được giữ tám món đồ riêng:
ba bộ áo để thay đổi, một thắt lưng, một bình bát, một dao cạo, một cái kim, và
bầu nước. Do đó người tu phải khất thực. Tức là những người “xuất gia,” ra khỏi
cuộc sống bình thường, vẫn phải sống với những người khác. Giữa người tu và đại
chúng có một “hợp đồng ngầm.” Một bên sống theo giới luật, chứng tỏ mình chỉ
theo đuổi mục tiêu giải thoát, trở thành “ruộng phước” (phúc điền) cho mọi người
cùng chia hưởng. Bên kia lo “cung dưỡng” để những người xuất gia tiếp tục sống.
Ông
Trần Đình Sơn nói đến khi Thầy Minh Tuệ “đạt tới tột đỉnh của Giới,…” Đạt tới tột
đỉnh nghĩa là gì? Trong số 227 giới lớn ở Nam Tông, 258 giới ở phía Bắc, có những
giới quan trọng hoàn toàn giống nhau. Những giới nhỏ quy định tới các chi tiết
trong đời sống. Tất cả đều có tác dụng giúp người tu lúc nào cũng ý thức đến từng
hành vi, cử chỉ, từng lời nói của mình, tức là luôn luôn sống trong chánh Niệm,
con đường dẫn tới Định.
Chính
các giới luật tạo nên tăng đoàn, một bộ phận trong Tam Bảo. Gia nhập tăng đoàn,
tuân theo giới luật, là con đường tìm đạo giải thoát. Nhưng trong kinh điển
cũng công nhận nhiều người đã tự đạt đến giác ngộ, như các Phật Duyên Giác
(pratyeka – Độc giác Phật). Cùng thời với Đức Thích Ca, có rất nhiều vị đạo sĩ
tìm đường giải thoát như vậy. Thầy Huyền Trang kể một câu chuyện trước khi tới
Kashgar, bên bờ sa mạc Takla Makan thuộc tỉnh Tân Cương bây giờ trên đường đi tới
Khotan (Tân Cương) để trở về Tràng An.
Tại
một địa điểm nay mang tên là Och, Huyền Trang thấy một ngôi tháp lớn, hỏi dân sống
chung quanh được biết tháp được dựng lên để thờ một vị La Hán. Theo truyền thuyết,
vị la hán này đã ngồi nhập định tại chỗ đó từ bao nhiêu đời, không ai biết;
thân xác ông ta đã khô đét nhưng tóc dài vẫn phủ trên mặt, trên vai. Một ông
vua đến chiêm bái, tò mò hỏi có thể đánh thức vị la hán dậy hay không. Người ta
nói rằng nếu đụng tới thì lớp da khô sẽ tan vỡ, bộ xương bên trong sẽ rụng xuống
hết. Một tu sĩ khuyên nhà vua dùng chất dầu và kem sữa thoa lên hình hài cho mềm
đi, có thể vị la hán sẽ trở lại bình thường.
Ông
vua là người mộ đạo, đã kiên nhẫn làm công việc thoa dầu như thế trong nhiều
ngày, cho đến khi cái xác khô từ từ sống lại. Khi mở mắt, vị la hán hỏi: “Ông
Thích Ca Mâu Ni đã đạt được ‘vô thượng chính đẳng chính giác’ chưa?” Mọi người
trả lời rằng Đức Thích Ca đã thành đạo và nhập niết bàn từ mấy trăm năm rồi. Vị
la hán khép mắt lại, từ từ nâng thân thể mình lên trên không, đặt hai tay lên đầu
và dùng nhiệt lượng của chính mình tạo thành ngọn lửa, tự đốt cháy nhục thân.
Ông vua đã gom nhặt các miếng xương “xá lợi” lại, dựng ngọn tháp để thờ, Huyền
Trang còn được chiêm bái ngôi bửu tháp. Câu chuyện trên được Richard Berstein kể
trong “Ultimate Journey,” nhà xuất bản Knofp in năm 2001, cuốn du ký thuật
lại chuyến đi của ông cố gắng theo lộ trình của Tam Tạng Pháp Sư gần 1,400 năm
trước.
Câu
chuyện thầy Huyền Trang kể có thể do dân địa phương thêu dệt qua cả ngàn năm
nhưng có một điều được xác nhận là: Cùng thời với Đức Phật có rất nhiều đạo sĩ
cũng tìm đạo giải thoát và đã chứng ngộ, biến vào cõi không sinh không diệt. Đức
Thích Ca đi xa hơn những vị khác. Ngài ngồi yên 7 ngày chiêm nghiệm những điều
mình thấy được trong giây phút giác ngộ. Theo truyền thuyết kể lại, Phật đứng dậy,
suốt 7 ngày nhìn xuống nơi mình ngồi, rồi bước đi qua lại trong 7 ngày nữa.
Trong 7 ngày sau, Phật ghi nhận những điều mình đã chứng ngộ, xếp đặt thành bảy
bộ trong Abhidharma; người Trung Hoa phiên âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, hoặc dịch
nghĩa là Vô tỷ pháp, Đối pháp, Thắng pháp, nghĩa là những hiểu biết “đi xa
hơn,” theo Hòa thượng Thích Thiện Siêu. Nhưng Đức Phật rất thực tế, chỉ trình
bày các sự thật Khổ, Tập, Diệt, Đạo cho các đệ tử đầu tiên, biết rằng mọi người
không thể hiểu ngay các giáo pháp cao sâu. Sau này, khi có cơ duyên Ngài mới chỉ
cho thầy Xá Lợi Phất, Sàriputta, toàn thể bộ A tỳ đạt ma – gồm toàn thể các hiện
tượng, từ thế giới vật chất đến tâm linh. Thầy Vasubandhu đã phân tích các pháp
làm thành bài học, trong Abhidharmakosa, Câu Xá Luận.
Tu
viện, chùa chiền là nơi những người tu học theo Phật có thể được học các giáo
pháp đó. Cho nên, dù người hành đạo có thể một mình tìm đường “độc giác” nhưng
nếu có dịp học hỏi thêm Vô tỷ pháp thì chắc càng thêm ích lợi.
No comments:
Post a Comment