Vẫn chuyện dạy văn học văn của ròng rã mấy chục năm,
từ thập niên 50 đến thập niên 90 thế kỷ trước.
Như nhà cháu đã kể, môn văn trong nhà trường xã hội chủ nghĩa chả khác gì
môn chính trị. Giá trị văn học bị xem nhẹ, thậm chí tước bỏ, để thay vào đó những
nội dung, chủ đề, đề tài mang màu sắc chính trị, phục vụ chính trị. Ai đời, tác
phẩm văn chương được đưa vào sách giáo khoa lại là thứ chả văn chương chút nào,
kiểu như “Nay ở trong thơ nên có thép/Nhà thơ cũng phải biết xung phong”, “Đau
khổ chi bằng mất tự do/Đến buồn đi ỉa cũng không cho”, “Em ơi ra mà xem kìa mây
bay/Lớp lớp trên nền trời đuổi giặc/Tốp đi đầu in hình quân xâm lược…/Chiến
tranh nhân dân là vô địch/Sẽ đi vào quần chúng học thuyết ta”, “Dọn tí phân
rơi, nhặt từng ngọn lá/Mỗi hòn than mẩu sắt cân ngô”, “Ngói mới trăm nơi cùng cửa
sổ/Xây lên không khí những tòa gương”, v.v..
Ta cứ thử so những câu chễm chệ trong sách giáo khoa ấy, với một câu bất
chợt chẳng hạn “Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá/Sư cụ nằm chung với khói mây” (Nguyễn
Khuyến), hoặc “Vẳng nghe tiếng ếch bên tai/Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”
(Tú Xương) thì thấy khác nhau một trời một vực.
Dạy cái gì, ra đề thế ấy. Bị nhồi nhét món “vỏ văn ruột chính trị” suốt
mười mấy năm phổ thông và đại học nên tôi biết rõ kiểu cách ra đề của nhà trường
xã hội chủ nghĩa. Quanh đi quẩn lại vẫn chuyện bắt học trò bình luận, bình giảng,
phân tích, giải thích, chứng minh mấy câu: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt
trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”, “Nay ở trong thơ nên có
thép/Nhà thơ cũng phải biết xung phong”, “Hạnh phúc là đấu tranh”, “Cuộc đời đẹp
nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”, “Không có con người mới thì không có chủ
nghĩa xã hội”…, gần như chả bao giờ người ta ra cái đề thuần văn chương và nhân
văn kiểu “vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ qua hình tượng Thúy Kiều”.
Đọc những đề bài kiểm tra, thi, thi tốt nghiệp, thi học sinh giỏi ở miền
Bắc những năm chưa xa, có cảm giác đó là đề thi của trường đảng, trường chính
trị, trường Nguyễn Ái Quốc, chứ không phải cho nhà trường phổ thông. Trường học
và môn văn ở miền Bắc đã biến lũ học trò thành đảng viên khi chúng bắt mũi chưa
sạch. Nhưng như thế thì người ta mới tạo ra được “lớp cha trước, lớp con sau/đã
thành đồng chí chung câu quân hành” để kéo nhau vào “giải phóng” miền Nam.
Văn chính trị là thứ dễ chấm nhất bởi nó chỉ cần đúng đường lối, hợp tư
tưởng của đảng, nhà nước, không đặt nặng những yếu tố cảm xúc, nghệ thuật, cách
khai thác tìm tòi, sự độc đáo… của người viết. Trong tích cũ có kể lại một ông
mù chấm văn khéo lắm. Bài nào do người tử tế viết, ổng ngửi bảo văn này được,
thơm thơm. Bài do kẻ nịnh nọt, xấu xa, nham hiểm viết, ổng ngửi qua rồi xua tay
thối thối, thối không chịu được. Chấm ngửi nhưng chính xác tuyệt đối, chả sai
bao giờ.
Chuyện thi cử môn văn ở xứ này đầy điều lạ. Học tủ, học vẹt, tầm chương
trích cú, tư duy robot nên không khó hiểu khi chỉ 3 tiếng đồng hồ mà viết gần
22 trang hoặc 16 - 17 trang. Các cụ xưa từng đúc kết “dài, dãi, dại”. Rồi người
ta khen tụng bài thi này điểm 10, bài thi kia nếu có điểm 11 cũng xứng đáng. Thực
ra, người ta cố tình không hiểu, muốn 2 thì có 2, muốn 100 cũng sẽ có 100, đã bảo
là chấm văn cơ mà. Còn để biết bài ấy có hay hay không, cứ cho đăng công khai
lên mạng lên báo thì biết ngay (tất nhiên phải đăng bản gốc, đừng có qua tay biên
tập).
Thời chúng tôi, sau mỗi kỳ thi tốt nghiệp lớp 10 (tốt nghiệp phổ thông) hằng
năm, hoặc kỳ thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc, những bài hay nhất, điểm cao
nhất, được giải… đều được công bố lập tức, in thành sách. Những tên tuổi Nguyễn
An Định, Đỗ Tương Như, Nguyễn Văn Thạc, Trần Nho Thìn, Bùi Việt Thắng, Cao Vũ
Trân, Đoàn Đức Phương… là thứ kỷ niệm thật đáng nhớ của thời học văn những năm
xa ấy. Dĩ nhiên, hay của thời văn định hướng thôi, chứ theo “chuẩn” bây giờ
chưa chắc đã hay. (còn tiếp)
Nguyễn Thông
Ảnh chống trôi: https://www.facebook.com/photo/?fbid=1470332137134174&set=a.133382914162443
Một bài học trong sách môn văn của phe cách mạng, năm 1953 (nguồn:
Internet)
.
***
Nguyễn Thông (Nguyễn Thông Cào)
Cuộc sống luôn vận động và biến đổi, tại sao môn văn trong nhà trường xã
hội chủ nghĩa lại ì ra, giống như nửa thế kỷ trước? Không nhất thiết cứ phải
thay đổi hết, có những tác phẩm hay vẫn cần giữ lại, những bài thơ Các vị la
hán chùa Tây Phương, Tre Việt Nam, truyện ngắn Một lần tới thủ đô, Lặng lẽ Sa
Pa... chẳng hạn; nhưng những thứ quá cũ kỹ, nhất thời như Vợ nhặt, Tắt đèn, Thư
nhà, Hòn đất, Sống như anh, Bất khuất, Nhật ký trong tù, thơ Tố Hữu, Xuân Diệu...
thì nên đưa vào bảo tàng được rồi. Cũng như bài “Lê nin trong hiệu cắt tóc” vậy,
chỉ hợp với lứa tuổi sinh ra trước 1975, chứ bắt bọn trẻ bây giờ học, chúng nuốt
làm sao trôi.
Chương trình lạc hậu, nội dung cũ kỹ, cách dạy dở, mục đích nhồi nhét, và
nhất là thói chính trị hóa văn học, hỏi làm sao môn văn hay được, làm sao thu
hút được học trò.
Nói tới văn, phải bàn đến cả tiếng Việt. Chưa khi nào nhà trường, trong
đó môn văn đóng vai trò quan trọng nhất về tiếng Việt, lại thải ra xã hội, ra đời
sống thứ “sản phẩm con người” kém dở tiếng Việt như bây giờ. Nhiều ông to bà lớn
không đủ khả năng diễn đạt một ý bình thường, nói năng lủng cà lủng củng, ề à,
dây cà dây muống. Rất nhiều văn bản của nhà nước, chính phủ, quốc hội không chuẩn
về ngữ pháp tiếng Việt, không biết đặt câu, câu què câu cụt, tối nghĩa, sai trầm
trọng. Không ít giáo sư tiến sĩ, học hàm học vị đầy mình, danh kêu như mõ nhưng
tiếng Việt chỉ trình độ i tờ, vỡ lòng, tập chép. Còn đám nhà báo nhà văn thì
thôi rồi, câu cú sai be bét, dùng từ, đặt câu như kẻ ngủ mê, không hiểu gì về
thành phần của câu, đặt cái tít có vài ba chữ cũng thành trò cười cho thiên hạ.
Chương trình văn trong nhà trường nặng mùi chính trị và xem nhẹ tất cả chuẩn mực
đã tạo ra thứ sản phẩm lỗi ấy.
Thời thuộc Pháp, mà người cộng sản gọi là chế độ thực dân Pháp và lên án
nó đủ mọi điều, xứ này từng có một nền giáo dục ưu việt, đỉnh cao. Người Pháp
đã đào tạo nên một đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức, bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo thuộc
hàng đấng bậc, tên tuổi lẫy lừng. Ở góc nhìn rất bình thường, ta có thể nhận thấy
dù chỉ một đứa trẻ con học bậc tiểu học, hay nhà bác học, nhà văn, nhà khoa học,
không người nào dùng sai tiếng Việt. Chữ viết thì tuyệt đẹp, trăm người như một,
dù học ở Cao Bằng Lạng Sơn hay Bạc Liêu Cà Mau (chỉ trừ một trường hợp cá biệt
chữ quá xấu, tôi không tiện nói). Ở họ, câu cú đâu ra đấy, từ ngữ chuẩn xác, diễn
đạt dễ hiểu, rõ ràng và giàu cảm xúc. Không tin, các ông bà cứ đọc hết những
tác phẩm của Trần Trọng Kim, Phan Khôi, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nhất Linh, Thạch
Lam, Khái Hưng… mà xem, khó bắt bẻ, nhặt lỗi. Đúng là vang bóng một thời, vàng
son như thế có nhẽ không bao giờ trở lại. Còn nguyên nhân là gì, vì sao, do ai,
không cần nói bởi hầu như ai cũng biết. (còn tiếp)
Nguyễn Thông
Một trang sách Tập đọc lớp 2 thời kháng chiến chống Pháp sặc mùi thù hận.
(nguồn: Internet)
.
***
Nguyễn Thông (Nguyễn Thông Cào)
Thời tôi đi học, kể từ cấp 1 đã nghe người nhớn nói với nhau “văn dĩ tải
đạo”, còn bé nên chả hiểu, tới lúc nhớn thì lờ mờ rằng đó là thứ quan điểm về
văn chương của người xưa. Đại loại văn để chở đạo, còn đạo là gì thì rộng lắm.
Thày tôi bảo lớn rồi hiểu. Lên cấp 2, học lớp 7, hỏi thầy Phất, thầy nói đạo
không phải chỉ những lời dạy của Khổng tử, Mạnh tử đâu, mà bất cứ cái gì vì con
người, bênh vực con người đều đạo cả. Văn chứa những thứ ấy mới là văn. Tôi về
hỏi lại thày, thày gật.
Nhưng trong nhà trường xã hội chủ nghĩa lại khác. Suốt
mấy chục năm (còn bây giờ thế nào thì tôi không rõ lắm) người ta chỉ nhét vào
môn văn (cả ở trường học lẫn xã hội) thứ đạo chính trị, đạo cộng sản. Những tác phẩm nào phù hợp với đạo này thì được đưa
vào sách giáo khoa để dạy cho học trò. Đối với văn học cổ, văn học dân gian, người ta cũng
chỉ chọn lọc chỗ nào, nội dung nào có tác dụng chính trị, phù hợp với đường lối,
tư tưởng cộng sản. Ví dụ, truyện Kiều họ chỉ chọn những phần chống phong kiến,
lên án chế độ phong kiến, theo quan điểm phản đế phản phong. Truyện Kiều lừng
danh như vậy nhưng học trò chỉ học “Thúy Kiều mắc lừa Hồ Tôn Hiến”, “Mã Giám
Sinh mua Kiều”, “Trước lầu Ngưng Bích”, còn bao nhiêu cái hay cái đẹp khác (mới
là chính) của tác phẩm lừng danh này bị lược bỏ. Ngay GS Lê Đình Kỵ nghiên cứu
rất sâu về truyện Kiều cũng chỉ đặt vấn đề “Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực
của Nguyễn Du” dưới góc độ… cách mạng.
.
Hôm rồi, dư luận xôn xao về đề thi văn kỳ thi tốt nghiệp THPT 2023. Mà
chê là phải, tới thời này còn lôi “Vợ nhặt” ra thi, lại chọn đúng đoạn dở nhất.
Nhà nghiên cứu Hán Nôm Nguyễn Xuân Diện nhắc đến cái công thức dạy, học và ra đề
của môn văn xứ này bao nhiêu năm không thay đổi là “Yêu, căm, chiến, lạc, Dậu,
Phèo, Pha”. Luôn khuyên học trò đừng học tủ nhưng dạy và ra đề thường chỉ có bấy
nhiêu. Sau này họ có thêm bớt, thay đổi chút chút nhưng dường như vẫn quẩn
quanh trong cái vòng kim cô do đảng cột ấy.
Thời tôi học cấp 2, cấp 3, môn văn-chính trị chỉ xoáy vào 2 vấn đề chính:
chiến tranh cách mạng và chủ nghĩa xã hội. Trải qua 2 cuộc chiến tranh thì nội
dung về chiến tranh là đương nhiên, nào chủ nghĩa anh hùng cách mạng, yêu nước,
căm thù giặc, chiến đấu hy sinh, tinh thần lạc quan, ta thắng địch thua, vẻ đẹp
người chiến sĩ. Tác phẩm quanh đi quẩn lại chỉ Bất khuất, Sống như anh, Người mẹ
cầm súng, Hòn đất, Dấu chân người lính, Trận phố Ràng, Một lần tới thủ đô, Vợ
chồng A Phủ, thơ Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi… Nội dung chủ nghĩa xã hội thì tập
trung vào vẻ đẹp cuộc sống mới, con người mới, ai thắng ai, làm chủ tập thể, ca
ngợi hợp tác xã, phê phán cái tôi cá nhân chủ nghĩa, thể hiện tính cách điển
hình trong hoàn cảnh điển hình, với Cái sân gạch, Mùa lạc, Quê hương, Lặng lẽ
Sa Pa, Anh Keng, Cỏ non, thơ Huy Cận, Hoàng Trung Thông, Xuân Diệu, và tất
nhiên lại Tố Hữu bởi chỗ nào Tố Hữu cũng chiếm chỗ.
Lâu nay, thiên hạ thường nghĩ chỉ bộ máy tuyên truyền, tuyên huấn tuyên
giáo, báo chí mậu dịch làm cái việc “đem bục công an đặt giữa trái tim người/bắt
mọi người phải ngược xuôi/theo đúng luật đi đường nhà nước” (Lê Đạt), chính trị
hóa bộ não và trái tim con người ta, nhưng thực ra chưa phải, chưa đủ. Chính đám sách giáo khoa môn văn môn sử của cộng sản mới là thứ thuốc nhuộm
não, thuốc phiện ghê gớm nhất, làm cằn cỗi tư duy và tâm hồn con người ngay từ
ghế nhà trường. Vào đời, mang thứ kiến thức lú lẫn ấy nên phần đông chỉ u u mê mê. (còn
tiếp)
Nguyễn Thông
.
***
Nguyễn Thông (Nguyễn Thông Cào)
Tôi gắn bó với môn văn của chế độ này đã lẩu lầu lâu nên quá rành về nó.
Kể từ khi học cấp 2 rồi cấp 3 (hệ 10 năm), tiếp đó mài đũng quần ở khoa văn 4
năm rưỡi, rồi dính ngay nghề dạy học gần 2 chục năm nữa, còn gì mà chẳng “ở
trong chăn mới biết chăn có rận”.
Những ai ở miền Bắc trước năm 1975 trải qua các cấp học phổ thông (hồi ấy,
từ cấp 1 tới cấp 3, tức từ lớp 1 đến hết lớp 10, gọi chung là hệ phổ thông, để
phân biệt với hệ bổ túc văn hóa; cũng như đại học có hệ chính quy, khác với hệ
tại chức, chuyên tu) đều hiểu môn văn trong nhà trường nó là thứ văn gì. Sau
nhiều năm thời thế thay đổi, cho tới nay, về cơ bản môn văn vẫn vậy. Nói ngắn gọn thì, không có văn học văn chương đúng nghĩa trong nhà trường
xã hội chủ nghĩa, mà chỉ có văn học cách mạng, văn học chính trị. Một thứ văn
học què quặt, thiển cận, phiến diện, méo mó, phi nghệ thuật, bị chính trị chi
phối đến mức thảm hại. Một thứ văn học sống sượng phục vụ tuyên truyền, giết chết
nghệ thuật.
Từ hồi học cấp 1, cũng đã lâu quá rồi nên tôi không nhớ cụ thể lớp mấy nữa,
ngoài một số bài khá hay, rất văn chương, kiểu “Trung thu độc lập”, “Cây tre” của
Thép Mới, vài bài thơ của Huy Cận, Định Hải, thì người ta nhét vào sách tập đọc
(bây giờ gọi là sách giáo khoa tiếng Việt) những tác phẩm tuyên truyền sống sượng
cho chế độ, cho đảng, bắt trẻ con phải ê a học thuộc. Tới giờ tôi vẫn thuộc,
nào là “Nông dân đã nói thì làm/Đã đi phải đến đã bàn phải thông/Đã quyết là
quyết một lòng/Đã phát là động đã vùng là lên/Đã lật lật dưới lên trên/Đã chuyển
là chuyển bốn bên chân trời”, hoặc bài “Đón tin hòa bình”, trong đó có “Cầm
vàng còn nghĩ ai cho/Tin này tạc dạ bác Hồ tóc sương/Gian lao mấy chục năm trường/Gian
lao tranh đấu dẫn đường cho dân/Tin này là nghĩa tương thân/Liên Xô, Trung Quốc
ân cần giúp ta”, hoặc bài “Tôi lớn trong lòng chế độ ta/Đời như bừng nở vạn
nhành hoa/Lòng trai hăm hở dồn tay búa/Tôi góp mồ hôi dựng nước nhà/Rưng rưng lệ
đọng dưới hàng mi/Mẹ nắm tay tôi giọng thầm thì/Thày mày sống đến ngày nay nhỉ/Tôi
biết mẹ tôi muốn nói gì”. Cứ như vậy, loại thơ văn sặc mùi chính trị, biết ơn đảng
bác ấy đã ám vào bao thế hệ tuổi thơ, biến bọn trẻ thành những cụ non.
Học lên cấp 2, cấp 3, định hướng chính trị trong môn văn ngày càng khủng
khiếp, nặng nề. Bao nhiêu tác phẩm lớn của gần nghìn năm văn học dân tộc chỉ được
lướt qua như cưỡi ngựa xem hoa. Đám học trò gần như chỉ biết hơi ky kỹ về truyện
Kiều, Hịch tướng sĩ, Nam quốc sơn hà, chứ những đỉnh cao Chinh phụ ngâm, Cung
oán ngâm khúc, thơ Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến…
lướt thôi. Mà người ta có gán các đấng bậc ấy vào sách giáo khoa cũng cốt phê
phán tư tưởng phong kiến lạc hậu, hạn chế này nọ. Thơ mới, rồi văn chương Tự lực
văn đoàn giai đoạn 1930 - 1945 với Nhất Linh, Khái Hưng bị xóa sổ. Ngay cả văn
học hiện thực mà họ đặt tên là văn học hiện thực phê phán cũng chỉ mấy tên tuổi
Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng. Họ rút phép thông công Vũ Trọng Phụng,
coi như rác rưởi; những Thạch Lam, Lê Văn Trương họ không cho bén mảng. Mà nói
đâu xa, họ đã ghét ai thì tác phẩm của người ấy dù hay đến mấy cũng không có chỗ
trong nền văn học nói chung, sách giáo khoa nói riêng. Những Hoàng Cầm, Trần Dần,
Hữu Loan, Quang Dũng là nhân chứng của một thời đối xử tệ hại với văn chương. Cộng sản không thích khen ai ngoài khen họ. Ai không đi
chung ý nghĩ với họ thì họ coi là kẻ thù, ghét đào đất đổ đi. Mười năm học
hệ phổ thông, đứa học trò rút cục cũng chỉ quanh quẩn biết về thơ Hồ Chí Minh,
Tố Hữu, sau nữa là Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Giang Nam, Thanh Hải…, văn
thì cũng lòng vòng trong mấy tác phẩm Người mẹ cầm súng, Sống như anh, Bất khuất,
Hòn đất, Đất nước đứng lên, Dấu chân người lính…
Người ta dạy văn nhưng chỉ cốt làm tuyên giáo trong nhà trường, thông qua
công cụ sách giáo khoa. Nói như ông Hoàng Ngọc Hiến, đó là thứ văn học phải đạo,
còn nhà văn Nguyễn Minh Châu gọi là thứ văn học minh họa. Văn học trong nhà trường
ở miền Bắc, nói cho cùng, đã giết chết biết bao nhiêu giá trị văn học, làm
nghèo và hủy hoại biết bao nhiêu tâm hồn thơ trẻ. (còn tiếp)
Nguyễn Thông
Hình : https://www.facebook.com/photo/?fbid=1466030530897668&set=a.133382914162443
.
Hèn chi hỏi bất cứ ai ngoài bắc
về Tự lực văn đoàn họ đều không biết. Trong khi đó hs miền nam chỉ mới lớp 6 đã
quá rành. Hs miền nam học môn kim văn.cổ văn .lịch sử suốt 12 năm cắp sách đã
tích lũy được biết bao kiến thức khi tiếp xúc với những tác phẩm hay.những
nhà văn.nhà nghiên cứu lịch sử kiệt xuất. Hoàn toàn không có kiểu văn chương
thù hận.tuyên truyền. Nghĩ lại thấy hs miền nam chúng tôi vô cùng may mắn đã
được sống và học hành dưới thời hoàng kim của nền giáo dục VNCH. Tôi thuộc lứa
tuổi...xui xẻo. Đoạn đời cắp sách bị vắt ngang 2 chế độ. Đang học ngon trớn bỗng
rơi tõm xuống cái lỗ hổng kiến thức. Nhất là môn văn. Kiểu gì học cũng không vô
với cái món văn chương cách mạng. Đây là lý cho tôi hay bị điểm gậy môn văn.đội
sổ môn sử. Đi học bị đội sổ nhiều khi cũng vui.
.
Tôi kém bác Thông đúng 1 giáp,
là "nạn nhân trọn vẹn" của "nền" văn học đó. Tôi tốt nghiêp
PTTH năm 1984. May mà nhà có nhiều sách để đọc, tự thoát ra khỏi :"yêu,
căm, chiến, lạc, Dậu, Phèo, Pha". Giờ nghĩ lại thấy "công cuộc"
nhồi sọ ,tẩy não ghê thật!
***
Nguyễn Thông (Nguyễn Thông Cào)
Nhân chuyện thiên hạ đang lời ra tiếng vào về đề thi môn văn, về bài văn
dài 22 trang... nhà cháu ngẩn ngơ nhớ lại chuyện dạy văn, học văn, làm văn, thi
văn những năm chưa xa.
Trong các môn học ở nhà trường, văn luôn được coi là môn chính, cùng với
toán. Thậm chí ngày xưa, xưa xửa xừa xưa, chỉ học mỗn môn văn, bắt đầu từ “nhất
là một, nhị là hai” rồi tam tự kinh, rồi đến tứ thư ngũ kinh, cứ thuộc kinh
sách như cháo, sôi kinh nấu sử thật nhừ là có thể đi thi, giành lấy cái bảng
vàng trạng nguyên bảng nhỡn. Chả cần toán lý hóa sinh siếc gì cho mệt.
Văn mặc nhiên được coi là thứ tiêu chuẩn để đánh giá con người, cả về tri
thức và đạo đức. Hồi xưa khen nhau, ai đó được xếp vào hạng “văn hay chữ tốt”
không khác gì bây giờ được phong giáo sư tiến sĩ, anh hùng, huân chương Hồ Chí
Minh, danh hiệu nhân dân này nọ.
Hồi tôi bắt đầu đi học (thực ra chả muốn học, chỉ muốn chơi hoặc đi đánh
dậm, nhưng thày bu cứ ép, bảo “nhân bất học bất tri lý, ấu bất học lão hà vi” –
người mà không học không biết được lẽ đời, lúc còn trẻ con mà không đi học, rồi
khi già làm được trò gì). Bu còn đèo thêm, nó không đi học, sắm cho nó cái cặp
tre và cái giỏ để đi nhặt cứt, sau này nhớn lên cũng chỉ ra Phòng đạp xích lô
như cậu Đại là cùng. Chả là trong làng có ông Đại, nhà nghèo, mấy anh em không
học hành gì, ông có hai anh là ông Bình, ông Vọng đều ra Phòng đạp xích lô, 3
anh em xích lô chuyên nghiệp. Tôi không sợ theo ông Đại, còn muốn ra Phòng tung
tẩy là khác, nhưng hãi phải đi nhặt cứt.
Từ cấp 1 tới đại học (hê hê, loại cứng cổ rắn đầu biếng học như tôi mà
cũng đại học) thập niên 1960 - 1970, tôi chỉ học văn. Thực ra không học văn
cũng chả biết học gì bởi nhà cháu đây rất dốt toán lý hóa sinh ngoại ngữ. Cả đời
không làm được bài toán số học khó nào (chỉ cộng tiền là giỏi), toán quỹ tích,
hình học không gian, tính hóa trị, toán gien sinh học lại càng không. Chỉ thạo
nghề chép lại quay cóp bài của bạn. Có 7 cái hằng đẳng thức đáng nhớ, học suốt
3 tháng không thuộc, không ứng dụng được vào làm toán. Bảng tuần hoàn của
Mendeleev dán đầy tường nhà chỉ để trang trí, không biết chất nào ở vị trí nào,
số mấy, ký hiệu ra sao. Vậy nhưng có nhẽ ăn ở hiền lành, đập con cá rô để rán
cũng ngại nó chết đau đớn, được trời phật độ nên thoát hết các kỳ thi, hết cấp
1 thì vào cấp 2, hết cấp 2 lên cấp 3, xong cấp 3 vào đại học, tốt nghiệp đại học
thì đi làm và... nghèo cho tới giờ. Nguyên do, chỉ thạo mỗi môn văn. Giờ vẫn
không hiểu tại sao mình lại tốt nghiệp phổ thông (cấp 3, hết lớp 10) khi chưa hề
làm được nửa bài toán quỹ tích.
Các cụ bảo “một nghề cho chín, hơn chín mười nghề”, nói thế thôi, chín
nghề văn chỉ có từ toi đến toi. Kiếp sau, nếu thày bu lại ép đi học, hoặc trốn
hẳn, hoặc sẽ chuyển sang môn toán, quyết không chép bài quay cóp nữa. Cả đời
theo đòi học văn, có lẽ điều may mắn duy nhất là được làm trò của các đấng bậc
tài giỏi, như thầy Ngô Minh Phất (Trường cấp 2 Thụy Hương), thầy Tòng, cô Diệp,
cô Nga (Trường cấp 3 Núi Đối, Kiến Thụy, Hải Phòng), và đặc biệt các thầy cô
Đinh Gia Khánh, Đỗ Đức Hiểu, Trần Đình Hượu, Nguyễn Tài Cẩn, Bùi Duy Tân, Đỗ Hồng
Chung, Lê Hồng Sâm, Hoàng Như Mai, Hà Minh Đức, Nguyễn Kim Đính… Học các thầy
giỏi, nhưng ra đời cho tới giờ vẫn chỉ là kẻ tầm thường và nghèo, đó tại lỗi của
bản thân chứ không phải của các thầy. (còn tiếp)
Nguyễn Thông
.
Nguyễn Thông,
Khó tin anh chỉ khá/giỏi Văn và
dốt tất cả môn học khác mà vẫn thi đậu Phổ thông.
Ở miền Nam thì trung học thi tú
tài 1(lớp 11) và tú tài 2(lớp 12)
Chia ra ban A(Sinh hay Vạn Vật),
B(Toán Lý Hoá) và C(Văn và Ngoại ngữ)
Ví dụ thi tú tài 1 hay 2 cho
ban B: Toán hệ số 5; Lý-Hoá hệ số 4; Triết Học, Lịch Sử & Địa Lý và Sinh Ngữ
1 đều hệ số 2; các môn khác như Vạn Vật, Công Dân Giáo Dục có hệ số 1.
Ban C thì đương nhiên Văn là hệ
số 5, Sinh Ngữ 1 hệ số 4; …. Toán&Lý Hoá, Vạn Vật, Công Dân Giáo Dục hệ số1.
Các học sinh siêng học lắm vì
không lên lớp 11 thì bị bắt đi lính làm binh nhì, rớt tú tài 1 thì đi lính làm
trung sĩ, đậu tú tài 1 nếu rớt tú tài 2 thì đi sĩ quan chuẩn úy, đậu tú tài 2 mới
lên đại học hay được học sĩ quan Đà Lạt tốt nghiệp Cử nhân và mang lon Thiếu
Uý.
Hàng năm kết quả tú tài 1 và 2
ít khi đạt 50% đậu. Năm 1972, mùa hè đỏ lửa cần lính nên đề thi năm đó chỉ
30-35% đậu, số rớt đi lính.
Ba mẹ tôi chỉ cần nói: Rán học
để đậu tú tài không thì đi lính. Vậy là lo học.
.
Tom
Nguyen Hồi xưa tui đc nghe câu
"Rớt tú tài anh đi trung sĩ
Em ở nhà lấy Mỹ (mà) sanh con
Bao giờ yên chuyện nước non
Anh về anh có... Mỹ con anh bồng".
Không biết câu đó của ai, và ở đâu nhỉ?!
.
Bài vè này được lưu truyền
trong khoảng 1967-1972 lúc chiến tranh đang ở giai đoạn ác liệt với hàng triệu
quân miền bắc đánh vào miền nam. Dân chúng ở các miền quê phải vào thành phố tỵ
nạn. Xã hội nháo nhào. 500 ngàn quân Mỹ tham chiến. Thanh niên miền nam,
trừ một số ít vào đại học, phải ra chiến trường. Một số nhỏ phụ nữ miền nam làm
mãi dâm, một số rất ít lấy Mỹ thật sự và rời VN khi người Mỹ rút ra khỏi Việt
Nam. Đó là bi kịch tạo ra bởi các lãnh tụ cộng sản đặt quyền lợi của ý thức hệ
và đảng cộng sản lên trên quyền lợi dân tộc.
Hoàng Nguyễn,
Mỹ đã rút ra khỏi VN năm 1972.
VN đã có hoà bình 48 năm rồi mà nay bi kịch cho VN càng lớn hơn và dai dẳng
hơn. Hàng trăm ngàn phụ nữ VN bị bắt cóc, bị bán sang TQ làm mãi dâm hay lấy chồng
TQ. Hàng trăm ngàn phụ nữ VN đã đi ở đợ ở khắp nơi trên thế giới và bị đày đoạ
tình dục. Hàng trăm ngàn phụ nữ VN lấy Tây Mỹ và khắp nơi trên thế giới.
Câu vè hiện nay là:
Xong đại học anh làm tài Grab
Em ở nhà làm đĩ khắp nơi
Bao giờ có dịp về thăm quê
Em về anh có Tàu(Hàn, Mỹ, Tây…)
con anh bồng.
.
.
.
No comments:
Post a Comment