Thái
độ ủng hộ Nga xâm lược Ukraine phản ánh tâm lý thù địch Phương Tây có nguồn gốc
ý thức hệ
Phân tích của TS. Phạm Quý Thọ
2022.10.03
Cuộc chiến
Nga – Ukraine đã diễn ra hơn bảy tháng tính từ khi Tổng thống Nga Vladimir
Putin phát động vào ngày 24/2/2022. Ngày 21/09 ông Putin đã thông báo huy động
300 ngàn quân dự bị và đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân. Trước đó một ngày, bốn
vùng lãnh thổ của Ukraine: Luhansk, Donetsk, Zaporizhzhia và Kherson tuyên bố
‘trưng cầu dân ý’ về việc sáp nhập vào Nga… Ngày 30/9 ông Putin công khai tuyên
bố bốn vùng trên ‘thuộc về Nga’ và rằng: “Bất chấp mọi khó khăn, họ đã mang
trong mình tình yêu dành cho nước Nga, và tình cảm này không ai có thể triệt
tiêu được”. Ngay sau đó Tổng thống Volodymyr Zelensky lên án Nga ký sắc
lệnh sáp nhập, gửi đơn gia nhập NATO và nhấn mạnh: “Chúng ta phải giải phóng
toàn bộ vùng đất của mình, và đây sẽ là bằng chứng tốt nhất cho thấy luật pháp
quốc tế và giá trị con người không thể bị phá vỡ bởi bất kỳ quốc gia khủng bố
nào…” Cuộc chiến tranh sang giai đoạn khốc liệt nhất.
Tâm lý thù địch
Bất chấp
những thất bại và bước lùi gần đây trên chiến trường ở miền đông Ukraine cho thấy
dấu hiệu Putin sa lầy và đang rơi vào tuyệt vọng, sự lên án của Liên Hiệp Quốc
lên án vi phạm luật pháp quốc tế, tình thế khó khăn và cô lập của nước Nga, một bộ phận giới tinh hoa Việt
Nam vẫn khăng khăng thái độ ủng hộ các quyết định của Tổng thống Putin về cuộc
chiến. Ngay từ giai đoạn đầu, thái độ cuồng Putin đạt đỉnh điểm với ý kiến
rằng Putin có công phục hồi sức mạnh của nước Nga về kinh tế và quân sự, và ảo
tưởng ‘lấy lại những gì đã mất’ từ thời Liên bang Xô Viết (viết tắt tiếng Nga
là CCCP). Cho đến bây giờ chính quyền Ukraine vẫn bị coi là xấu xa, mang tư tưởng
phát xít, bài Nga và thân phương Tây, Mỹ và NATO đe doạ an ninh của Nga và áp đặt
cuộc chơi để thống trị thế giới… Thái độ này ngày càng trở nên cực đoan khi cho
rằng diễn biến và phân tích chiến sự bất lợi cho Nga chỉ là “tin rác” tuyên
truyền, Tổng thống Putin đã bị dồn vào chân tường, những gì ông ta làm và sẽ
làm đều có tiền lệ như can thiệp của NATO vào Kosovo, Mỹ xâm lược Irắc và ném
bom nguyên tử xuống Nhật Bản… và, rằng chẳng lẽ ông Putin “quỳ xuống van xin” Mỹ
và phương Tây!?
Ký ức về một
thời đã qua nhưng vẫn sâu nặng về người Nga ‘tốt bụng’ và đất nước hùng vĩ,
hoài niệm văn hoá bao dung và tình cảm quốc tế, sự giúp đỡ vô tư… là một trong
những nguyên nhân của thái độ ủng hộ Putin bất chấp bối cảnh thực tế đang thay
đổi mạnh mẽ. Hơn thế, đằng sau tâm lý thù địch Mỹ và phương Tây là chủ nghĩa tập
thể, chủ nghĩa anh hùng cách mạng… mang cội nguồn ý thức hệ cộng sản (CS), được
cho là có ưu thế trong điều kiện chiến tranh.
Níu kéo
Thái độ ủng hộ Tổng thống Putin xuất phát từ tâm
lý thù địch mang nguồn gốc ý thức hệ cộng sản còn ‘sâu nặng’ trong một bộ phận
trí thức, giới tinh hoa, các thế hệ lớn tuổi, từng học tập, lao động, công tác ở
Liên Xô cũ hoặc những người được hưởng lợi từ chế độ và cố níu kéo để duy trì.
Thực tế
cho thấy chủ nghĩa mang tên nhà tư tưởng K. Marx (Mác) (1818-1883) dẫn dắt xã hội
hướng tới một tầm nhìn không tưởng về chủ nghĩa cộng sản, trong đó cá nhân cần
được giải phóng khỏi “ý thức sai lầm” của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, ông đã
không thể ‘thiết kế’ con đường dẫn đến điều không tưởng này. Những môn đệ theo
ông đã tiến hành cách mạng XHCN, phá huỷ tất cả những gì thuộc về CNTB, về
chính trị, kinh tế và đạo đức. Như chúng ta biết, về mặt chính trị, chủ nghĩa
Mác tìm cách phá hủy pháp quyền, tam quyền phân lập và tự do ngôn luận để thiết
lập chế độ chuyên chế dưới sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng Cộng sản,
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Về mặt kinh tế, nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, như một công xưởng khổng lồ, được tạo dựng sau quá trình quốc hữu hoá,
xoá bỏ sở hữu tư nhân và thị trường. Về mặt đạo đức, nó tìm cách tiêu diệt chủ
nghĩa cá nhân, tự do tôn giáo và tư tưởng độc lập… Và trên đống đổ nát này, một
nhà nước được cai trị bởi một tầng lớp tinh hoa toàn năng.
Hệ tư tưởng
này khá phức tạp để nhận diện đầy đủ nhưng ngày càng suy thoái khi việc thử
nghiệm trong thế kỷ 20 đã thất bại, hệ thống XHCN sụp đổ, Liên Xô (CCCP) tan
rã, Venezuela lụn bại... Tuy nhiên, nó còn ‘sức sống’ trong vài quốc gia có chế
độ Đảng Cộng sản toàn trị theo mô hình Trung Quốc thực dụng, trong đó có Việt
Nam. Theo đó, dưới sự lãnh đạo độc quyền của Đảng Cộng sản: “tầng lớp tinh hoa
toàn năng” được tổ chức trong bộ máy đặc quyền đặc lợi tiến hành chính sách thực
dụng “cải cách và mở cửa”, chuyển đổi nền kinh tế theo thị trường để tránh sụp
đổ chế độ.
Trong bối
cảnh như vậy một bộ phận giới tinh hoa có cơ hội níu kéo khi biện minh, rằng
khó khăn trên con đường tiến đến CNXH là tạm thời, thị trường chỉ là công cụ chứ
không là CNTB, chính sách thực dụng là sách lược… và, tăng trưởng vẫn được nỗ lực
duy trì như sự đảm bảo cho chế độ và tính chính danh của Đảng CS… Cách thực
hành tư tưởng và chính sách thực dụng như trên, trước hết, khiến nền kinh tế phụ
thuộc hơn vào đầu tư nước ngoài mà thực chất là vốn tư bản và, về tư tưởng
chính trị, làm nảy sinh ‘thứ tín ngưỡng’ có nguồn gốc ý thức hệ cộng sản.
Tín ngưỡng
Ý thức hệ
này đang là thứ tín ngưỡng. Tín ngưỡng là sự biểu thị cảm giác hay tin chắc vào
điều gì đó được cho là tồn tại hoặc có thật. Niềm tin vào một xã hội tốt đẹp,
theo tuyên truyền là CNXH, trước hết, được hình thành trong quá khứ đấu tranh
giành độc lập dân tộc, xoá bỏ bóc lột, bất công... Niềm tin này đã từng tạo sức
mạnh giúp nhiều thế hệ vượt qua khó khăn và nuôi dưỡng hy vọng. Tuy nhiên, quá
trình vận hành tư tưởng thực dụng, chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường mà vẫn
duy trì chế độ Đảng Cộng sản toàn trị, càng lâu càng bộc lộ những bất cập và
mâu thuẫn giữa hai hệ thống giá trị đối nghịch, giữa thượng tầng kiến trúc và cấu
trúc hạ tầng, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất… Và, hậu quả để lại là
nghiêm trọng, điển hình là quốc nạn tham nhũng, tiêu cực và bê bối của bộ phận
lãnh đạo đảng viên khiến Đảng Cộng sản đã buộc phải thừa nhận là do sự suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống. Khi niềm tin không được củng cố bởi
thực tế và không được làm sáng tỏ bởi lý luận, mà chỉ dựa vào tuyên truyền, thì
nó dần trở thành thứ tín ngưỡng, tôn giáo.
Bức tranh
thực tế với gam màu sáng tối tương phản giữa người cộng sản ‘nguyên thuỷ’ và ‘tín
đồ’ ý thức hệ là không thể biện minh. Sự cam kết kiên cường theo chủ nghĩa Mác
và hành động theo nó như một lý do để sống, một lý do để hy sinh như cha ông họ
trong chiến tranh giành độc lập dân tộc tương phản với thái độ thực dụng và cơ
hội chính trị, trong đó bộ phận không nhỏ lãnh đạo lợi dụng quyền chức để trục
lợi và giàu lên nhanh chóng, tạo nguồn cơn bất công xã hội, khoét sâu hố ngăn
cách giàu nghèo. “Đội quân tiên phong” theo lời kêu gọi của Mác ra khỏi “tháp
ngà”, thoát khỏi “quá khứ bụi bặm” CNTB, coi bản thân như một tác nhân của sự
thay đổi chứ không phải là học giả đơn thuần tương phản với lời kêu gọi hành động
của Mác - “vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” chỉ dành cho tầng lớp cần lao,
những người dân bình thường đang nỗ lực tự thích nghi với thị trường, vật lộn tự
cứu mình…
Thứ ‘tín
ngưỡng ý thức hệ’ bộc lộ rõ ràng hơn qua nhận thức và thái độ của một bộ phận
giới tinh hoa đối với cuộc chiến Nga – Ukraine, với biểu hiện bề ngoài là trung
thành với lý tưởng nhưng thực ra ẩn chứa động cơ trục lợi, cơ hội. Nó cần được
nhận diện rõ ràng hơn trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội để giảm thiểu
nguy cơ đối với chính sách cải cách với tư tưởng thực dụng, có thể chỉ là sách
lược, nhưng không “thù địch” với phương Tây và tôn trọng luật pháp quốc tế.
--------------------------------------------------------------------
*
Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do.
-------------------
Tin,
bài liên quan
BLOG
·
Phạm
Bình Minh “trình” các thông điệp gì ở Liên Hợp Quốc?
·
Cuộc
chiến Ukraine và “tiêu chuẩn kép” của Việt Nam
·
Chiến
tranh Nga - Ukraine: Thái độ cộng đồng và tầm nhìn cho cải cách
·
Việt
Nam đứng về phía Nga là do bị ép hay tự nguyện?
·
Có
phải Việt Nam đã chọn phe?
No comments:
Post a Comment