Đinh Hoàng Thắng - Viet Studies
14/04/2020
Vài
lời phi lộ: Giám đốc
Trung tâm Truyền thông và Hợp tác Quốc tế (ICCC) Đinh Hoàng Thắng trực thuộc Viện
Pháp luật, Chính sách và Phát triển (PLD), đã trao đổi với các báo Văn Nghệ, Tầm
Nhìn và Nhịp Cầu Thế Giới (thực hiện giãn cách từ hàng chục đến hàng vạn cây số)
về Công hàm 22/HC-2020 từ Cơ quan Đại diện của Việt Nam bên cạnh Liên hiệp quốc
gửi Tổng thư ký LHQ. Những chỗ tô vàng bên dưới là các đoạn trong nước “đục, cắt
và điều chỉnh”. Xem vậy để thấy con đường “giãn Trung”, kiện Tàu ra toà án quốc
tế còn lắm gian truân. Khó khăn không chỉ đến từ Trung Quốc, tất nhiên, mà còn
do những cản trở trong việc thắp lên ngọn lửa của lẽ thật và đột phá tư duy.
Vietstudies xin đăng lại đầy đủ toàn văn bài trả lời phỏng vấn:
*
1) Hiếm khi được đọc
tận mắt một công hàm chính thức của Cơ quan đại diện ta (CQĐD) gửi cho các
chính phủ, như công hàm do CQĐD Việt Nam tại New York gửi Tổng thư ký Liên hợp
quốc (LHQ) ngày 30/3/2020 vừa qua. Thưa ông, tại sao công hàm ấy lại không có
chữ ký?
Công hàm là văn kiện ngoại giao chính thức trong
trao đổi giữa các chính phủ, hay giữa chính phủ với các tổ chức quốc tế, thông
qua Bộ Ngoại giao hoặc trực tiếp. Các công thư này có nhiều hình thức: Công
hàm, Công hàm ngoại giao và Biên bản ghi nhớ, hay còn gọi là Văn bản lưu ý…
(Memorandum hay Reminder / Aide-Mémoire).
Nội dung nhằm thông báo, yêu sách hay phản đối hoạt
động hay sự kiện, hoặc vấn đề có liên quan, mà cả hai hay nhiều bên cùng quan
tâm. Công hàm được soạn thảo ở ngôi thứ ba, đa phần không ký tên và chỉ đóng dấu
treo của CQĐD. Công hàm 22/HC-2020 đệ trình lên LHQ ngày 30/3/2020 vừa qua là một
văn kiện ngoại giao có hình thức cao như thế.
2) Nội dung và ý
nghĩa của các công hàm là gì?
Công hàm Trung Quốc bác bỏ các công hàm của Malaysia
(gửi ngày 12/12/2019) và của Philippines (gửi ngày 6/3/2020), liên quan đến việc
xin công nhận phần thềm lục địa mở rộng trên Biển Đông đối với Malaysia, còn với
Philippines thì dẫn lại phán quyết của Toà Trọng tài thường trực (CPA) năm 2016
để khẳng định chủ quyền đối với nhóm đảo Kalayaan.
Công hàm của Việt Nam có nội dung và ý nghĩa: i)
tuyên bố trước toàn thế giới về lập trường phi pháp của Trung Quốc tại Biển
Đông; ii) khẳng định chủ quyền, quyền chủ quyền hợp pháp của Việt Nam tại Biển
Đông; iii) tạo lập chứng cứ về lập trường pháp lý của Việt Nam khi đưa vụ việc
ra giải quyết trước cơ quan tài phán quốc tế; iv) phản ánh rõ ràng nguyện vọng
và ý chí quyết liệt của nhân dân Việt Nam đối với chủ quyền biển đảo của Tổ quốc
tại Biển Đông.
Công hàm phản bác của ta là sự tiếp nối những gì đã
diễn ra từ năm 2009 khi các quốc gia đến kỳ phải nộp hồ sơ lên Uỷ ban về giới hạn
thềm lục địa của LHQ. Vào thời điểm đó, Việt Nam và Malaysia cũng từng nộp
chung hồ sơ lên Uỷ ban này, nhưng Trung Quốc đã chính thức lên tiếng phản đối.
Như vậy, công hàm Việt Nam đã thể hiện được ý chí mạnh
mẽ, lập trường chính trị – pháp lý rõ ràng, không hề coi việc Trung Quốc chiếm
đóng bằng vũ lực các đảo và các cấu trúc của mình là hợp pháp. Điều này cho thấy
chính phủ quyết tâm và có hành động kịp thời để bảo vệ chủ quyền biển đảo tại
Biển Đông.
Không chấp nhận tư duy “vay mượn từ tương lai”, tức
là cho rằng, thế hệ này không đòi lại được Hoàng Sa thì con cháu sẽ đòi. Không!
Công việc này phải được bắt đầu ngay từ bây giờ, bởi thế hệ chúng ta và bằng
các công cụ, thiết chế của LPQT.
3) Đúng là một “cuộc
chiến về công hàm”. Các công hàm đối lại nhau như thế có ý nghĩa gì? Công hàm của
Việt Nam có ảnh hưởng tới sự phối hợp cùng hành động của Philippines và
Malaysia với Việt Nam liên quan tới các vấn đề chủ quyền, quyền chủ quyền ở Biển
Đông hay không?
Trong đấu tranh pháp lý, khi đồng ý đưa nhau ra trước
các cơ quan tài phán quốc tế thì câu chuyện ở đây là mức độ thoả hiệp. Tuy phức
tạp, nhưng Việt Nam và hai nước ASEAN kia có khả năng tìm được phương cách thoả
hiệp, dung hoà được các lợi ích của nhau.
Việc đệ trình công hàm 30/3 nêu rõ quan điểm pháp lý
của chúng ta từ trước tới nay là cần thiết, thể hiện lập trường nhất quán của
Việt Nam, bác bỏ mọi yêu sách phi pháp của Trung Quốc. Còn Malaysia là bên khởi
đầu, với việc yêu sách thềm lục địa mở rộng ngày 12/12/2019, dẫn tới việc các
nước liên quan ra công hàm thể hiện quan điểm của mình.
Nhưng dường như trong công hàm ngày 6/3/2020 của
Philippines lẫn công hàm ngày 30/3/2020 của Việt Nam đều không nhấn mạnh đến nội
dung bác bỏ lập trường của Malaysia, mà chủ yếu tập trung để phản đối lập trường
Trung Quốc.
Đặc biệt, công hàm ngày 30/3/2020 của Việt Nam tập
trung vào những yêu sách bất hợp pháp của Trung Quốc đối với các đảo và các
vùng biển lân cận tại Biển Đông. Cụ thể đã không bác bỏ những đề nghị của
Philippines và Malaysia với Ủy ban Thềm lục địa LHQ về ranh giới ngoài thềm lục
địa của những nước này vượt quá phạm vi 200 hải lý.
Thực tế địa dư, địa hình và địa mạo ở đáy Biển Đông
là yếu tố tự nhiên tạo nên một số khác biệt trong các yêu sách chính đáng, phù
hợp Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS-1982) giữa Việt Nam, Malaysia,
Philippines, Indonesia, Brunei, cả Đài Loan và một phần nào đó cả Trung Quốc nữa
(do sự hiện diện của đảo Hải Nam). Những khác biệt này tạo ra sự tranh chấp giữa
các quốc gia.
Việt Nam luôn nhận thức được điều đó và trong các
tuyên bố từ trước đến nay luôn bày tỏ sẵn sàng đàm phán, thỏa thuận giải quyết
tranh chấp với các nước trên cơ sở và phù hợp với UNCLOS-1982. Ngoại trừ Trung
Quốc, các quốc gia còn lại ven Biển Đông, ở những mức độ khác nhau, cũng thể hiện
thiện chí giải quyết tranh chấp phù hợp với Công ước.
Vì vậy, không có lý do gì để hoài nghi, công hàm
ngày 30/3/2020 của ta có thể ảnh hưởng tới quan hệ giữa Việt Nam với
Philippines và Malaysia. Điều này thể hiện rõ nét qua sự kiện gần đây sau khi
công hàm ngày 30/3/2020 của ta được công bố, thì Bộ Ngoại giao Philippines vẫn
tuyên bố ủng hộ Việt Nam, phản đối sự kiện tàu hải cảnh của Trung Quốc ngày
2/4/2010 đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam.
Tình hình trên đây cho thấy, dường như cả ba quốc
gia thành viên ASEAN đã lượng định trước được những lợi ích trùng hợp. Cho nên
dù cả ba đều giữ lập trường của mình, nhưng vẫn tìm được các biện pháp thoả hiệp,
trong khi vẫn phản bác các luận điệu của Trung Quốc bằng công hàm của mỗi nước.
Khác với Trung Quốc là bên luôn đòi chủ quyền trên
90% toàn bộ Biển Đông và dứt khoát không chịu đàm phán đa phương, chỉ chấp nhận
ngồi với từng nước. Một trong những thâm ý của Trung Quốc là, sau khi giành được
ít nhất 50% biển đảo trong mặc cả với mỗi nước, Trung Quốc sẽ có “cổ đông” lớn
nhất, thâu tóm hầu hết khoáng sản trong lòng và dưới đáy đại dương. Bằng cách ấy,
phần lớn các tài nguyên sẽ thuộc về Trung Quốc.
4) Ông có bình luận
gì về thời điểm Việt Nam chọn gửi công hàm 30/3 lên LHQ?
Thời điểm đệ trình công hàm 30/3 có mấy đặc điểm: Thứ
nhất, chính quyền hành động rất kịp thời. Nếu để muộn hơn, sẽ không nêu được lập
trường về một vấn đề hệ trọng phải lên tiếng – theo nguyên tắc “trước sau như một”
(estoppel) – đối với sai trái của Bắc Kinh. Như thế ta đánh mất cơ hội khẳng định
chủ quyền, quyền chủ quyền của mình trên Biển Đông.
Thứ hai, nếu gửi sớm hơn, ta không còn cơ hội có tiếng
nói sau cùng. Ta tính trước được ý đồ của Bắc Kinh. Trung Quốc sẽ ra công hàm với
những luận điệu “lập lờ đánh lận con đen” như nhiều lần trước đây. Vì vậy, ta
chờ cho đến khi Trung Quốc gửi công hàm 23/3, sau đó một tuần, Việt Nam mới có
công hàm 30/3 để đáp trả.
Thứ ba, giải
toả phần nào sức ép của xã hội. Đây là lúc rút ngắn một phần khoảng cách giữa
người dân với chính quyền trong quan hệ với Trung Quốc, kéo dài bức xúc sẽ bất
lợi. Sau khi gửi công hàm, chính quyền lên án Trung Quốc
trong việc đâm chìm tàu cá Quảng Ngãi. Báo Nhân Dân đăng toàn văn Tuyên bố người
phát ngôn. Tất cả những “điểm rơi” ấy đều đúng lúc.
5) Nhiều dấu hiệu gần
đây cho thấy Trung Quốc tiếp tục tăng cường sức mạnh quân sự ở Biển Đông, bất
chấp đại dịch Covid-19. Ông bình luận gì về cách hành xử này của ban lãnh đạo Bắc
Kinh?
Thế giới sốc nặng. Dư luận lên án mạnh mẽ các hoạt động
của Trung Quốc đẩy mạnh quân sự hoá trên Biển Đông: mở rộng tập trận, xây thêm
các trạm nghiên cứu, điều máy bay chiến đấu, máy bay vận tải cỡ lớn ra đảo, đẩy
mạnh khai thác tài nguyên, đâm chìm các tàu cá của Việt Nam. Những hành động
này nhằm khẳng định yêu sách phi pháp và gây bất lợi cho các nước láng giềng
Đông Nam Á tại Biển Đông.
Với “ngoại giao coronavirus” theo “tam chủng chiến
pháp” (tâm lý, pháp lý và dư luận), Trung Quốc lợi dụng lúc Mỹ và châu Âu đang
bận đối phó với Covid-19 để trục lợi. Trung Quốc đánh tráo các hình ảnh, cố viết lại câu chuyện
nguồn gốc coronavirus, và về lâu dài, họ quyết tranh giành vai trò lãnh đạo thế
giới với Mỹ.
Thế giới đều đang lo dập dịch, cứu sinh mạng từng
con người bị lây nhiễm. Việt Nam và các nước đều san sẻ khó khăn với Vũ Hán.
Trong khi đó, Trung Quốc lại ra lệnh cho hải cảnh đâm chìm tàu ngư dân Việt
Nam, rồi vu oan giá hoạ, tầu gỗ Việt Nam “lao thẳng” và “đâm” vào tàu chiến
Trung Quốc (!?)
Có thể bình luận gì về thái độ lật lọng, xảo trá và
ngang ngược cũng như hành động man rợ như vậy? Nó quá xa lạ với thế giới văn
minh!
Bắc Kinh tưởng
có thể “múa gậy vườn hoang” nhưng có tin là Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và Úc (Bộ tứ) sẽ
có cuộc họp chung để trao đổi nhận thức mới của mỗi bên, đánh giá Trung Quốc là
kẻ thù chứ không còn là đối thủ cạnh tranh chiến lược nữa. Quốc hội Mỹ kêu gọi
phải áp dụng Đạo luật Tái hậu thuẫn châu Á (ARIA) đối với những hành động phi
pháp của Bắc Kinh.
Về việc Trung Quốc cho hải cảnh đâm chìm tàu cá của
Việt Nam và diễu võ dương oai “động binh” trên Biển Đông, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và
Quốc hội Mỹ đã nhất loạt bày tỏ “quan ngại sâu sắc”, phê phán “những hành động
của Trung Quốc là trái ngược với tầm nhìn của Mỹ về khu vực Ấn Thái Dương tự do
và rộng mở” (FOIP). Mỹ cam kết “tiếp tục nỗ lực hỗ trợ đồng minh và những nước
đối tác đảm bảo tự do hàng hải”.
Philippines nhắc lại ngư dân của nước này cũng từng
là nạn nhân của Trung Quốc và cám ơn Việt Nam đã cứu vớt các ngư phủ
Philippines.
6) Công hàm 30/3 liệu
có phải là một bước đệm để chính phủ Việt Nam sẽ kiện Trung Quốc ra các toà quốc
tế? Đâu là những điều kiện cần và đủ để có thể tiến đến một hành động pháp lý mạnh
mẽ và nhất quán để bảo vệ độc lập, chủ quyền đối với các vùng biển đảo của ta?
Sẽ còn cần nhiều bước đệm khác nữa trước khi có thể
tiến hành một vụ kiện hoặc song phương hoặc đa phương. Kiện Trung Quốc là cả một
vấn đề đại sự, đại sự nhưng không phải là bất khả thi trong bối cảnh tình hình
trong nước và quốc tế như hiện nay.
Qua chống Covid-19, Việt Nam được sự đồng cảm của thế
giới tiến bộ. Lần này, đệ trình công hàm lên LHQ, chúng ta càng có cơ hội làm
sáng tỏ chính nghĩa. Khi có chính nghĩa, càng được sự ủng hộ của nhân loại văn
minh. Qua đại dịch Viruscorona, chúng ta thấy, chưa bao giờ thế giới cần một trật
tự quốc tế đặt trên căn bản của luật pháp như lúc này.
Điều kiện cần
là chúng ta phải có tư duy đột phá, phải dám khai phóng về tư tưởng. Phải vượt
thoát các khẩu hiệu “hão huyền” xưa nay. Luôn nhớ rằng, trước đại dịch, thế giới
đã kinh hoàng về đại nạn “chết dưới bàn tay Trung Quốc”. Sau đại dịch và sau các cuộc tranh luận về “quốc tịch” con virus Vũ Hán
thì Trung Quốc sẽ là nỗi ám ảnh lâu dài đối với phần còn lại của nhân loại.
Chúng ta sẽ không cô độc!
Điều kiện đủ
là tăng cường nội lực để đất nước thực sự độc lập, tự cường. Hoạch định và thực
hiện rốt ráo chiến lược tổng thể xây dựng đất nước, trong đó sớm đổi mới thể chế,
đẩy mạnh dân chủ hoá, tôn trọng xã hội dân sự, xây dựng kinh tế biển hợp lý.
Hoàn thiện hệ thống đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với các nước, nhất
là các thành viên ASEAN nhằm phát huy sức mạnh thời đại trong không gian Ấn
Thái Dương tự do và rộng mở.
Mọi chuyện phải dụng công, đặc biệt chú ý mở rộng nội
hàm của khái niệm hội nhập để thúc đẩy các quan hệ sâu rộng với thế giới dân chủ.
Được thừa hưởng những án lệ quốc tế, được hỗ trợ từ công pháp quốc tế trong đấu
tranh thì chúng ta phải tôn trọng các giá trị phổ quát mà LPQT quy định chung
cho mọi quốc gia.
Không được quên chính sách của Trung Quốc: “Thuận
ngã giả xương, nghịch ngã giả vong” (Theo ta thì được tốt đẹp, chống lại thì ta
cho chết). Cho nên cuộc chiến đấu còn dài, chưa biết được đâu là hiệp cuối, nhất
là trên mặt trận pháp lý. Nhưng một khi đã bước được một bước lên đường, ắt sẽ
có những bước tiếp theo, dấn tới thì nhất định sẽ đến được đích!
7) Ông đánh giá thế
nào về khả năng và giới hạn của LPQT trong vấn đề giải quyết tranh chấp với
Trung Quốc về biển đảo hiện nay?
Giới chuyên gia đã tổng kết, 90% tranh chấp quốc tế
ngày nay đều được giải quyết qua đàm phán và tranh tụng. Trong các tranh chấp về
chủ quyền biển đảo, tỷ lệ này thấp hơn, nhưng các dàn xếp xung đột lợi ích tại
các cơ quan tài phán quốc tế bao giờ cũng chịu những tổn phí thấp nhất.
Dùng các công cụ LPQT để giải quyết tranh chấp với Trung
Quốc là một khả năng ngày càng thực tế. Từ cuối năm ngoái, phát ngôn ở cấp Thứ
trưởng Bộ Ngoại giao, Việt Nam đã tuyên bố là sẽ giải quyết các bất đồng, tranh
chấp bằng biện pháp hòa bình, trong đó không loại trừ khả năng đưa ra cơ quan
tài phán quốc tế.
Biển Đông là nơi có thể kiểm chứng mức độ thượng tôn
pháp luật của các nước, hiệu quả của LPQT, nhất là UNCLOS-1982. Biển Đông sẽ là
nơi thử thách tính hiệu lực của công pháp quốc tế, rằng một nước, bất kể lớn
hay nhỏ đều cần phải tuân thủ luật pháp.
Đây cũng là nơi để tăng cường hợp tác, nhất là hợp
tác đa phương, thúc đẩy áp dụng UNCLOS-1982, để đi đến Bộ Quy tắc Ứng xử (COC).
Hy vọng, khi tất cả các nước tôn trọng Công ước, nhất là những nước đã ký và
phê chuẩn, như Trung Quốc, thì trật tự, hòa bình, ổn định trên biển có thể được
duy trì.
Còn ý kiến cho rằng LPQT có vai trò hạn chế trong
tranh chấp chủ quyền là chưa xác đáng.
Cần nhận thức rõ, LPQT là cơ sở – chỉ là cơ sở –
nhưng là cơ sở rất quan trọng để các quốc gia liên quan giải quyết các tranh chấp
về chủ quyền trên biển. Đối
với ta, vai trò của LPQT đến đâu, tích cực và tiêu cực như thế nào, tuỳ thuộc
vào năng lực, bản lĩnh của lãnh đạo trong việc vận dụng LPQT để bảo vệ chủ quyền
và các lợi ích trên biển của dân tộc Việt Nam./.
No comments:
Post a Comment