Thursday, 28 February 2019

THƯỢNG ĐỈNH HÀ NỘI : TRUMP TRẮNG TAY, KIM NÂNG CAO VỊ THẾ? (VOA Tiếng Việt)




VOA Tiếng Việt
01/03/2019

Tổng thống Mỹ Donald Trump đã không thể đem về một thỏa thuận hạt nhân sau hai ngày họp thượng đỉnh với lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un ở Hà Nội trong khi ông Kim đã tận dụng cuộc gặp với ông Trump để nâng cao hình ảnh của mình đối với người dân trong nước cũng như trên trường quốc tế, truyền thống Mỹ nhận định về kết quả của Thượng đỉnh Trump-Kim lần hai.

Cuộc gặp Trump-Kim lần hai đã có kết thúc không như mong đợi

Sau hai ngày họp thượng đỉnh, ông Trump đã đột ngột cắt ngắn hội nghị vào trưa ngày 28/2 với lý do là phía Triều Tiên đưa ra yêu cầu mà ông không thể chấp nhận là ‘dỡ bỏ hoàn toàn các lệnh cấm vận’. Trong khi đó, phái đoàn Triều Tiên đã đổ lỗi cho phía Mỹ không chịu ‘dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận’ để đổi lấy việc họ tháo dỡ ‘hoàn toàn, vĩnh viễn, có giám sát’ một số cơ sở hạt nhân của họ như là bước đầu tiên hướng tới phi hạt nhân hóa.

Ông Trump thua?

Đài NBC nhận định rằng Tổng thống Trump ‘đã thua lớn’.

“Sau khi đi nửa vòng Trái đất để đến gặp mặt đối mặt với một trong những nhà độc tài khét tiếng nhất thế giới với hy vọng sẽ thuyết phục được nhà độc tài này từ bỏ kho vũ khí hạt nhân của ông – vị tổng thống tự xem mình là nhà thương thuyết tài ba nhất thế giới rời bỏ bàn đàm phán mà trong tay không có gì nhiều hơn lúc ông đến,” đài NBC nhận định.

“Đôi khi anh phải bỏ đi,” ông Trump phát biểu tại cuộc họp báo sau Thượng đỉnh. “Tôi nghĩ rằng đây là một trong những lúc như vậy.”

Đài NBC cũng đặt thất bại tại Hội nghị Hà Nội lên trên một loạt những vụ viêc xấu hổ của ông Trump trong những tháng vừa qua.

Đó là thất bại nặng nề của Đảng Cộng hòa của ông Trump trong cuộc bầu cử Hạ viện giữa kỳ, đợt đóng cửa chính phủ 35 ngày mà ông Trump nói là ‘việc của ông’ mà ông thấy ‘tự hào’ nhưng cuối cùng không đạt được mục đích gì; Quốc hội bác yêu cầu của ông cấp tiền xây bức tường biên giới với Mexico; một số cộng sự gần gũi nhất của ông bị Công tố viên đặc biệt Robert Mueller kết án; và mới đây nhất là những cáo buộc ông là kẻ ‘lừa đảo, dối trá và phân biệt chủng tộc’ mà luật sư cũ đồng thời là người dàn xếp của ông, ông Michael Cohen, đưa ra trước Hạ viện.

Ông Trump đã tự đặt mình vào thế khó khi đồng ý đến gặp ông Kim một lần nữa với không có gì hơn là một lời hứa từ phía Bình Nhưỡng rằng họ sẽ bắt đầu thu gọn chương trình hạt nhân của họ.

Tuy nhiên những gì mà Trump đã mất về phương diện uy tín, thời gian và công sức sẽ chẳng là gì so với những gì mà bản thân ông và nước Mỹ có thể sẽ mất nếu như ông nhượng bộ ông Kim chỉ để đạt được một thỏa thuận để cho phép ông tuyên bố hội nghị thành công và giữ thể diện khi về nước.

Ông Victor Cha, giám đốc chương trình Triều Tiên tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) gọi cuộc gặp thượng đỉnh Hà Nội là ‘thất bại hoàn toàn’. Tuy nhiên, ông cho rằng ông Trump ‘đã có quyết định đúng khi thúc đẩy những bước đi lớn hơn những hành động vụn vặt và thà là không đạt thỏa thuận còn hơn là có một thỏa thuận tồi’.

Ông Trump đã tiết lộ thỏa thuận đạt được sẽ tồi tệ như thế nào khi ông nêu lên điểm bế tắc trong cuộc đàm phán vốn tập trung vào việc dỡ bỏ các lệnh trừng phạt đối với Triều Tiên để đổi lấy việc họ giải trừ hạt nhân.

“Về cơ bản họ mốn dỡ bỏ hoàn toàn các lệnh trừng phạt, nhưng chúng tôi không thể làm được,” ông Trump cho biết. “Họ sẵn lòng giải trừ hạt nhân trên một phương diện lớn mà chúng tôi muốn, nhưng nhiêu dó không thể khiến chúng tôi xóa bỏ toàn bộ các lệnh trừng phạt, cho nên chúng tôi tiếp tục làm việc và chúng ta sẽ chờ xem.”

Trước khi đàm phán sụp đổ, Đài NBC đã đưa tin vào tối ngày 27/2 rằng các phía Mỹ đã từ bỏ yêu cầu ông Kim kê khai đầy đủ số vũ khí hạt nhân và chương trình tên lửa đạn đạo.

Cũng như chuyến công du Việt Nam lần này mà ông Trump đã cất công đi gặp ông Kim, việc Mỹ từ bỏ yêu sách nói trên cho thấy bản thân ông Trump rất mong muốn có được thỏa thuận nào đó với ông Kim trước khi ông rời Việt Nam. Chương trình của ông Trump mà Nhà Trắng thông báo cho ngày 28/2 thậm chí còn bao gồm một lễ ký thỏa thuận – một thỏa thuận cuối cùng đã không thành và buổi lễ đó cũng bị hủy đột ngột.

Ngay cả trước khi đặt chân đến Hà Nội, khao khát của ông Trump muốn có được thỏa thuận với Triều Tiên dường như mạnh đến nỗi các chuyên gia về Triều Tiên của Mỹ lo ngại rằng ông sẽ bị cuốn vào một thỏa thuận tồi. Một số những người chỉ trích Trump cho rằng ông đang tuyệt vọng muốn ghi điểm trên trường quốc tế để khỏa lấp những khó khăn chính trị trong nước.

Ông Trump đã không đi quá xa đến mức ông đặt mình vào một tình huống mà ông không còn lựa chọn nào tốt – nhưng ông đã đi gần đến đó.

“Vào lúc này, chúng ta có một số lựa chọn,” ông nói. “Và vào lúc này, chúng tôi quyết định không theo bất kỳ lựa chọn nào.”

Theo nhận định của NBC thì không có lựa chọn nào là tốt nhất cho ông Trump vào lúc này.
Không phải lúc nào ông Trump cũng lựa chọn con đường ít rủi ro nhất. Trong vòng 35 ngày hồi đầu năm nay, ông đã để cho chính phủ Mỹ đóng cửa một phần trong một nỗ lực tuyệt vọng để buộc phe Dân chủ chi tiền xây bức tường biên giới. Sau khi cuối cùng ông cũng phải chấm dứt đóng cửa chính phủ, ông đã được Quốc hội cấp ít tiền để xây hàng rào biên giới hơn là những gì mà Quốc hội sẵn sàng cấp cho ông lúc đầu – lúc chưa xảy ra đóng cửa chính phủ.

Tuy nhiên, giờ đây quyết định của ông từ bỏ việc đạt được thỏa thuận có lẽ sẽ làm hài lòng rất nhiều các chuyên gia về Triều Tiên của Mỹ. Quan trọng hơn, ngoài hạ mình trước ông Kim với việc đồng ý đến Hà Nội mà không hề có thỏa thuận nào được chuẩn bị trước ngay từ đầu, ông Trump đã không nhượng bộ gì thêm ở Hà Nội.

Đó là một thắng lợi nhỏ nằm trong một thất bại lớn, NBC nhận định.

Canh bạc rủi ro

Tờ New York Times cũng có nhận định tương tự như NBC khi cho rằng bao công sức ông Trump bỏ ra để gặp thượng đỉnh với ông Kim vì ông tin vào mối quan hệ cá nhân giữa hai ông cũng như tài đàm phán của bản thân ông đã trở thành công cốc.

“Chấp nhận đàm phán trực tiếp với nhà lãnh đạo Triều Tiên – điều mà tất cả những người tiền nhiệm của ông đều không muốn làm – Tổng thống Donald Trump đã bay gần 15.000 km để đến gặp ông Kim Jong Un lần thứ hai trong vòng chưa đầy một năm và với tất cả hy vọng đặt cược vào khả năng đàm phán của bản thân mà ông ca ngợi là ‘nhà đàm phán bậc thầy’ sẽ tạo nên khác biệt. Nhưng theo những gì đã diễn ra, thì mọi việc lại không được như vậy,” tờ New York Times viết.

“Chẳng thà không có thỏa thuận còn hơn là thỏa thuận tồi, và tổng thống đã làm đúng khi bỏ ngang hội nghị,” ông Richard Hass, chủ tịch Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, được New York Times dẫn lời nói.

“Tuy nhiên điều này lẽ ra không nên xảy ra,” ông Hass nói thêm. “Thượng đỉnh đổ vỡ và đó là rủi ro anh phải chịu khi đặt quá nhiều niềm tin vào quan hệ cá nhân với một nhà lãnh đạo như ông Kim, khi mà cuộc gặp không được chuẩn bị đầy đủ và khi tổng thống tỏ dấu hiệu cho thấy ông tự tin sẽ thắng lợi.”

Kết quả của cuộc họp hôm 28/2 đã khiến mọi người ngạc nhiên. Trước đó, ông Trump đã tin tưởng rằng một thỏa thuận đang hình thành đến mức Nhà Trắng loan báo sẽ có ‘lễ ký kết’ ngay sau buổi ăn trưa thân mật giữa hai nhà lãnh đạo. Nhưng điều đó đã không hề xảy ra.

“Tổng thống Trump có lẽ đã có một thỏa thuận nhỏ,” ông Joseph Yun, cựu đặc sứ về Triều Tiên của Bộ Ngoại giao Mỹ, nhận định sau khi Thượng đỉnh Hà Nội sụp đổ. “Đóng cửa một vài cơ sở hạt nhân và dỡ bỏ một vài lệnh cấm vận. Nhưng vì Cohen (luật sư của ông Trump ra khai chứng chống lại ông ở Quốc hội) mà ông Trump cần phải có một thỏa thuận lớn để đổi lấy việc nới lỏng cấm vận cho việc dỡ bỏ ở quy mô lớn các cơ sở hạt nhân mà Triều Tiên phải mất gần 40 năm mới xây dựng được.”

Trong ngắn hạn, hậu quả của thượng đỉnh lần hai nhiều khả năng sẽ rất tai hại đối với ông Trump, không chỉ đối với giấc mơ đạt giải Nobel Hòa bình của ông Trump mà ông đã nhờ Thủ tướng Nhật Shinzo Abe đề cử, theo New York Times.

Cũng theo tờ báo này, ông Trump, người đã dễ dàng chấp nhận cam kết hết sức mơ hồ của ông Kim tại cuộc gặp ở Singapore lần trước là ‘làm việc hướng đến phi hạt nhân hóa’, đã nhận ra trong cuộc gặp ở Hà Nội rằng nếu lần này ông chấp nhận yêu cầu của ông Kim là dỡ bỏ tất cả mọi cấm vận thì ông sẽ mất hết những đòn bẩy mà ông có được để gây sức ép với ông Kim.

Tờ báo này nhắc lại là kể từ ông Kim đưa ra lời cam kết đó với ông Trump ở Singapore, Bình Nhưỡng đã tìm mọi cách thoái thác như ông Kim không chịu gặp Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo ở Bình Nhưỡng và không cung cấp cho ông Pompeo danh mục các vũ khí hạt nhân của họ và không chịu làm việc với đặc sứ của Mỹ về Triều Tiên.

Thắng lợi về hình ảnh

Về phía nhà lãnh đạo Triều Tiên, hãng tin AP nhận định rằng ông Kim Jong-un không hề ra về tay trắng mặc dù ông đã không đạt được mục tiêu dỡ bỏ cấm vận và một tuyên bố hòa bình chấm dứt Chiến tranh Triều Tiên.

Ông Kim có lẽ đã yêu sách quá mức về dỡ bỏ lệnh cấm vận, nhưng ông đã cho thấy rằng ông có thể chơi rắn – một điều mà có lẽ ông Trump sẽ không thể quên. Ông đã rời khỏi hội nghị với tính chính danh nhiều hơn trước đây sau khi đã thuyết phục người đàn ông quyền lực nhất thế giới đến châu Á lần thứ hai trong vòng chưa đến 9 tháng. Ngay cả khi loan báo rằng đàm phán đã thất bại, ông Trump vẫn tiếp tục ca ngợi ông Kim và nhấn mạnh rằng cuộc gặp thượng đỉnh nhìn chung là thân thiện và mang tính xây dựng.

Quan trọng hơn, ông Trump để ngỏ khả năng tiếp tục đàm phán mà ông Kim có thể tận dụng.

Nhờ vào cuộc gặp thượng đỉnh lần thứ nhất với ông Trump ở Singapore, ông Kim đã có bước tiến dài trong việc khiến cho Trung Quốc và Hàn Quốc không còn mặn mà gì đối với lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc cũng như chính sách ‘áp lực tối đa’ của Mỹ. Ông Kim được cho là sẽ tiếp tục cố gắng đẩy Bắc Kinh và Seoul ra xa hơn nữa chính sách ‘áp lực tối đa’ của Washington vốn đã trở nên ngày càng suy yếu.

Tuy nhiên, việc thất bại của Hội nghị Hà Nội không nhất thiết có nghĩa là tất cả các bên ngay lập tức sẽ quay trở lại tình trạng khủng hoảng như trước kia do ông Trump đã nói rằng ông Kim cam kết sẽ duy trì việc đình chỉ phóng hỏa tiễn và thử hạt nhân.

Mặc dù có chủ ý hay không, ông Trump đã liên tục giúp cho ông Kim khẳng định bản thân trên vũ đài chính trị thế giới.

Trong cuộc họp báo, Tổng thống Mỹ dường như đã lặp lại một trong những luận điểm chủ chốt của ông Kim rằng các cuộc tập trận rất tốn kém và không cần thiết. Hoa Kỳ vẫn duy trì gần 30.000 quân ở Hàn Quốc và các cuộc tập trận chung giữa hai nước từ lâu đã được Bình Nhưỡng và cả Bắc Kinh xem là một mối đe dọa an ninh lớn đối với họ.

Tại cuộc gặp đầu tiên ở Singapore, ông Trump đã đi xa đến mức ra lệnh dừng các cuộc tập trận thường niên với Hàn Quốc.

Mặc dù tại Hà Nội lần này ông Trump không đề cập đến việc rút quân Mỹ về nước nhưng ông dường như chấp nhận quan điểm của ông Kim.

Ngay cả khi các cuộc đàm phán của ông với ông Trump bị sa lầy, ông Kim vẫn đã xóa đi phần lớn hình ảnh một chiều mà thế giới nhìn nhận về các lãnh đạo Triều Tiên.

Ở Hà Nội, ông tỏ ra ăn ý và ngoại giao trong các buổi tiếp xúc với ông Trump. Tuy nhiên ông kiên quyết từ chối từ bỏ chương trình hạt nhân mà đất nước ông phải rất tốn kém và rất vất vả mới đạt được để đổi lấy một đề nghị mà ông cho rằng không đáng.

Ở Hà Nội, cũng như ở Singapore, ông đã thể hiện một khuôn mặt dễ gần hơn là khi ông xuất hiện trên truyền thông ở trong nước. Có lúc ông tỏ vẻ nghiêm nghị, nhưng có lúc ông mỉm cười, thể hiện sự tư tin và tôn trọng trong các cuộc đàm phán với đối tác lớn tuổi hơn ông rất nhiều.

Ông thậm chí còn được bắt gặp có một khoảnh khắc hút thuốc rất đời thường trong chuyến tàu đến Việt Nam khi ông đứng tại một sân ga và châm thuốc bằng một que diêm cổ điển trước khi em gái ông đưa cho ông cái gạt tàn.

Mặc dù ông dựa vào phiên dịch trong các cuộc tiếp xúc với ông Trump, người ta đã nghe thấy ông nói tiếng Anh khi ông chào ông Trump. Ông cũng có hành động mang tính rủi ro khi lần đầu tiên lắng nghe câu hỏi của các phóng viên phương Tây.

Không giống như ông Trump, người ngay lập tức lên máy bay về Washington sau cuộc gặp, ông Kim không vội vã rời Hà Nội. Ông dự kiến ở lại đến ngày 2/3 và sẽ có thời gian thăm thú và gặp gỡ các quan chức Việt Nam trong một chuyến thăm được gọi là ‘thăm viếng hữu nghị’. Điều này sẽ giúp cho ông thể hiện với người dân Triều Tiên và thế giới rằng cuộc gặp thượng đỉnh giữa ông với ông Trump chỉ là một phần trong chuyến công du rộng lớn hơn và nhiều mục tiêu hơn của ông.

Ông Kim sẽ quay trở về quê nhà trước những người dân Triều Tiên mà theo truyền thông nước này ‘đã mất ngủ vì họ kính cẩn mong chờ ngày ông quay lại’. Cho dù điều đó có thật hay không, chắc chắn ông sẽ không phải đối mặt với ngọn lửa chính trị vốn đang chờ đợi ông Trump ở Washington.








MỸ HỌP THƯỢNG ĐỈNH VỚI BẮC HÀN - NGƯỜI MỸ ĐÃ TRONG LÒNG DÂN VIỆT NAM (Trần Tiến Dũng / Người Việt)




Trần Tiến Dũng/Người Việt
February 28, 2019

Không có gì gọi là quá sớm khi cho rằng: Người Mỹ bỏ rơi miền Nam Việt Nam để giờ đây họ có cả miền Bắc và tất nhiên là trọn vẹn Việt Nam.

Xuyên suốt trong lịch sử chế độ Hà Nội, chưa bao giờ có một vị lãnh tụ nào của chế độ được số lượng người dân tự nguyện tung hô bằng việc dân tự nguyện xuống đường chào đón, dù chỉ được thấy một thoáng các vị tổng thống Mỹ như ông Bill Clinton, ông Barack Obama di chuyển trên phố phường Việt Nam. Một lần nữa việc tự nguyện của người dân Hà Nội chào đón ông tổng thống thứ 45, tổng tư lệnh quân đội “đế quốc Mỹ” vào đêm 26 Tháng Hai, 2019 đã thành cao trào chưa từng thấy.

Gần nửa thế kỷ người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam sau Hiệp Định Paris năm 1973. Giờ đây hình ảnh người lính Mỹ thông qua các cận vệ và đoàn tùy tùng với trang bị vũ khí và các phương tiện khác, đã được người Hà Nội thông qua mạng xã hội bày tỏ cực kỳ yêu lính Mỹ, thích phái đoàn Mỹ.

Việc Tổng Thống Donal Trump và Tòa Bạch Ốc chọn Hà Nội cho cuộc gặp thượng đỉnh lần thứ 2 với nhà lãnh đạo Bắc Hàn là để thúc đẩy nhanh tiến trình đưa chế độ Hà Nội vào quỹ đạo của Hoa Kỳ trong bàn cờ Biển Đông và chiến lược toàn cầu đối phó với tham vọng bá quyền của Trung Cộng.

Nhưng đáng chú ý hơn, vào sáng 27 Tháng Hai, lúc cộng đồng mạng xã hội Việt Nam chú tâm theo dõi các clip hàng vạn người tưng bừng chào đón tổng thống Hoa Kỳ và đọc được dòng Twitter của Tổng Thống Donald Trump: “Tôi vừa mới đến Việt Nam. Xin cảm ơn tất cả mọi người vì sự đón tiếp tuyệt vời ở Hà Nội. Những đám đông rất lớn, và rất nhiều tình cảm!”

Cụm từ “đám đông rất lớn” hay có blogger dịch là “đám đông khủng khiếp” đã cho thấy một điều rõ mười mươi: Dù cuộc họp thượng đỉnh giữa Mỹ và Bắc Hàn kết quả ở mức độ nào chăng nữa cũng không sánh được sự chinh phục thành công lòng dân Hà Nội-Việt Nam với phái đoàn Mỹ.

Nếu nhớ lại, khi người lính Mỹ đầu tiên đặt chân đến Việt Nam, hình ảnh của họ được chế độ Cộng Sản tuyên truyền là “quân xâm lược.” Giờ đây cũng hình ảnh đó (dù trong nhiệm vụ khác) các quân nhân Mỹ đã thành biểu tượng chế độ tư bản siêu cường chính hiệu, đâu có gì khác khi nói đó là sự chinh phục hay nói xâm lược kiểu mới cũng được, bởi đích thị họ đến và mở ra “Giấc Mơ Mỹ” cho Hà Nội và cả miền Bắc đang khao khát lối sống Mỹ không gì có thể sánh được.

Hơn 58,000 quân nhân Mỹ hy sinh ở Việt Nam trong chiến tranh, hẳn anh linh họ và thân nhân gia đình họ giờ đây cũng được an yên vì lý tưởng Tự Do của họ đã chính phục Việt Nam theo phương cách khác nhưng mỹ mãn hơn.

Nhưng nếu cần mở rộng hơn thì có thể cho rằng hàng triệu thanh niên miền Bắc hy sinh trong cuộc chiến là vô ích, thì sự vô ích đó chỉ thật sự vô ích nếu hy sinh của họ chỉ để nuôi béo tầng lớp cán bộ Cộng Sản-lợt màu đang ăn không từ thứ gì của dân. Còn nếu sự hy sinh của họ là một phần quan trọng của động lực thúc đẩy dân tộc đến một nền chính trị dân chủ đa nguyên vì quyền con người đích thật thì anh linh họ vẫn an yên trong cõi vĩnh hằng.

Ai đó nói, với cuộc thế Việt Nam, Hoa Kỳ thua một trận chiến nhưng thắng cả cuộc chiến cũng không hề sai. Khi lòng dân Việt Nam nhiệt tình, thuận ý đón Mỹ, mơ ước giấc mơ Mỹ thì đâu cần thêm cuộc trưng cầu dân ý nào giữa việc chọn Mỹ hay Tàu.

Tiến trình tự diễn biến về phía Mỹ của chế độ hay nói cách khác tiến trình và kết quả chinh phục hiệu quả của Hoa Kỳ với người dân Việt Nam đang là một thực tế hiển hiện.

Với tầng thế hệ chóp bu của hệ thống cai trị chuyên chế hiện nay và cả những người của hệ thống chống Mỹ cực đoan nhất, sự ngoan cố của họ đang tự phân hóa diễn biến toàn diện.

Việc coi Mỹ là “đế quốc tư bản đầu sỏ” chỉ là thứ vỏ bên ngoài biểu diễn cho tròn vai tuồng đào kép chính trong kịch bản: bánh vẽ định hướng chuyên chế Xã Hội Chủ Nghĩa. (Trần Tiến Dũng)




NHÀ HOẠT ĐỘNG NGUYỄN HOÀNG QUỐC HÙNG MỚI RA TÙ ĐÃ BỊ CÔNG AN SÁCH NHIỄU (Người Việt Online)




Người Việt Online
February 28, 2019

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Sau khi mãn án 9 năm tù vì tranh đấu cho quyền lợi của công nhân, ông Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, thành viên và đồng sáng lập Phong Trào Lao Động Việt, trở về nhà tại phường Cầu Kho, quận 1, Sài Gòn, hôm 24 Tháng Hai. Kể từ thời điểm đó, gia đình ông liên tục bị công an đến sách nhiễu.

Ông Nguyễn Hoàng Quốc Hùng (giữa) và những người bạn. (Hình: Facebook Trần Vũ Anh Bình)

Ông Hùng, năm nay 38 tuổi, bị nhà cầm quyền CSVN kết án tù 9 năm khi cùng hai bạn khác, Đoàn Huy Chương và Đỗ Thị Minh Hạnh, “rải truyền đơn” kêu gọi công nhân công ty giày da Mỹ Phong ở Trà Vinh đình công hồi năm 2010. Trong vụ này, bà Đỗ Thị Minh Hạnh và ông Đoàn Huy Chương cùng bị 7 năm tù giam. Ông Hùng là người cuối cùng trong nhóm ba người nói trên ra khỏi nhà tù, trong lúc ông Chương sau khi mãn án tù hồi Tháng Hai, 2017, nay đang lẩn tránh ở nước ngoài chờ xin Cao Ủy Tị Nạn giúp đỡ cho đi định cư ở nước thứ ba.

Ngay trong hôm 24 Tháng Hai, trong lúc gia đình ông Hùng vừa dọn bữa cơm thân mật mừng ngày đoàn tụ với sự tham dự của một số bạn bè thân hữu, một nhóm an ninh viên mặc thường phục, sắc phục ập vào quay phim, chụp hình và cưỡng chế một vị khách về đồn.

Nhà hoạt động Đoàn Huy Chương cho biết trên trang cá nhân hôm 28 Tháng Hai rằng nhân lúc ông Hùng không có ở nhà, công an kéo đến lập biên bản “vi phạm hành chính” với lý do ông ra tù mà không lên trình diện chính quyền địa phương.

Được biết giấy ra tù của ông Hùng ghi: “Sau khi ra tù quá 15 ngày mà đương sự không trình diện thì có thể bị mất một số quyền lợi cá nhân.”

Trước đó, Luật Sư Lê Công Định kể trên trang cá nhân rằng hôm 25 Tháng Hai, ông đến nhà thăm ông Hùng và thấy “vòng vây của cảnh sát khu vực, công an phường và an ninh thành phố trước ngõ, trong ngõ và trước nhà.”

Cũng vì đến thăm ông Hùng hôm đó mà nhạc sĩ Trần Vũ Anh Bình, cựu tù nhân chính trị đang còn chịu án quản chế, bị Ủy Ban Nhân Dân phường 9, quận 3, gửi giấy triệu tập và ra quyết định xử phạt tội “Vi phạm lệnh quản chế” với số tiền 3 triệu đồng ($129).

Trong clip trả lời phỏng vấn trang Tin Mừng Cho Người Nghèo phát trên mạng xã hội hôm 26 Tháng Hai, ông Hùng nói: “Tôi thấy công nhân thấp cổ bé họng, không ai bênh vực, kể cả công đoàn nhà nước, nên tôi quyết định giúp họ với tất cả những gì tôi có thể làm được. Tôi nghĩ những gì mình làm đúng với lý lẽ và tập tục giúp người yếu thế của dân tộc Việt Nam. Tôi thấy bản án dành cho mình thật bất công, nhưng những gì tôi làm là đúng.”

Hiện chế độ Hà Nội đang bị sức ép quốc tế, đòi hỏi phải trả lại quyền tự do nghiệp đoàn cho giới công nhân tại Việt Nam. Đây là một trong những điều kiện mà CSVN phải thỏa thuận để tham gia Hiệp Ðịnh Đối Tác Toàn Diện và Tiến Bộ Xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership – CPTPP), tên khác: TPP11, tức là một hiệp định về nguyên tắc thương mại giữa 11 nước gồm Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. (T.K.)






CHIẾN LƯỢC ĐỐI PHÓ TRUNG QUỐC CỦA ÚC (Phạm Phú Khải)




28/02/2019

Các hoạt động gây ảnh hưởng đa dạng của Trung Quốc đã được cơ quan tình báo Úc ASIO theo dõi trong những năm qua, kể cả các đóng góp tài chánhhàng triệu đô la cho các chính đảng hay các viện nghiên cứu qua tỷ phú gốc Hoa như Huang Xiangmo hay Chau Chak Wing mà đã được trình bày trong các bài trước.

Tuy thế, các hoạt động này không được đề cập nhiều trên các phương tiện truyền thông hay cơ quan tình báo ASIO vào trước năm 2016. Nhưng sau đó đã đổi hẳn. Năm 2016 là năm đã đưa đến bao nhiêu thử thách to lớn cho nước Úc, qua cách hành xử ngày càng hung hăng của Trung Quốc tại Biển Đông, trong khi Hoa Kỳ, nhất là sau cuộc bầu cử cuối năm, đã làm cho Canberra cảm thấy hụt hẫng, mất chỗ dựa.

Bài viết này nhằm tìm hiểu chiến lược đối phó của Úc đối với các hoạt động tình báo và can thiệp nước ngoài của Trung Quốc, cũng như chính sách ngoại giao của Úc trước tình hình địa chính trị trong vùng và quốc tế.

Về tình báo và can thiệp nước ngoài, theo sự tìm hiểu qua các tài liệu, báo cáo và các tin tức trên các cơ quan truyền thông thì tôi nhận thấy ba điều đáng chú ý sau đây.

Ba điều đáng lưu ý

Một, các hoạt động tình báo và can thiệp nước ngoài trước năm 2016 chưa bị lộ diện nhiều và chưa đến mức báo động. Các bản báo cáo hàng năm của ASIO cho quốc hội Úc năm 2014-2015 và 2015-2016 cho biết ASIO đã và đang thu thập các dữ kiện về tình báo và can thiệp nước ngoài, nhưng các báo này không bày tỏ sự quan ngại sâu sắc hay đáng kể nào, và chưa nêu cụ thể các hoạt động đó là gì [1]. Nghĩa là vẫn như thường lệ. Nhưng bản báo cáo của ASIO vào năm 2016-2017 và nhất là năm 2017-2018 cho cùng vấn đề này khác toàn diện về tầm mức hoạt động [2]. Chỉ trong bản báo cáo năm 2016-2017, ASIO nhấn mạnh rằng họ đã “nhận diện các quyền lực nước ngoài kín đáo tìm cách uốn nắn quan điểm của các thành viên công cộng, các cơ quan truyền thông và các nhân viên chính phủ để tiến đạt các mục tiêu chính trị cho chính quốc gia của họ”. Các cộng đồng sắc tộc và tôn giáo tại Úc cũng là mục tiêu của các hoạt động ảnh hưởng bí mật này được thiết kế để giảm thiểu các chỉ trích của họ đối với các chính quyền nước ngoài. Như đã từng trình bày, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có lý do chính trị và mục tiêu chiến lược, ASIO không nêu đích danh thủ phạm chính của hoạt động trên là ai. Nhưng những ai quan tâm theo dõi thời sự đều biết là Trung Quốc.

Hai, giận mất khôn nên để lộ tông tích. Vì kín đáo hoạt động nên các cơ quan truyền thông Úc và cả ASIO cũng chỉ biết phần nào, nhưng chưa thật sự nắm rõ bức tranh tổng thể của các hoạt động gây ảnh hưởng này. Tình thế này thay đổi khi Phi Luật Tân thắng kiện về chủ quyền các hòn đảo trên Biển Đông tại Tòa Trọng tài Thường trực The Hague vào tháng Bảy năm 2016. Giận điên với kết quả này, lãnh đạo Trung Quốc đã một mặt kích động tinh thần quốc gia ở trong nước để phản đối, mặt khác nỗ lực vận động các quốc gia khác để đứng về phía Trung Quốc và bác bỏ kết quả vụ kiện này. Tại Úc, họ đã sử dụng các ảnh hưởng mà họ đã tốn công âm thầm xây dựng trong nhiều năm trước đó với cộng đồng Hoa kiều tại Úc, hay qua các Viện Khổng Tử và các viện nghiên cứu được tài trợ bởi những người như Huang Xiangmo hay Chau Chak Wing. Qua các thái độ này, họ đã để lộ bộ mặt của các cá nhân và tổ chức liên hệ kể từ đó, để rồi các cơ quan truyền thông, các nhà nghiên cứu học thuật và ASIO điều tra được dây mơ rễ má của nó đến tận Bắc Kinh. Nghĩa là từ giữa năm 2016 thái độ hung hăng của Trung Quốc tại Biển Đông cũng như tại Úc, qua các hoạt động bí mật lẫn công khai, chẳng khác gì “lậy ông tôi ở bụi này”.

Ba, trong nền dân chủ pháp quyền, quyền lực của cơ quan tình báo ASIO, chẳng hạn, tuy tưởng chừng rất lớn và rộng khắp, nhưng thật ra các hoạt động của họ, cũng như mọi cơ quan và ban ngành khác, cũng phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Các biện pháp điều tra và thu thập thông tin tình báo, tuy là đặc quyền của ASIO trước pháp luật, nhưng cách thức thực hiện cũng phải đúng theo quy định mà pháp luật cho phép, nếu không thì sẽ phạm pháp. Khi biết Trung Quốc, qua chân tay của họ tại Úc, đã tìm cách gây ảnh hưởng lên chính trường và dư luận Úc qua việc ủng hộ tài chánh một cách hào phóng, chẳng hạn, Duncan Lewis đã tìm cách gặp riêng thủ lãnh các chính đảng (Cấp tiến, Lao động và Quốc gia) để cảnh báo họ vào năm 2015 [3]. Nhưng ngoài việc theo dõi các hoạt động này và thu thập dữ liệu để báo cáo cho chính quyền, quốc hội và các chính đảng, mà ngay cả trong hoạt động này quyền hạn của ASIO cũng bị giới hạn, ông Lewis cho biết các bộ luật tình báo và can thiệp nước ngoài lúc đó (trước khi được sửa đổi) đã lỗi thời và thiếu sót, và ASIO thật sự bị bó tay bởi chính pháp luật.

Trong bài điều trần trước thượng viện Úc ngày 16 tháng Ba năm 2018, ông Lewis đã cho biết một số thí dụ mang tính độc hại, mặc dầu không nêu đích danh hay chi tiết cụ thể sự kiện [4]. Một, một học giả Úc đã được một tình báo nước ngoài tuyển dụng và đã đồng ý làm tình báo bằng cách ăn cắp các thông tin mật, và đây là trường hợp sống. Hai, một thương gia Úc đã ý thức rõ ràng rằng mình làm việc cho một tình báo nước ngoài và đã tuyển dụng một nhân viên chính quyền để cung cấp thông tin đặc nhiệm (tức chỉ có trong vai trò và trách nhiệm mới có được thông tin này). Ba, có một tình báo đã được cơ quan nước ngoài gửi đến Úc nhưng giả vờ ‘ngủ’ và vài thập niên sau mới được kích hoạt để tố cáo các nhà đối kháng và để ủng hộ các hoạt động kín tại Úc. Ngoài ra cũng có một trường hợp một công chức liên bang đã lấy đi một lượng lớn truyền thông điện tử và đã đồng ý giao chuyển thông tin cho một tình báo nước ngoài. Và cũng có một công dân Úc đã được đào tạo bởi cơ quan tình báo nước ngoài và đã dấu sự thật này trong đơn nộp khai tỏa an ninh với chính quyền Úc (Australian government security clearance application).

Theo ông Lewis thì đối với các trường hợp trên, luật hiện hành không cho phép truy tố, trong khi mỗi trường hợp này đều mang tính hoạt động kín đáo và trí trá để gây hại cho quyền lợi của Úc. Chúng đều tìm cách dấu diếm các hoạt động của mình và tránh bị phát hiện. Một số tìm cách ảnh hưởng bí mật lên tiến trình quyết định của Úc. Một số tìm cách chiếm ưu thế bất công cho các quyền lực nước ngoài bằng cách phá hoại hay tiết lộ các ý định và khả năng của Úc. Nhưng quan trọng nhất, một số đã đặt công dân và thường trú nhân của Úc vào tình thế trực tiếp bị nguy hại. Ông Lewis hỏi các cung cách hành xử như thế có nên được chấp nhận mà không bị truy tố? Theo suy nghĩ của ông thì không thể chấp nhận tình trạng này. Ông cho rằng nó có khả năng phá hoại chủ quyền, an ninh và thịnh vượng của Úc [5]. Ông biện luận rằng nếu (quốc hội) thêm vào các tội phạm hình sự có ý nghĩa, thực tế và hiện đại vào các bộ luật hiện hành, nó sẽ đóng góp vào họp đồ nghề để cơ quan tình báo Úc đối phó với sự đe dọa gia tăng đáng kể mà Úc đang đối diện hiện nay. Như thế nó sẽ giúp bảo vệ được quyền lợi quốc gia.

Chiến lược và phản chiến lược

Cũng cần nhắc lại hai mục tiêu chiến lược của Trung Quốc tại Úc vào lúc đó, một ngắn hạn và một dài hạn. Mục tiêu ngắn hạn là tìm sự hậu thuẫn hay ít nhất là không phản đối của Úc đối với sự khẳng định chủ quyền của Bắc Kinh trên Biển Đông, nhất là sau kết quả của tòa The Hague. Mục tiêu lâu dài là Bắc Kinh muốn lôi kéo Canberra gần hơn thay vì gần Washington như trước đây, để Canberra không chỉ là một đối tác quan trọng về kinh tế, mà các chính sách chiến lược nếu có khác Bắc Kinh thì cũng không có hại cho họ.

Tại sao vai trò Úc quan trọng đối với Bắc Kinh? Tuy dân số chỉ mới đến 25 triệu mới đây, nghĩa là Trung Quốc gấp 56 lần và Hoa Kỳ gấp 14 lần dân số Úc, ảnh hưởng về kinh tế, ngoại trợ (foreign aid), ngoại giao và các lĩnh vực giáo dục, hay nói chung là quyền lực mềm của Úc, là đáng kể trên tầm quốc tế. Tiến sĩ Anthony Bergin vừa mới viết bài trên tạp chí Viện Chính sách Chiến lược Úc (APSI) biện luận rằng đã đến lúc Úc không nên tiếp tục tự gọi mình là “quyền lực trung bình” (middle power) nữa, bởi theo ông ảnh hưởng của Úc đã vượt xa khả năng đó rồi [6]. Úc có quan hệ ngoại giao bền vững với bốn quốc gia nói tiếng Anh còn lại (Anh, Canada, Tân Tây Lan, Hoa Kỳ) và có mối quan hệ tích cực về ngoại giao, kinh tế/thương mại, an ninh, môi trường và các vấn đề về phát triển bền vững với cả khối Liên hiệp Âu châu. Do đó nếu Trung Quốc gây ảnh hưởng được Úc, kéo được Úc gần về phía mình, thì sẽ hoàn toàn có lợi cho thế cờ vây của họ, qua các dự án như Vành Đai Con Đường, Biển Đông cũng như Thái Bình - Ấn Độ Dương, trong đó có cả mục tiêu ảnh hưởng các nước nhỏ trong vùng Thái Bình Dương như Papua New Guinea/PNG.

Để thực hiện các mục tiêu này, Trung Quốc đã tìm hiểu kỹ lưỡng và qua đó lợi dụng các lổ hỏng về luật pháp của Úc, bao gồm luật tình báo và can thiệp nước ngoài, luật hình sự 1995, các lổ hỏng về ủng hộ và kê khai tài chánh cho các hoạt động của chính đảng v.v… Thêm vào đó, ngoài việc đầu tư vào các nguồn phương tiện chiến lược như điện, viễn thông, hải cảng v.v…, Trung Quốc đã tìm cách vận dụng hơn một triệu Hoa kiều tại Úc và các chính giới cũng như các chính trị gia từng giữ các vai trò quan trọng trong chính phủ, kể cả các cựu Thủ tướng và Bộ trưởng Úc, để giúp họ ảnh hưởng lên các chính sách Úc có lợi cho các mục tiêu chiến lược của họ.

Đứng trước các thử thách lớn lao này, cựu Thủ tướng Malcolm Turnbull đã cùng với nội các, đặc biệt là cựu Ngoại trưởng Julia Bishop, đã vạch ra các kế sách đối nội lẫn đối ngoại. Về đối ngoại, đó cũng là thời điểm bầu cử lại Tổng thống và quốc hội Hoa Kỳ cuối năm 2016, nên lãnh đạo Úc đã khôn ngoan vận dụng trí tuệ tập thể của mọi người, nhất là các chuyên gia và lãnh đạo ngoại giao để thực hiện Bạch thư Chính sách Ngoại giao Úc, có tầm nhìn năm đến mười năm để giúp lèo lái quốc gia trong bối cảnh chính trị mới.

Về đối nội, Úc phải đối diện với bao nhiêu vấn đề nhức nhối cần cải tổ. Một số chính trị gia và các cơ quan truyền thông Úc yêu cầu cải tổ luật về ủng hộ tài chánh cho chính trị và luật về tình báo và can thiệp nước ngoài. TNS Stephen Conroy, chẳng hạn, đã chính thức kêu gọi Thủ tướng Úc cải tổ luật ủng hộ tài chánh cho bầu/tuyển cử, vì Úc là một trong số hiếm các quốc gia chưa cấm cản các ủng hộ tài chánh từ các tác nhân nước ngoài. Khi các cơ quan truyền thông Úc điều tra rồi phanh phui bao nhiêu vụ nhận tiền ủng hộ bất chính, như trường hợp của cựu TNS Sam Dastyari, hay sử dụng công quỹ bất chính cho các hoạt động cá nhân, tính liêm chính mà đã từng được đề cao trước đó trở thành khôi hài và chế giễu. Sự phơi bày các hành động sai trái của một số dân biểu và thượng nghị sĩ của các chính đảng, tuy chỉ là thiểu số, cũng đủ để làm cho dân chúng Úc bất bình và phẫn nộ.

Khi các vấn đề này được phơi bày trên truyền thông Úc, được tranh luận trên các viện nghiên cứu chính sách, và nhất là tại quốc hội, mọi người dân được có cơ hội bày tỏ ý kiến và góp ý vào việc cải tổ luật pháp. Sau gần ba năm tham khảo ý kiến từ mọi quan điểm khác nhau, đón nhận các đệ trình và tranh luận sâu sắc, các bộ luật liên hệ trực tiếp đến tình báo và can thiệp nước ngoài, cũng như gián tiếp qua việc ủng hộ tài chánh, đã được quốc hội Úc thông qua. Một số điều trong luật Tu chính về luật Cải cách Công khai và Tài trợ Bầu cử đã có hiệu lực từ 1 tháng 12 năm 2018, và số khác từ 1 tháng Giêng năm nay 2019 [7]. Luật về Đề án Minh bạch Ảnh hưởng Nước ngoài (Foreign Influence Transparency Scheme Bill) và luật về Tình báo và Can thiệp Nước ngoài (Espionage and Foreign Interference Bill) đã được quốc hội Úc thông qua ngày 28 tháng Sáu năm 2018, và phần lớn các thay đổi này sẽ bắt đầu có hiệu lực vào ngày 10 tháng 12 năm 2018 [8].

Ba điều hay để học hỏi

Quan sát cách nhìn nhận, phân tích, tham khảo, tranh luận và truyền thông của xã hội Úc, từ các cơ quan truyền thông đến các viện nghiên cứu và sau cùng lưỡng viện quốc hội, tôi nhận thấy ba điều rất hay để học hỏi từ văn hóa chính trị Úc.

Thứ nhất, tuy sự trổi dậy của Trung Quốc là đáng quan ngại, qua các hành động công khai lẫn kín đáo của họ cũng như sự đối xử tồi tệ của họ với chính người dân của mình và các sắc tộc thiểu số, giới tinh hoa Úc đối phó với thách thức này một cách điềm tỉnh và khôn khéo. Thay vì nhìn các thách thức này từ Trung Quốc như mối đe dọa, phần lớn giới chuyên gia và lãnh đạo chính trị Úc xem là cơ hội để giải quyết tận gốc vấn đề. Trung Quốc là đối tác kinh tế quan trọng nhất của Úc. Gần 30 phần trăm nền kinh tế (xuất khẩu và nhập khẩu) phụ thuộc vào Trung Quốc, do đó chính quyền cần quản lý mối quan hệ ngoại giao này một cách tinh tế để không đổ vỡ, nát bấy. Cách tốt nhất để đối phó với tình báo và can thiệp nước ngoài, không chỉ riêng với Trung Quốc mà còn đối với các thế lực thù nghịch khác trong tương lai, là cải tổ pháp luật. Một nền dân chủ pháp quyền sẽ bất lực và vô hiệu quả nếu luật pháp có vấn đề, có lổ hỏng, ngay cả khi các cơ quan thi hành pháp luật có đầy đủ năng lực và kinh nghiệm. Tóm lại, mấu chốt lâu dài của vấn đề là tìm cách xiết chặt các lổ hỏng luật pháp và gia tăng phương tiện và biện pháp để ngăn ngừa, truy tố và xét xử những nghi phạm trong tương lai.

Thứ hai, để cải tổ luật hầu đáp ứng cho mục tiêu lâu dài nói trên, cách hiệu quả nhất là tham khảo rộng rãi mọi thành phần xã hội để có cái nhìn bao quát và sát thực. Trong các vấn đề phức tạp như thế này, các điều luật tu chính sẽ ảnh hưởng sâu rộng đến quyền tự do của người dân. Tương tự tiến trình đề ra các bộ luật mới hay cải tổ luật cũ cũng như các chính sách quan trọng của quốc gia cho phù hợp với hoàn cảnh và môi trường xã hội mới, như chính sách ngoại giao đã trình bày trên, chính quyền và giới tinh hoa của Úc đã mất rất nhiều thời gian để tham khảo rộng rãi mọi thành phần trong xã hội, nhất là những ai bị ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp, bởi các thay đổi này. Các ý kiến và xu hướng khác nhau là điều tự nhiên trong mọi xã hội. Chỉ quan trao đổi, thảo luận và tranh luận thì mới giải quyết được các sự khác biệt hoặc tìm các giải pháp đồng thuận chung.

Các cuộc điều trần, với ông Duncan Lewis và nhiều nhân vật chuyên môn hàng đầu, phục vụ cho các mục tiêu khác nhau: thu thập các quan điểm trái chiều; công khai, minh bạch các quan điểm này; bằng chứng, dữ liệu lưu trữ để mọi người dân và các thế hệ mai sau hiểu rõ tại sao các bộ luật cần tu chính và kết quả sau cùng của các tu chính đó là gì v.v… Các diễn đàn này là cơ hội để những ai quan tâm đến các vấn đề này có thể tham dự, tìm hiểu và đóng góp tiếng nói của mình một cách minh bạch.

Như đã trình bày trong bài trước, ông Duncan Lewis quan ngại rằng nếu giới ký giả/truyền thông được miễn nhiễm từ các bộ luật này, thì đó là lổ hỏng rất lớn để giới tình báo nước ngoài tìm cách khai thác. Tuy các quan điểm và lý luận ông Lewis đưa ra rất hữu lý và chính đáng, không phải ai cũng đồng ý và tán thành các nhìn vấn đề như thế. Chẳng hạn, các phóng viên chuyên về vấn đề quốc tế, đối ngoại thường phải tiếp cận với nhiều thông tin mà hư thực chưa được kiểm chứng, có khi đối tượng tiếp cận cũng có thể là tình báo mà không ai biết được, và những tin tức được tiết lộ có thể ảnh hưởng đến vấn đề an ninh quốc gia. Nghiệp vụ của họ vì thế có thể đưa họ vào tình thế hiểm nguy, nhất là khi các thế lực nước ngoài, vì lý do nào đó, muốn gài bẫy họ. Nếu không khéo và không rõ ràng, các điều luật tu chính này có thể gây cản trở cho nghiệp vụ của họ, và họ có nguy cơ bị truy tố, mặc dầu xác xuất xảy ra không cao. Nhưng khi đã có xác xuất nguy cơ như thế thì các tu chính luật cần phải cân nhắc kỹ càng hệ quả nó có thể đem đến để các phóng viên không bị phiền phức hay bị truy tố một cách tùy tiện, hay vì lý do chính trị, chẳng hạn.

Trên đây chỉ là một trong bao nhiêu các khía cạnh phức tạp của luật pháp được bàn cãi trong cuộc điều trần về các bộ luật này, chưa kể các khía cạnh khác chưa đụng đến, và không có thì giờ để phân tích thêm ở đây.

Điều này cho thấy khi làm luật và tu chính luật, những người có trách nhiệm cần phải suy nghĩ thật xa và thật sâu, về mọi tình huống có thể có, hiện nay cũng như một hai thập niên tới, chẳng hạn, cũng như các hệ quả và hậu quả mà những thay đổi này mang tới. Chỉ cần một nạn nhân, thí dụ như một phóng viên nào đó bị truy tố và kết án về sau này, mà sau khi ngồi tù một thời gian thì các dữ kiện mới xuất hiện bênh vực người đó vô tội, chẳng hạn, thì như thế bộ luật đã thất bại. Người làm luật cũng cần suy nghĩ thật kỹ bên hành pháp cũng như tư pháp sẽ diễn giải điều luật như thế nào, có giống như những ý định diễn giải của mình lúc ban đầu hay không. Nói đến đây, tôi tin rằng những người hiểu biết sẽ nhận thấy rằng các hiến pháp và pháp luật của các chế độ độc tài và cộng sản thường là quái gỡ, mâu thuẫn và vô lý. Lý do chính là vì cả ba ngành tư pháp, hành pháp, và lập pháp đều chỉ có giá trị tượng trưng. Mọi quyết định không phải do những người chính thức trong các ngành này mà là thành phần nắm thực quyền trong đảng (đối với cộng sản) hoặc chính quyền (đối với độc tài).

Trở lại vấn đề nêu trên, các tổ chức nhân quyền, xã hội dân sự, từ thiện và truyền thông phần lớn phản đối dự luật tu chính này vì nó giới hạn và trói buộc các việc làm chuyên môn và nghiệp vụ của họ. Bên đối lập Đảng Lao động lúc đầu cũng không ủng hộ bản đề nghị tu chính, nhưng sau một thời gian tranh cãi tại hạ viện lẫn thượng viện, và sau khi phía chính quyền chấp nhận sửa đổi hàng trăm điều để các điều luật này rõ ràng và giảm thiểu ảnh hưởng đến các quyền tự do và hoạt động xã hội, cuối cùng các tu chính cũng được thông qua. Các ký giả nói riêng truyền thông nói chung không hoàn toàn bị miễn nhiễm, nhưng các quyền tự do nghiệp vụ của họ không bị ảnh hưởng bao nhiêu bởi các tu chính này. Nếu họ có những thông tin phân loại/bảo mật (classified information) và phổ biến nó với lý do là vì “lợi ích công chúng” thì nó sẽ giúp cho họ phòng thủ, bảo vệ khi bị truy tố, chứ không phải là sự miễn trừ [9].

Theo thông báo của văn phòng Bộ Tư pháp thì kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2018, “bất cứ ai có những hoạt động nào đó thay mặt chánh nhân nước ngoài với mục đích ảnh hưởng đến tiến trình chính trị hoặc chính quyền sẽ được yêu cầu đăng ký theo đề án này”, và “các tác nhân nước ngoài sẽ tiếp tục được tự do để vận động cho quyền lợi của họ tại Úc, miễn là nó được thực hiện một cách hợp pháp, công khai và minh bạch” [10]. Nhưng 14 Viện Khổng Tử tại Úc và các công ty quốc doanh của Trung Quốc, ngay cả Huawei, từng phủ nhận là có liên hệ và nhận chỉ thị từ lãnh đạo Bắc Kinh, thì họ có cần ghi danh với chính quyền Úc hay không, thì không biết kết quả sẽ ra sao [11].

Thứ ba, là nỗ lực truyền đạt thông tin của giới truyền thông và chính quyền đến mọi thành phần xã hội về các thay đổi về luật và chính sách. Tất nhiên trong mọi xã hội đều có những người hoàn toàn không quan tâm đến các vấn đề chính trị hay cộng đồng. Con số này quá bán trong đa số xã hội. Điển hình như ở Hoa Kỳ số người tham gia bầu cử ít khi nào quá bán trong 100 năm qua. Cho nên dù thông tin tràn ngập trên các phương tiện truyền thông và trên mạng, họ cũng không màn tìm hiểu kỹ càng. Nhưng dù sao biết ít vẫn tốt hơn là không biết. Một nền dân chủ vững ổn cần những công dân hiểu biết các vấn đề phức tạp. Còn những người quan tâm, dù là thiểu số trong mọi xã hội, thì vẫn luôn tìm cách tiếp cận và nắm bắt mọi thông tin. Điều tích cực là các cơ quan truyền thông tại các nước dân chủ luôn nhận lãnh trách nhiệm hàng đầu trong việc đưa các thông tin hữu ích và liên hệ về mọi mặt đời sống đến người dân. Nhu cầu của người dân về thông tin, và trách nhiệm cung ứng của người làm truyền thông, là quan hệ cung cầu của một thị trường đúng nghĩa. Nhờ làm đúng các chức năng cần thiết của truyền thông, tức thông tin nhanh chóng, trung thực và độc lập, nên các khuynh loát hay âm mưu chính trị phần lớn được phơi bày đến người dân. Lộng quyền, hay lạm quyền, vì thế, khó qua mắt được công chúng.

Trong sự kiện trên, vì sự phức tạp của các điều/bộ luật này, do đó các thay đổi trên cần phải được giải thích tường tận đến mọi người dân một cách dễ hiểu. Luật pháp thường rắc rối và khó hiểu, với các ngôn từ chuyên môn và cách diễn giải vô cùng phức tạp, ngay cả đối với những người trong ngành. Do đó nên các cơ quan trách nhiệm, từ Ủy hội Bầu cử Úc AEC về các vấn đề ủng hộ tài chánh cho đến Bộ Tư pháp và ASIO, và tất nhiên từ Hansard nơi lưu trữ mọi điều được phát biểu hay tranh luận tại quốc hội, đều dễ dàng cho những ai muốn biết để tìm kiếm và tham khảo. Các cơ quan này thực hiện các bản thông tin ngắn gọi là Factsheet, dài từ hai đến bốn trang, làm rõ các thắc mắc thường có, hay giải thích các vấn đề phức tạp bằng ngôn ngữ giản dị, bình thường. Bộ Tư pháp Úc đã thực hiện 17 bản thông tin ngắn như thế về các điều luật liên quan đến tình báo và can thiệp nước ngoài để giúp người dân hiểu tường tận hơn các vấn đề này [12]. Ngoài ra, văn phòng của Bộ Tư pháp hay các cơ quan công quyền liên hệ đều sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc khác, nếu có, sau khi đọc các bản thông tin này.

Người dân cũng có thể gọi lên các cơ quan truyền thông để bày tỏ quan điểm hay thắc mắc của mình và nhờ các cơ quan truyền thông này liên lạc với những người trách nhiệm trong các cơ quan chính quyền nếu vẫn còn thắc mắc, chẳng hạn. Nói chung những ai muốn tìm hiểu thì sẽ có vô vàn phương thức và phương tiện để thực hiện điều này.

Ai nên học?

Vào đầu tháng 6 năm 2017, cựu Giám đốc Tình báo Quốc gia của Hoa Kỳ James Clapper đã đến viếng thăm Úc, không biết vì tình cờ, trùng hợp hay sắp sẵn. Bởi trước đó một tuần cuộc điều tra của các phóng viên ABC và Fairfax đã làm chấn động nước Úc, như đã trình bày trong các bài trước. Ông Clapper đã cảnh báo Úc là Hoa Kỳ, lẫn Úc, cần phải cảnh giác đối với Trung Quốc [13]. Tương tự, các lãnh đạo chính trị và tình báo Hoa Kỳ, điển hình như bà Hillary Clinton khi viếng thăm Úc, cũng đã cảnh giác mức độ can thiệp nước ngoài từ Trung Quốc [14].

Nhờ sự trao đổi thông tin, tình báo cũng như lắng nghe tiếng nói của mọi quan điểm khác biệt và trái chiều như thế nên giới tinh hoa và lãnh đạo chính trị Úc đã vận dụng được trí tuệ tập thể và tìm ra được các biện pháp tối ưu để đối phó với các thử thách lớn lao, đối nội cũng như đối ngoại, trong thời đại mà tốc độ thay đổi quá nhanh và nồng độ thay đổi quá lớn. Phương thức vận hành và lãnh đạo quốc gia của Úc, tuy là trên danh nghĩa cá nhân cũng như đảng phái, nhưng thực chất là tập thể đúng nghĩa. Nước Úc hùng mạnh một phần vì Úc là một xã hội đa văn hóa trong đó các công dân biết đặt quyền lợi chung của đất nước lên trên cá nhân, bè phái, đảng phái và chủng tộc, nhưng cũng nhờ vai trò quan yếu của truyền thông để mọi vấn đề được minh bạch hơn.

Úc đã rất thành công trong nền văn hóa chính trị này. John Promfet thuộc báo The Washington Post cho rằng Hoa Kỳ có nhiều điều cần phải học hỏi từ Úc trong việc đối phó với Trung Quốc. Nhưng thành phần nên học hỏi nhiều nhất từ Úc có lẽ là lãnh đạo chính trị tại Việt Nam hiện nay, hay các chính quyền dân chủ sau này, vì ba lý do chính. Một, Trung Quốc không đi đâu cả, sẽ luôn luôn là mối đe dọa truyền kiếp của Việt Nam, cho đến khi nước này trở thành dân chủ thật sự thì mối đe dọa chỉ bớt đi, chứ không biến mất. Trung Quốc còn vươn tới được Úc huống chi Việt Nam bên cạnh. Hai, vì tình thế này nên chỉ có sức mạnh của toàn thể dân tộc, từ giới tinh hoa trí thức cho đến dân thường, mới có hy vọng đối phó hiệu quả với âm mưu thâm độc của Trung Quốc hiện nay. Rõ ràng một hay vài cái đầu không thể nào nhìn thấy được bao nhiêu vấn đề phức tạp và chuyên môn khác được. Người lãnh đạo giỏi phải ghi nhận điều này và tìm cách vận dụng nguồn lực dân tộc cho mục tiêu chung của quốc gia. Ba, muốn làm được như thế, thì phải có tự do, phải dân chủ hóa chính trị và toàn xã hội. Chỉ khi nào giới tinh hoa, trí thức, học giả, chuyên gia, nói riêng, và mọi người dân, nói chung, được thảo luận một cách tự do, được các cơ quan truyền thông điều tra và cung cấp các dữ kiện mà ngay cả chính quyền cũng bị giới hạn về khả năng, thì sự việc mới rõ ràng và sáng tỏ hơn. Sự thật luôn có nhiều khía cạnh và đa dạng, và không hề có sự thật một chiều. Còn độc quyền sự thật và bịt mắt bịt tai và bịt miệng dân chúng thì chỉ chứng minh não trạng của lãnh đạo hoàn toàn cứng ngắt, khép kín. Họ chỉ nhìn người dân, nhất là những nhà đối kháng và vận động dân chủ, như là mối đe dọa thay vì sức mạnh.
Trong tư thế lãnh đạo như thế, họ chỉ tự cô lập trong khi sức ép trong lẫn ngoài ngày càng gia tăng. Và bài học lịch sử sẽ tái diễn cho những ai không chịu học, hay học không tới, hay quá đam mê quyền lực.

(Úc Châu, 27/02/2019)

-----------------------------

Tài liệu tham khảo:

1. Duncan Lewis, ASIO Annual Report (to Parliament) 2014 - 2015, 24 September 2015; Duncan Lewis, ASIO Annual Report (to Parliament) 2015 - 2016, 27 September 2016.

2. Duncan Lewis, ASIO Annual Report (to Parliament) 2016 - 2017, 27 September 2016. Duncan Lewis, ASIO Annual Report (to Parliament) 2017 - 2018, 27 September 2016.

3. Chris Uhlmann, “Domestic spy chief sounded alarm about donor links with China last year”, ABC News, 1 September 2016.

4. Parliamentary Hearing, “PJCIS inquiry on the National Security Legislation Amendment (Espionage and Foreign Interference) Bill 2017”, Official Committee Hansard, PARLIAMENTARY JOINT COMMITTEE ON INTELLIGENCE AND SECURITY, 16 March 2018.

5. Bevan Shields, “ASIO chief Duncan Lewis sounds fresh alarm over foreign interference threat”, The Sydney Morning Herald, 24 May 2018.

6. Anthony Bergin, “Time for Australia to stop calling itself a 'middle power'”, Australian Strategic Policy Institute, 8 January 2019.

7. Australian Electoral Commission, “Funding, Disclosure and Political Parties”, Accessed on 23 February 2019.

8. Gareth Hutchens, “Sweeping foreign interference and spying laws pass Senate”, The Guardian, 29 June 2018.


10. Media Release, “Foreign Influence Transparency Scheme to commence December 10”, Attorney-General for Australia, 23 November 2018.

11. Kelsey Munro, “Australia’s new foreign-influence laws: Who is targeted?”, The Interpreter, Lowy Institute, 5 December 2018.

12. Resources, “Foreign Influence Transparency Scheme”, Attorney-General for Australia, Accessed on 24 February 2019.

13. John Pomfret, “China’s meddling in Australia — and what the U.S. should learn from it”, The Washington Post, 14 June 2017.

14. Leigh Sales, “Hillary Clinton warns of Chinese influence on Australian politics”, ABC News, 14 May 2018.






VN CỘNG SẢN & GIẤC MƠ 'CƯỜNG QUỐC HẠNG TRUNG' (An Viên - VNTB)




An Viên  -  VNTB
1/3/2019

VNTB - TS. Lê Hồng Hiệp, Viện nghiên cứu Đông Nam Á (Singapore), người có nhiều thâm niên trong nghiên cứu chính trị và sự biến chuyển chính trị của Việt Nam gần đây cho biết, ‘đã đến lúc Việt Nam định vị mình là cường quốc hạng trung’ [1]. Tiêu chí để trở thành cường quốc hạng trung, theo TS. Lê Hồng Hiệp là bao gồm sức mạnh cứng (về diện tích, dân số, quy mô nền kính tế, sức mạnh quân sự) và chức năng – hành vi (ngoại giao chuyên biệt và vai trò được công nhận trên trường quốc tế).

*
Nếu xét trên bình diện phần đông của tiêu chí, thì Việt Nam đã có thể đáp ứng được, nhưng tiêu chí mang tính chủ chốt (kinh tế, ngoại giao chuyên biệt) thì vẫn còn một khoảng cách khá dài.

Việt Nam có thể ‘thịnh vượng’ về mặt kinh tế, tất nhiên – như một vài nơi nào đó trên trái đất theo lời của Tổng thống Mỹ Donald Trump tweet. Tuy nhiên, điều đó sẽ khó xảy ra, nếu bản thân đất nước không được dân chủ hóa. 

Một nhận định đáng lưu ý từ David Dollar khi nhận định về thế mạnh và tiềm năng của mô hình Việt Nam nhân sự kiện Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều lần này [2]. Theo vị cán sự Ngân hàng thế giới này, từ ĐH Đổi Mới (1986), Việt Nam mở được 3 cánh cửa quan trọng, một là sáng kiến tư nhân (xóa bỏ lối làm ăn kiểu tập thể, bao cấp); hai là tự do hóa thương mại và đầu tư nước ngoài; ba là ổn định tài chính (trong đó nổi bật là di chuyển hàng triệu nhân công ra khỏi khu vực công, cải cách tỷ giá hối đoái). 

Những cải cách này là tối quan trọng trong việc hỗ trợ Hà Nội thoát khỏi ‘khủng hoảng kinh tế - xã hội’ từ sau chiến tranh và trở thành một nước có xu hướng phát triển mạnh trong khu vực Đông Nam Á như hiện nay. Tuy nhiên, ‘mô hình Việt Nam’ là không hoàn hảo, bởi Việt Nam vẫn chưa đạt được các yếu tố để được công nhận là nền thị trường đầy đủ, và quả thật – Mỹ và EU vẫn chưa công nhận điều này với Việt Nam.

Việt Nam trong Đại hội VI cải cách kinh tế với mong muốn thả lỏng guồng máy kiểm soát của Chính phủ trong các hoạt động giao thương và xã hội, và điều này khiến Hà Nội tin rằng, họ có thể tiếp tục vững mạnh và thịnh vượng nhưng không làm tiêu hao quyền lực cai trị của ĐCSVN. Việc Tổng bí thư ĐCSVN (nay kiêm thêm chức vụ Chủ tịch nước CHXHCNVN) Nguyễn Phú Trọng ra mắt cuốn sách với nhan đề ‘Đảng vững mạnh, đất nước phát triển, dân tộc trường tồn’ cũng là sự phản ánh bản chất ĐCSVN đang mong muốn duy trì. 

Trở lại với bài viết của David Dollar, ông cho rằng, Việt Nam mở cánh cửa kinh tế nhưng vẫn độc tài, vì họ nhìn thấy sự thành công từ Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Hoa. Tuy nhiên, sự thịnh vương mang tính bền vững từ Đài Loan và Hàn Quốc lại đến từ 25 năm cải cách và dân chủ hóa. Đối với Trung Quốc, đó là sự hỗ trợ từ phía Mỹ để cô lập Liên Xô, và sự siết chặt chính trị cũng khiến cho những tổn thương của nền kinh tế của Bắc Kinh ngày càng lộ rõ, nhất là trong cuộc chiến thương mại vùa qua với Mỹ.

Việt Nam không có khuynh hướng tự do thương mại, thì sẽ không thể đạt mức thu nhập cao. Không có dân chủ hóa, thì sẽ không có thịnh vượng.

Quan điểm Bắc Triều Tiên không phải là Việt Nam đã trỗi dậy gần đây trước những kỳ vọng của Tổng thống Donald Trump khi đưa ra ví dụ về một Việt Nam đang phát triển khi hòa hảo với Mỹ, và ví dụ này được gửi đến nhà lãnh đạo trẻ Triều Tiên. Nhưng có quá nhiều sự khác nhau, khiến cho giới nhà báo, thậm chí chuyên gia nhận định việc Bắc Triều Tiên theo con đường Việt Nam là không thể, trừ phi cởi bỏ hoàn toàn quyền lực.

Nhưng với người viết, ở một góc nhìn nào đó, thành tựu kinh tế và những yếu tố cải cách của Việt Nam từ ĐH VI (1986) sẽ sớm suy tàn khi mà bản thân Hà Nội không tiếp tục mở cánh cửa chính trị còn lại. Bởi Việt Nam vẫn là một nhà nước cộng sản, dù cho lớp áo có thay đổi bao nhiêu màu sắc đi chăng nữa. 

Một bài viết đăng gần đây trên Việt Nam Thời Báo đã cho thấy, người đứng đầu Đảng và Nhà nước Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng chống tham nhũng nhưng đồng thời siết chặt tự do chính trị. Kỷ luật ông Chu Hảo hay một tác động nhất thời nào đó khiến Quỹ Phan Châu Trinh bị đóng cửa là một trong những ‘quy trình’ mà Hà Nội mong muốn: bớt bất đồng và cải tạo đảng từ chính kỷ luật đảng. Ông Trọng với vai vế chính trị mình đã thiết lập một niềm tin số một về việc, siết chặt kỷ luật đảng có thể giúp cho nền kinh tế Việt Nam phát triển hơn, thay vì mở cửa dân chủ chính trị khiến quyền lực ĐCSVN giảm đi, hay thậm chí đánh mất Điều 4 Hiến pháp (2013).

Và khi Hội nghị thượng đỉnh xảy ra, thì Hà Nội tiếp tục cho lực lượng an ninh bắt giữ những người bất đồng chính kiến, chỉ bởi họ bày tỏ sự không thích thú với chủ trương của ĐCSVN, nhà nước Việt Nam trên mạng xã hội (Facebook).  

Câu chuyện siết chặt quyền tự do dân sự - chính trị sẽ tiếp tục kéo dài trong 10 năm tiếp theo, kể từ thời điểm năm 2021, bởi những thế hệ thân cận và kế thừa tinh thần của ông Nguyễn Phú Trọng. Nhưng 10 năm kế tiếp đó (2021 – 2031) cũng sẽ là một quãng thời gian cần thiết để chứng minh cho chính Hà Nội biết rằng, sự không tự do chính trị sẽ giết chết những thành tựu kinh tế mà Việt Nam đã đạt được  và hủy đi kỳ vọng về một nền kinh tế thịnh vượng chỉ dựa trên sự độc tài. Và ‘cường quốc hạng trung’ cũng sẽ chẳng thể xuất hiện vì những lý do nêu trên.









VIỆT NAM CẦN CHÍNH TRỊ GIA PHƯƠNG TÂY, CHỨ KHÔNG CẦN CHÍNH TRỊ PHƯƠNG TÂY (Bill Hayton | Foreign Policy)




Diên Vỹ dịch
1/3/2019

VNTB - Khi Hà Nội chào đón Trump, họ đóng cửa một trung tâm nghiên cứu cải cách quan trọng.

Khi ông màu cam gặp ông tên lửa trong tuần này, địa điểm tổ chức cũng đang thu hút sự chú ý. Việt Nam, chủ nhà của cuộc gặp gỡ lần thứ hai giữa Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump và nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un, đang được đưa ra làm hình mẫu để Triều Tiên noi theo. Thông điệp là: nắm lấy thị trường tự do, kết bạn với Hoa Kỳ, thì đầu tư và tăng trưởng kinh tế sẽ đổ vào. Nhưng Việt Nam hiện đang nhắc nhở thế giới rằng về cơ bản họ vẫn là một nhà nước cộng sản.

Một quỹ học thuật hàng đầu đã buộc phải đóng cửa dường như đó là một bước lùi khác cho tự do học thuật trong nước. Đây là hồi mới nhất của cuộc tranh cãi bắt nguồn từ chiến dịch chống lại việc dịch sách của các nhà lý luận chính trị phương Tây. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền dường như đã tăng cường chiến dịch chống lại các ý tưởng trái với quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước nhiều gấp đôi.

Vào ngày 20 tháng 2, chủ tịch tổ chức có tư tưởng độc lập hàng đầu Việt Nam, Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh (VH PCT) đã ban hành một lá thư công khai tuyên bố quỹ đóng cửa “do hoàn cảnh khách quan”. Các hoàn cảnh khách quan này chưa được làm rõ nhưng có dấu hiệu là từ áp lực bên trên. Một số nhân vật quan trọng của quỹ gần đây đã liên quan đến một tranh chấp công khai với lãnh đạo Đảng Cộng sản.

Việc đóng quỹ VHPCT dường như là giai đoạn mới nhất trong một chiến dịch tái lập chính trị chính thống sau một thập kỷ nới lỏng sự kiểm soát của Tổng bí thư Đảng Cộng sản, Nguyễn Phú Trọng. Tháng 10 năm 2018, ông Trọng kiêm luôn chức chủ tịch nước, hiện tượng chưa từng xảy ở Việt Nam trong nửa thế kỷ qua. Theo sáng kiến tương tự ở Trung Quốc, Trọng và những người ủng hộ đã sử dụng một chiến dịch chống tham nhũng được cho là nhằm loại bỏ các đối thủ chính trị và tái khẳng định quyền lực của đảng.

Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh được thành lập năm 2007 nhằm khuyến khích trao đổi ý tưởng giữa Việt Nam và thế giới. Quỹ được đặt theo tên của một trí thức đầu thế kỷ 20, người đã thành lập một trường học miễn phí để đưa những ý tưởng canh tân đất nước và rũ bỏ chủ nghĩa thực dân Pháp. Chủ tịch của quỹ là cháu gái của ông Phan Châu Trinh, bà Nguyễn Thị Bình, một anh hùng cách mạng và là cựu chủ tịch nước. Bà Bình hiện đã hơn 90 tuổi và đang tìm cách từ chức.

Theo bà Vi Trần, tổng biên tập báo mạng bất đồng chính kiến The Vietnamese, quỹ VH PCT đã không thể đồng ý về việc thay thế nhân sự với chính quyền Cộng sản. Theo luật, tất cả các tổ chức ở Việt Nam, từ câu lạc bộ thể thao địa phương đến nhà thờ, phải đăng ký với một tổ chức giám sát của chính phủ hoặc Đảng Cộng sản. Quỹ VH PCT chịu sự giám sát của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Việt Nam, do đó, dưới quyền Bộ Khoa học và Công nghệ. Hiệp hội khoa học đã từng bảo trợ nhiều tổ chức. Tuy nhiên, trong trường hợp này, quyền lực của họ dường như không đủ mạnh để chống lại mệnh lệnh từ trên cao.

Đằng sau Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh là một nhà văn nổi tiếng, Nguyên Ngọc. Tháng 10 năm 2018, trong một động thái hiếm hoi và đáng ngạc nhiên, Nguyên Ngọc tuyên bố từ bỏ Đảng Cộng sản vì cách đối xử với một trí thức hàng đầu khác là Chu Hảo. Chu Hảo cũng ra khỏi đảng sau khi bị kỷ luật vì cho phép Nhà xuất bản Tri thức của ông phát hành sách của John Stuart Mill, John Locke, Alexis de Tocqueville và Friedrich Hayek mà đảng cho là “sai trái về chính trị và ý thức hệ”.

Cũng theo Vi Trần, Nguyên Ngọc và Chu Hảo là hai ứng cử viên hàng đầu để thay thế Bình làm Chủ tịch Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh. Tuy nhiên, “với những gì đã xảy ra vào năm ngoái, liên quan đến việc họ từ bỏ đảng, chính phủ gần như không thể cho một trong hai người này trở thành lãnh đạo mới của quỹ nên đã dẫn đến việc đóng cửa quỹ PCH”. Dù ông Nguyên Ngọc va Chu Hảo cũng là đảng viên. nhưng họ cũng chỉ trích nhiều chính sách của đảng. Vào tháng 12 năm 2012, họ cùng với hàng trăm người khác đã ký kết “ Bản kêu gọi Nhân quyền”, Yêu cầu Quốc hội bãi bỏ Điều 88 của Bộ luật Hình sự phạt tội “tuyên truyền chống phá Nhà nước” và bãi bỏ một nghị định của chính phủ nhằm ngăn chặn biểu tình. Họ cũng là những nhà chỉ trích nổi bật về hành vi của Trung Quốc đối với Việt Nam, đặc biệt là ở Biển Đông.

Năm 2008, quỹ VH PCT đã đặt ra các giải thưởng hàng năm để tôn vinh các học giả có đóng góp xuất sắc cho nền giáo dục Việt Nam. Có thể là do sự lựa chọn người để tôn vinh cũng góp phần làm cho quỹ bị đóng cửa. Trong số đó có một trong những nhân vật hàng đầu về nghiên cứu Việt Nam tại Đại học Cornell Hoa Kỳ, Keith Taylor, mà sách năm 2013 của ông, cuốn Lịch sử người Việt Nam đã sửa đổi rất nhiều vấn đề dân tuý trong lịch sử đất nước.

Quan trọng nhất, Taylor cũng đã tổ chức các sự kiện kiểm chứng lịch sử Chiến tranh Việt Nam từ góc nhìn của miền Nam Việt Nam. Theo Hue-Tam Ho Tai, giáo sư danh dự ngành Việt Nam học của Đại học Harvard, điều đó “đã làm phiền rất nhiều nhà lãnh đạo Hà Nội”. Quỹ VH PCT đã cố gắng trao giải thưởng cho Taylor vào năm 2014 nhưng đã bị đảng ngăn chặn. Họ đã trao lại vào năm 2015 và bỏ qua việc phản đối. Tuy nhiên, tờ nhật báo Nhân Dân của Đảng Cộng sản đã buộc tội công trình của ông Taylor bốn ngày liên tiếp sau đó.

Cả chính phủ Việt Nam lẫn Đảng Cộng sản đều không có ý kiến gì về lý do quỹ VH PCT đóng cửa. Các nhà vận động dân chủ sẽ nói rằng đảng đã cố tình bịt miệng một tổ chức ủng hộ cải cách chính trị. Có người sẽ nghi ngờ rằng việc đóng cửa này là do Bắc Kinh yêu cầu trực tiếp nhằm bịt miệng những người bài Trung Quốc trong nước.

Tất cả điều này có thể làm cho Kim Jong Un an tâm. Như Việt Nam chứng tỏ, họ hoàn toàn có thể có tăng trưởng kinh tế 6%, bùng nổ đầu tư nước ngoài, duy trì chế độ độc đảng, và một buộc phe đối lập im lặng. Sau rốt có lẽ Hà Nội có cái để Bình Nhưỡng học hỏi.

---------------

Nguồn:  
As Hanoi welcomes Trump, it shuts down a key reformist think tank.
BY BILL HAYTON   |   Foreign Policy   FEBRUARY 27, 2019, 7:07 AM






View My Stats