Tiếng
nói của trí thức Việt xưa – nay trước sự suy đồi của Phật giáo
20 Tháng Tám, 2022
http://vanviet.info/van-de-hom-nay/tieng-ni-cua-tr-thuc-viet-xua-nay-truoc-su-suy-doi-cua-phat-gio/
Những năm
qua, công luận kêu ca phàn nàn nhiều về tình trạng khá suy đồi của sinh hoạt
Tôn giáo – nổi bật ở đạo Phật Việt Nam – trước sự tàn phá thiên nhiên để xây dựng
những khu Du lịch Tâm linh trá hình khủng nhằm lợi dụng Tôn giáo để kinh doanh…
Và mới đây nhất, tràn ngập Mạng Xã hội là hình ảnh những con chim phóng sinh tội
nghiệp bị nhốt trong lồng sắt để rồi sau đó ngắc ngoải trước cửa chùa, hình ảnh
các vị sư đạo mạo mãn nguyện đặt tay lên đầu phụ nữ, trẻ em đang cúi rạp sát đất
tựa Đức Chúa Trời ban phước lành, hình ảnh nhà sư ôm bát vàng đi “khất thực”
song lại quơ tay vơ tiền cúng dường, v.v. cộng với hàng chục câu chuyện không hề
bịa đặt về hành vi của không ít nhà tu hành Phật giáo hôm nay, cho thấy sự vi
phạm hiển nhiên các giới luật nghiêm trang của Phật pháp kinh điển, như sinh hoạt
xa hoa, ăn chơi trác táng, khuyến khích các hoạt động mang nặng chất kinh doanh
trong các nơi thờ tự, kêu gọi người dân đừng đi du lịch & đừng tiêu tiền bất
chính mà để dành cho cúng dường – xây chùa, như việc kiện cáo người dân đã xúc
phạm cá nhân mình, v.v. Đáng thương thay, đáng buồn thay, khi một Đất Nước có
truyền thống đạo Phật hàng ngàn năm giờ đây lại xuất hiện trong tâm tưởng người
dân lương thiện không ít “sư hổ mang”, “ác tăng”!
Tôi chợt
nhớ đến câu chuyện cúng dường mà thi hào Ấn Độ R. Tagore kể lại sau đây, trong
một thiên tùy bút – thơ đặc sắc của ông:
Sớm tinh
sương, một vị khất sĩ đi trên đường phố sang trọng và rao: “Ai có gì quý báu nhất,
hãy đem dâng lên Đức Phật”. Biết bao của cải châu báu bày ra, song vị khất sĩ cứ
bước qua tất cả, rồi ông tới khu phố bình dân, và cũng rao như thế. Lại nhiều đồ
đạc rải bên chân vị khất sĩ. Ông bước vào khu phố nghèo và lại rao lên… Một người
đàn bà bước khỏi cánh cửa tồi tàn, gọi to: “Thưa ngài, xin ngài hãy đợi chút ạ”.
Vị khất sĩ đứng im chờ đợi. Lát sau, có một bọc vo tròn ném ra từ sau cửa tới,
cùng lời cầu xin nghẹn ngào của người đàn bà: “Thưa ngài! Tôi chỉ còn có độc nhất
thứ này thôi… Mong Đức Phật thương tình”. Vị khất sĩ cầm vật đó lên: tấm váy chằng
đụp của người đàn bà. Ông ta rưng rưng nói: “Thưa mẹ, đây quả là thứ quý báu nhất
của mẹ dâng lên Đức Phật”…
Thưa các vị
tăng – ni đáng kính của Đại Việt xưa – Việt Nam nay!
Người dân
Việt ta vốn sùng Đạo Phật, và hiện cũng không ít người nghèo không kém người
đàn bà Ấn Độ kia. Họ muốn dâng lên Đức Phật linh thiêng nhân từ niềm tin yêu
sâu sắc của họ, cùng lời cầu mong được Bình An, Hạnh Phúc… Nhưng trừ đôi ba kẻ
giàu có bằng cách trấn lột của Dân và Tài nguyên quốc gia đã/ đang cúng dường hậu
hĩ cho các ngài, thì phần đông chỉ lo được hai bữa ăn xoàng hàng ngày và lo học
cho con cũng đã bạc cả tóc rồi, nên có lẽ cái thiêng liêng cao cả nhất của họ
dâng lên Đức Phật chỉ là tấm lòng thơm thảo…
Tình trạng
Phật giáo hiện đại có gì thực giống với những thời đã khiến nhiều danh sĩ Việt
Nam từng lên án sự suy đồi của Phật giáo. Như Vua Lê Thánh Tông vốn là người có
tình cảm sâu nặng với chùa chiền và Phật giáo, nhưng chính vì vậy ông càng cảm
thấy phiền lòng và phẫn uất với sự sa đọa trong sinh hoạt Phật giáo một số tăng
sãi. Truyện “Hai ông Phật cãi nhau” (Thánh Tông di thảo) là một trong
cách tỏ thái độ phản ứng và phê phán tinh tế của một vị vua đã tạo nên thời đại
Hồng Đức rực rỡ đối với một số ít phần tử chưa xứng đáng trong hàng ngũ tăng
già lúc đó. Trước vua Lê Thánh Tông mấy thế kỷ, nhiều nhà nho vốn uyên thâm cả
Phật lẫn Đạo cũng đã lên tiếng phê phán Phật giáo khi nó xa rời những yêu cầu cấp
thiết của đời sống và Quốc gia mà sa vào thông tục; như lời tâu của nhà nho Đàm
Dĩ Mông với vua Lý Cao Tông lên án Phật giáo làm bại hoại phong tục, phương hại
giáo lý, sư sãi quá nhiều thoát ly lao động: “Hiện nay số sư sãi đã gần ngang với
số phu dịch… (Bọn họ) tự kết bè lũ, lập càn thủ lĩnh, tụ họp thành bầy, làm nhiều
việc xấu…” Vì vậy vua đã “xuống chiếu thải bớt bọn nhà sư theo lời Đàm Dĩ Mông”[1].
Các thời
sau đó, những nhà nho sử gia, văn nhân nổi tiếng như Lê Văn Hưu, Trương Hán
Siêu, Lê Quát, Bùi Huy Bích, Phạm Nguyễn Du, v.v. chắc đều yêu quý và hiểu đạo
Phật, song cũng vì hiểu và yêu nên các ông không chấp nhận được sự suy đồi, bê
tha của một số người hoạt động trong Tôn giáo thiêng liêng này, chứ không chỉ
vì bênh nho phỉ Phật vì lý tưởng quân chủ mà các ông đang phụng sự.
Xin trích
dẫn Trương Hán Siêu trong bài ký “Tháp Linh Tế núi Dục Thúy”: “Ông Thích
Ca lấy tam không mà đắc đạo, khi tịch rồi, người đời sau ít phụng Phật giáo mà
chỉ làm mê hoặc chúng sinh. Thiên hạ có năm phần đất thì chùa chiền chiếm hết một
phần, bỏ cả luân thường, hao phí của cải. Bọn sư sãi thì rông dài, người khờ dại
thì vội vã tin theo…”. Người theo Phật thì “lũ lượt đi ở chùa, không cày mà có
ăn, không dệt mà có mặc, thất phu thất phụ thường dời nhà cửa, bỏ xóm làng,
theo gió cuốn”[2].
Trên văn
bia chùa Khai Nghiêm, Trương Hán Siêu nhấn mạnh hơn: “một bọn giảo hoạt gian
ngoan, mất hết cả bản ý khổ hạnh không hư, chỉ ham chiếm đoạt được vườn sinh cảnh
đẹp, để nhà cửa lộng lẫy như vàng ngọc, tay chân đông đúc như rồng voi… Hiện
nay Thánh triều muốn tuyên phong hóa nhà vua để chữa phong tục đồi bại, dị đoan
đáng truất bỏ, thanh đạo nên phục hưng… Thế mà cứ bo bo lải nhải chuyện Phật,
ta định lừa ai?”[3].
Lê Quát,
trong văn bia chùa Thiên Phúc (Bắc Giang) cũng viết: “Từ trong kinh thành cho đến
ngoài châu phủ, kể cả những nơi thôn cùng ngõ hẻm, không bảo mà người ta cũng cứ
theo, không hẹn mà người ta cũng cứ tin; hễ nơi nào có nhà ở, là ắt có chùa chiền,
bỏ rồi lại dựng, hỏng rồi lại sửa, số chuông trống lâu đài chiếm một nửa dân
cư…”[4].
Xin lưu ý
rằng: hầu hết những lời trên lại được khắc ngay trên những tấm bia ở các chùa,
được các vị sư trụ trì các đời trân trọng, bảo quản! Điều đó chứng tỏ: những
nhà tu hành chân chính cũng đồng tình với sự phê phán nghiêm khắc của các trí
thức đối với những gì bất cập, hư hỏng của nội bộ tăng đoàn và sinh hoạt Phật
giáo!
Những lời
nhận xét – phê phán trên chứa đựng những sự thực hiển nhiên, lại dường như mang
cả nhiệt huyết còn ấm nóng của các vị Tổ dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử – dòng đạo
Phật nhập thế của nước Đại Việt được khơi nguồn và phát triển từ thời đại Lý –
Trần oanh liệt. Tư tưởng thiền nhập thế đó phải chăng cũng là tư tưởng của Thiền
sư Pháp Thuận từng khuyên Vua Lê Đại Hành: “Vô vi trên điện gác/ Chốn chốn tắt
đao binh” (Vô vi cư điện các – Xứ xứ tức đao binh. Quốc tộ), của tư
tưởng “Cư trần lạc đạo” được Phật hoàng Trần Nhân Tông nói rõ và đã thực hiện:
“Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên; Đói cứ ăn no mệt ngủ liền; Của Báu trong nhà thôi
tìm kiếm; Vô tâm trước cảnh hỏi chi Thiền”…
Thời nay,
trước sự suy đồi của Phật giáo, trí thức Việt cũng đã có khá nhiều tiếng nói
nghiêm khắc, chân tình – như các tác giả Chu Mộng Long, Dạ Ngân, Nguyễn Thế
Khoa, Thái Hạo, v.v. Và đặc biệt có một “người trong cuộc” là Hòa thượng Thích
Thông Lạc đã nhiều lần lên tiếng gay gắt, trực diện, cụ thể – tuy ông đã bị phản
đối không ít từ chính trong nội bộ tăng đoàn Phật giáo, nhưng lại được sự đồng
tình của nhiều nhà tu hành chân chính, của phần đông cư sĩ – Phật tử và công
chúng rộng rãi. Chỉ cần đọc một đoạn trong bài Hỏi Đáp: NHỮNG TRÒ MÊ TÍN LỪA ĐẢO
TRONG CÁC CHÙA, để thấy ông đã thẳng thắn vạch ra những vấn đề nóng bỏng tính
thời sự và chân tình khuyên bảo các Tăng Ni – Phật tử:
“Hỏi:
Trung tâm thành phố Hà Nội có một ngôi chùa, ở phố Bà Triệu, tại đây đã thực hiện
di dân hai lần, tổng chi phí lên tới vài chục tỷ đồng, để cho nhà chùa được rộng
rãi khang trang và riêng biệt… Quý sư ni ở đây hành đạo bằng pháp tụng kinh, gõ
mõ, dâng sao, giải hạn… và đặc biệt vào khóa lễ đầu năm có làm một chiếc thuyền
Bát Nhã bằng giấy để chở vong linh người chết về Tây phương, Niết Bàn… Vậy những
việc làm trên của các sư ni có đem lại lợi ích gì cho Phật pháp, cho các sư ni
và cho chúng sanh không ạ?
Đáp: Tụng
kinh, gõ mõ, dâng sao, giải hạn, làm thuyền bát nhã bằng giấy để chở các vong
linh về Tây phương, Niết Bàn, v.v., đó là những việc làm mê tín lừa đảo những
tín đồ nhẹ dạ vì thương cha mẹ và những người thân nên bỏ tiền ra cúng để các
sư cô ghi tên họ được đưa về Tây Phương Cực Lạc, đó là một việc làm mê tín lạc
hậu nhất trong các kinh sách phát triển mà các sư cô thực hiện.
Những việc
làm này là những việc phỉ báng Phật giáo, có mục đích tiêu diệt Phật giáo, thấy
những việc làm này người có trí hiểu biết sẽ đánh giá Phật giáo là một loại tôn
giáo mê tín, lừa đảo, tín đồ, do đó việc làm này không có lợi mà còn có hại cho
Phật giáo rất lớn. Những việc làm này nó không có lợi ích cho con người khiến
cho con người tiền mất tật mang chỉ có những người hành nghề bất chánh này là
có lợi ích mà thôi.
Bằng chứng
như trong thư đã nêu, các ni sư chỉ hành một cái nghề mê tín này mà nhà chùa có
hằng tỷ bạc dám bỏ tiền ra di dân để nhà chùa được rộng rãi khang trang hơn.
Cho nên không có cái nghề nào làm giàu dễ như làm nghề mê tín trong các chùa.
Nghề mê tín là nghề bói khoa, chiêm tinh, cúng sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt
xấu dựng vợ gả chồng, làm nhà xây mồ mả, v.v.
Nghề mê
tín là nghề cúng bái, tụng niệm, cầu siêu, cầu an, làm ma chay, làm tuần cúng
vong, tiễn linh, mở cửa mả, đốt tiền vàng mã và nghề dán kho đụn, quần áo, mũ
nón, v.v, đó là nghề lừa đảo lường gạt tín đồ Phật giaó. Kinh sách Nguyên Thủy
không bao giờ đức Phật dạy, duy chỉ có kinh sách phát triển mới có dạy điều này
mà thôi.
Người cư
sĩ đệ tử của đức Phật phải có trí tuệ, phải xác nhận thấy biết những điều mê
tín không lợi ích cho mình cho người, những điều phi lý mất công bằng, vô đạo đức
thì nhất định không làm theo, hoàn toàn không để cho người khác lợi dụng mình,
lừa đảo mình. Có như vậy mới làm sáng tỏ lại Phật giáo, mới đem lại nền đạo đức
nhân bản không làm khổ mình khổ người…
Tóm lại,
quý vị cư sĩ phải đề cao cảnh giác và thường nên tránh xa những giáo pháp trừu
tượng, mê tín, cúng bái, cầu siêu, cầu an, bùa chú, thần thông, dù bất cứ những
loại thần thông nào, chúng là những pháp môn lừa đảo chứ không có ích lợi gì
cho ai cả, quý vị nên nhớ kỹ đừng để mắc lừa, tốn hao tiền bạc, công sức tu tập
mà chẳng giải thoát gì, chỉ phí uổng công khó cho một đời tu mà thôi”[5].
Hoặc tâm sự
của ông trong PHÁP MÔN NIỆM PHẬT: “Phải sống trong thực tế, đừng mơ mộng ảo huyền,
toàn thứ bánh vẽ, thật sự không ích lợi gì cho kiếp sống hiện tại của con người
các con ạ!”, hay là: “Những tu sĩ và cư sĩ Phật giáo đều là những bậc Thánh
tăng, Thánh ni và Thánh cư sĩ. Vì thế trong đời sống hiện tại trên thế gian, hằng
ngày quý vị phải biết cách thức sống đúng đạo đức nhân bản – nhân quả thì sự an
vui hạnh phúc mới thực sự là chân thật. Do muốn biết cách thức sống đúng đạo đức
nhân bản – nhân quả nên phải biết rõ ràng từng hành động thân, khẩu, ý của mình
như thế nào đúng và như thế nào sai giới luật, sai giới luật là phạm giới. Sống
đúng giới luật là sống đúng đức hạnh, sống đúng đức hạnh là sống thương yêu
nhau, đem lại sự an vui cho nhau. Sống phi giới luật là sống vô đạo đức, sống
vô đạo đức là sống đem khổ đau cho nhau, chẳng biết thương nhau”[6].
Những tiếng
nói của trí thức Việt trung thực, nối tiếp truyền thống từ nhiều thế kỷ nhằm
phê phán hoạt động Phật giáo – sự phê phán nghiêm khắc, chân tình để Phật giáo
nói chung và ngôi chùa nói riêng cần trở lại linh thiêng và tiếp tục gần gũi với
tâm hồn người dân Việt, kể từ thời Bắc thuộc, nói như cố GS. sử học Trần Quốc
Vượng: “đạo Phật thấm vào lòng người dân Việt cổ như nước thấm vào lòng đất”,
và “Phật giáo trở thành một tư tưởng dân tộc và tổ chức Phật giáo (tăng đoàn,
cư sĩ, Phật tử) trở thành một lực lượng dân tộc”[7].
Hà Nội,
10/8/2022
[1] Đại Việt sử ký toàn thư, tập
II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1972, tr. 289.
[2] Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập II, Nxb Văn học, Hà Nội, 1976,
tr.196.
[3] Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,
1972, tr.156.
[4] Thơ văn Lý Trần, tập III,
NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.145.
[5] http://phatphapchanthat.blogspot.com/2013/03/su-ong-thich-thong-lac-neu-ra-nhung-gia.html.
[6] Văn hóa Phật giáo truyền thống,
Lời nói đầu, tập II, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2011.
[7] Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch
sử tư tưởng Việt Nam, Nhiều tác giả, Viện Triết học, Hà Nội, 1986, tr. 141.
No comments:
Post a Comment