Cao Tuấn
06/12/2018
https://thongluan-rdp.org/di-n-dan/item/10444-di-tim-n-s-chinh-tr-trong-ti-u-thuy-t-vo-hi-p-kim-dung
Về
một người Việt Nam đi tìm ẩn số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung
Người Việt Nam nói ở đây là ông Nguyễn Ngọc Huy, tác giả quyển sách "Các ẩn số chánh trị trong
tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung" xuất hiện ở hải ngoại vào khoảng
1985-1986, nhưng tác phẩm này không được biết đến nhiều như các tác phẩm
"chính thống" khác của ông. Tuy vậy, theo thiển ý, đó là một tác phẩm
đứng đắn, độc đáo, đáng đọc và đáng suy nghĩ.
Nếu ông Huy chứng minh nhà văn Kim Dung, người Trung
Hoa, có những hậu ý chính trị khi viết các bộ tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng thì
có thể chính ông Huy, một nhà chính trị Việt Nam cũng có những thông điệp chính
trị riêng khi bỏ thì giờ viết sách về Kim Dung.
Nhưng trước hết ông Nguyễn Ngọc Huy là người thế nào
?
Luật sư Vương Văn Bắc (trái), Giáo sư Nguyễn Ngọc
Huy (giữa) và Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ trong một buổi hội thảo tại Sài Gòn
(1965-1969)
Văn là
người
Ông Nguyễn Ngọc Huy (1924-1990) được biết đến đầu
tiên là một người làm thơ. Ông làm thơ rất sớm, hầu hết các bài thơ đều được viết
vào tuổi sấp sỉ 20.
Thơ của ông, với bút hiệu Đằng Phương, nhất quán có
một nội dung đặc biệt :
Tôi chẳng phải là một nhà thi sĩ
Lấy văn thơ làm Lẽ Sống trên đời
Đem ngọc Châu trau chuốt mãi lên lời
Để trang điểm nàng Ly Tao diễm lệ
...
Tôi chỉ là một người dân đất Việt
Cảm nỗi buồn của kẻ mất quê hương
Nỗi nhục nhằn nỗi khổ cực đau thương
Của nòi giống kẹt trong cùm lệ thuộc
...
Tôi đánh bạo lấy vần thơ bỡ ngỡ
Để diễn trình quan niệm đấu tranh chung
Để phô bầy những nguyện ước chờ mong
Những triển vọng về tương lai giống Việt
...
Tôi mượn thơ để gây lòng phấn khởi
Cho chính mình trong những lúc gian lao
Trong những khi thất bại, những khi nào
Chân yếu đuối muốn rời đường chiến đấu
(Thay lời tựa, tập thơ Hồn Việt xuất
bản lần đầu vào năm 1950)
Thơ Đằng Phương nên được xếp vào loại "Anh hùng
ca" - nói về dân tộc, lịch sử, lòng yêu nước, yêu quê hương, ngợi ca những
người tranh đấu vì nước quên thân :
...
Hỡi những ai kia đã lụy mình
Đã vì non nước chịu hy sinh
Đã vì chủng tộc khai đường sống :
Đây nén hương lòng kẻ hậu sinh !
(Nén hương lòng)
Diễn tả cảnh hy sinh bi tráng của họ như trường hợp
Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng tuẫn tiết trên đoạn đầu
đài :
...
Sau cái nhìn chào non nước bi ai
Họ thản nhiên, lần lượt bước lên đài
Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng :
Việt Nam Muôn Năm ! Một đầu rơi rụng
Việt Nam Muôn Năm ! Người kế tiến lên
Và Tử Thần kính cẩn đứng ghi tên
Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc.
(Ngày tang Yên Báy)
Ý nghĩ của nhà thơ trong sáng, giản dị :
...
Trên đường lối đấu tranh cho lẽ sống,
Bóng anh hùng nòi giống nếu không quên
Thì giang sơn vạn cổ vẫn lâu bền
Và Lịch Sử vẫn luôn bừng nhuệ khí
(Anh hùng Đất Việt)
Nếu bài hát "Tình Ca" của Phạm Duy :
Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi !
Mẹ hiền ru những câu xa vời... Ạ ạ ơi...
Tiếng ru muôn đời... Tiếng nước tôi...
Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui...
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi !...
đã khiến người Việt Nam suốt mấy thế hệ không nguôi
thương nhớ quê hương thì bài thơ "Anh hùng vô danh" của Đằng Phương
cũng có ảnh hưởng không kém kể từ thập niên 1950 cho đến ngày nay. Lời tâm can
vang vọng rất tự nhiên :
...
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Họ là kẻ khi quê hương chuyển động
Dưới gót giầy của những kẻ xâm lăng
Đã xông vào khói lửa quyết liều thân
Để bảo vệ Tự Do cho Tổ Quốc
Trong chiến đấu không nài muôn khó nhọc
Cười hiểm nguy, bất chấp nỗi gian nan,
Người thất cơ đành thịt nát, xương tan
Nhưng kẻ sống lòng son không biến chuyển.
Và đến lúc nước nhà vui thoát hiểm
Quyết khước từ lợi lộc với vinh hoa
Họ buông gươm trở lại chốn quê nhà
Để sống lại cuộc đời trong bóng tối
Họ là kẻ anh hùng không tên tuổi
Trong loạn ly như giữa lúc thanh bình
Bền một lòng dũng cảm, chí hy sinh
Dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch
Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật
Nhưng máu họ đã len vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và anh hồn chung với tấm tinh trung
Đã hòa hợp làm linh hồn giống Việt.
Sau tuổi hoa niên, ông Nguyễn Ngọc Huy không còn làm
thơ nữa hoặc làm rất ít, nhưng cuộc đời còn lại cho đến khi chết ông sống đúng
như thơ, từ suy nghĩ đến hành động, luôn hướng về mục đích phụng sự Tổ Quốc.
Có lẽ không cần nhắc quá nhiều đến sự kiện ông Huy là người trí thức đậu cử nhân luật khoa và tiến sĩ chính trị học ở Paris trong trong thời gian sống lưu vong ở Pháp và trở về miền Nam Việt Nam làm giáo sư dạy về Luật Hiến pháp, Học thuyết Chính trị, Bang giao Quốc tế tại các trường đại học Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ trong khoảng thời gian 1964-1975. Trong những năm tháng chiến tranh nhiễu nhương ấy, ông Huy nổi tiếng là một nhà giáo dậy giỏi, một lý thuyết gia uyên bác và một lãnh tụ chính trị quốc gia tận tụy nhưng cẩn thận, ôn hòa. Trong suốt cuộc đời ông Huy cũng viết nhiều sách báo giá trị bằng cả 4 ngôn ngữ Việt, Pháp, Anh, Hán.
Có lẽ không cần nhắc quá nhiều đến sự kiện ông Huy là người trí thức đậu cử nhân luật khoa và tiến sĩ chính trị học ở Paris trong trong thời gian sống lưu vong ở Pháp và trở về miền Nam Việt Nam làm giáo sư dạy về Luật Hiến pháp, Học thuyết Chính trị, Bang giao Quốc tế tại các trường đại học Sài Gòn, Huế, Đà Lạt, Cần Thơ trong khoảng thời gian 1964-1975. Trong những năm tháng chiến tranh nhiễu nhương ấy, ông Huy nổi tiếng là một nhà giáo dậy giỏi, một lý thuyết gia uyên bác và một lãnh tụ chính trị quốc gia tận tụy nhưng cẩn thận, ôn hòa. Trong suốt cuộc đời ông Huy cũng viết nhiều sách báo giá trị bằng cả 4 ngôn ngữ Việt, Pháp, Anh, Hán.
Tuy được xem là một lãnh tụ chính trị quan trọng của
người Việt quốc gia ở miền Nam Việt Nam nhưng ông Nguyễn Ngọc Huy chưa bao giờ ở
vị trí quyền lực để thực thi lý tưởng xây dựng một quốc gia dân chủ pháp trị
lương hảo, tạo nội lực đủ sức chống lại chủ nghĩa cộng sản độc tài toàn trị.
Lần duy nhất ông đến gần guồng máy quyền lực là khi
người đồng chí "như hình với bóng" của ông là ông Nguyễn Văn Bông,
giáo sư đại học, thạc sĩ công pháp, chủ tịch Phong trào Quốc gia Cấp tiến mà
ông làm Tổng thư ký, chuẩn bị ra làm Thủ tướng vào năm 1971 theo lời mời bất đắc
dĩ của ông tổng thống "quân phiệt" Nguyễn Văn Thiệu.
Tuy nhiên Đảng cộng sản Việt Nam, trông thấy trước
được mối nguy hiểm, đã mau chóng ra lệnh cho đặc công ở Sài Gòn ám sát ông Nguyễn
Văn Bông như họ đã từng ám sát những địch thủ tài năng, đức độ và quan trọng
khác của người Việt quốc gia là các ông Trương Tử Anh, Lý Đông A, Khái Hưng, Huỳnh
Phú Sổ... trong cuộc phân tranh Quốc-Cộng kéo dài 30 năm (1945-1975).
Người ta có thể không đồng ý về những quan điểm chính trị của ông Nguyễn Ngọc Huy nhưng không ai có thể phủ nhận được trường hợp của ông Huy : "văn tức là người". Bởi vì không ai có thể giải thích khác hơn được về một người "lúc hết hơi mới biết đến mạng trời và nhắm mắt mới đành thôi hoạt động" và khi chết chỉ sở hữu vài bộ quần áo cũ và một một ít sách.
Người ta có thể không đồng ý về những quan điểm chính trị của ông Nguyễn Ngọc Huy nhưng không ai có thể phủ nhận được trường hợp của ông Huy : "văn tức là người". Bởi vì không ai có thể giải thích khác hơn được về một người "lúc hết hơi mới biết đến mạng trời và nhắm mắt mới đành thôi hoạt động" và khi chết chỉ sở hữu vài bộ quần áo cũ và một một ít sách.
Và cũng không có ai có dịp tiếp xúc với ông Huy mà
không thấy ông là người chừng mực, tự chủ, quyết tâm. Bình dị trong lời nói
nhưng phong phú trong ý tưởng. Không bao giờ làm bộ tịch, không bao giờ
"đao to, búa lớn". Một người "dâng đất nước cả cuộc đời trong sạch".
Một người "thong dong tựu nghĩa".
Có nhiều người viết về Kim Dung nhưng viết hẳn một
quyển sách công phu về riêng một khía cạnh - "ẩn số chính trị trong tiểu
thuyết võ hiệp Kim Dung" - thì ông Huy là người duy nhất.
Một câu hỏi đến tự nhiên : Tại sao một người lỗi lạc
lại bận rộn như ông Huy lại "mất công" với với loại truyện giải trí
bình dân như thế ?
Câu trả lời chỉ tìm thấy sau khi đã đọc xong quyển
"Những ẩn số chánh trị..." dầy 290 trang. Và câu trả lời có thể sẽ là
như sau :
Mặc dầu truyện võ hiệp nói chung bị xem là loại văn
chương bình dân nhưng riêng với Kim Dung, ông Huy nhìn thấy hình ảnh của một đại
văn hào có một sở học uyên bác và óc tưởng tượng dồi dào. Những bộ truyện trường
thiên của Kim Dung đều có thể so sánh được với các bộ sách bất hủ của dân tộc
Trung Hoa đã làm say mê cả người bình dân lẫn người trí thức, người Việt Nam lẫn
người Trung Hoa, với những ý nghĩa triết lý hoặc các bài học chính trị, đạo đức
tiềm ẩn như Tam Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc, Tây Du Ký... Nếu
suy nghĩ khi đọc truyện Kim Dung người ta có thể học được nhiều điều hữu ích.
Ông Huy nghiên cứu, quen thuộc với lịch sử, tư tưởng
và văn hóa Trung Hoa. Luận án tiến sĩ của ông ở đại học Paris viết bằng tiếng
Pháp đã được chính ông dịch sang tiếng Việt có đề tài "Người ưu tú trong
tư tưởng chánh trị Trung Quốc cổ thời" (Le thème de l'élite dans la pensée
politique de la Chine antique), 1963. Tác phẩm của Kim Dung, vì thế, đã hấp dẫn
ông Huy một cách tự nhiên.
Ngoài sự kính nể của người trí thức đối với người
trí thức, nhà tư tưởng đối với nhà tư tưởng, ông Huy viết về truyện Kim Dung vì
ông cùng chia sẻ với nhà văn một số giá trị căn bản chung, vì thấy ở Kim Dung một
tâm hồn đồng điệu bất kể khoảng cách về không gian, thời gian hay chủng tộc. (Lẽ
dĩ nhiên nói như thế không có nghĩa ông Huy đồng ý hoàn toàn với những điều ông
tìm thấy về tư tưởng của Kim Dung).
Tác phẩm của Kim Dung phong phú, đồ sộ và có thể
nghiên cứu, nhận định dưới nhiều khía cạnh. Ông Huy chỉ giới hạn, như đã nói,
vào một khía cạnh mà ông quan tâm hơn cả đó là "các ẩn số chính trị"
trong tác phẩm. Ông đi tìm những ẩn số này bằng khả năng phân tích và tổng hợp
của một nhà khoa học chính trị, một người quen viết nghị luận, cũng như bằng
tâm tư của một chính trị gia Việt Nam đang "trong gian truân cố chuyển lại
cơ trời", luôn luôn suy nghĩ về những vấn đề của đất nước mình.
Những
"bí mật" của Kim Dung đã bị hay được "bật mí" thế nào ?
Để tránh những hệ lụy rắc rối không cần thiết, các
tiểu thuyết gia gần như luôn luôn xác định "tác giả không có ý ám chỉ một
nhân vật hay một sự việc có thật nào trong đời sống cho nên mọi trùng hợp nếu
có chỉ là ngẫu nhiên". Kim Dung cũng không đi ra ngoài thông lệ ấy khi
tuyên bố :
"Nội dung tiểu thuyết không tránh khỏi sự biểu lộ tư tưởng của tác
giả nhưng không phải tác giả cố ý đem nhân vật, sự tích cùng bối cảnh đến một
lãnh vực tư tưởng hay một chính sách (có thật) nào đó... Tiểu thuyết võ hiệp
không liên quan gì đến tư tưởng chánh trị, ý thức tôn giáo, khoa học trúng hay
trật, đạo đức phải hay trái...".
Lập trường "phi chính trị" nhưng "nói
để mà nói" của Kim Dung đã không ngăn cản ông Huy đi tìm dụng ý chính trị
của tác giả rải rác trong các tác phẩm và ông đã tìm ra, đã nhìn thấy một số dữ
kiện có ý nghĩa chính trị. Các dữ kiện này vừa đủ số lượng, vừa ăn khớp vào
nhau để có thể đưa ra nhũng thông điệp về lập trường của Kim Dung.
Trong phần "Lời mở đầu" của quyển
"Các ẩn số chánh trị...", ông Huy nêu một vài chi tiết quan trọng :
Lúc Đảng cộng sản Trung Hoa tranh đoạt được quyền
lãnh đạo Trung Quốc, Kim Dung vẫn còn ở lại lục địa, sau đó mới dời ra sống ở
Hongkong và làm biên tập viên cho hai tờ báo thiên tả là Đại Công Báo và Trường
Thành Họa Báo cho đến năm 1957. Sự kiện này cộng với các ẩn số chính trị tìm thấy
trong một số các bộ truyện của Kim Dung khiến ông Huy suy đoán Kim Dung vốn là
người trí thức khuynh tả, có thiện cảm với các đoàn thể theo chủ nghĩa xã hội
và các quốc gia theo chế độ cộng sản và không có thiện cảm với các đoàn thể thuộc
phái hữu và các quốc gia Tây Phương.
Qua thời gian, cái nhìn của Kim Dung dần dần thay đổi
khi nhận chân người cộng sản áp dụng một chính sách chuyên chế toàn diện, tàn
ác và phi nhân nên Kim Dung quay ra kết án họ.
Kim Dung cũng điều chỉnh lại cái nhìn đối với các
đoàn thể có lập trường chống chọi nhau, cả Tả lẫn Hữu. Theo Kim Dung, không bên
nào hoàn toàn phải, toàn người tốt. Không bên nào hoàn toàn quấy, toàn người xấu.
Bên nào cũng có người xấu, người tốt và thường vừa có phần phải vừa có phần quấy.
Điểu đáng nói là chuyện mức độ - tốt nhiều hơn hay xấu nhiều hơn, phải nhiều
hơn hay quấy nhiều hơn. Chính, Tà không đơn giản là chuyện Trắng, Đen.
Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, từ khi xuất hiện từ đầu
thập niên 1960, trong khi làm mưa làm gió ở Hongkong, Singapore, Nam Việt Nam,
các nước Đông Nam Á trong giới Hoa Kiều hải ngoại thì tuyệt đối bị cấm cửa ở
Đài Loan và cả Hoa Lục ít nhất trong thời kỳ Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông
còn sống.
Cũng nên lưu ý đối chiếu thời kỳ Kim Dung viết truyện
võ hiệp ở Hong Kong bên cạnh lò lửa "Cách mạng Văn hóa" ở Hoa Lục...
với bối cảnh chiến tranh lạnh giữa hai phe cộng sản và tư bản.
Trong phần kết luận của quyển "Các ẩn số chánh
trị...", ông Huy cũng dè dặt nói thêm "không thể loại bỏ giả thuyết
là sự trùng hợp giữa các nhân vật và sự kiện trong tác phẩm của Kim Dung với một
số nhân vật và sự kiện có thật phát xuất từ nơi tiềm thức của tác giả chứ không
phải là một sự cố ý. Nhưng ngay trong trường hợp này, Kim Dung cũng không phải
hoàn toàn vô tâm, vì Kim Dung có nhiều ưu tư, nhiều chủ kiến ăn sâu trong tiềm
thức thì các tác phẩm viết ra mới biểu lộ các ưu tư và chủ kiến đó cho chúng ta
thấy".
Đi vào chi tiết liên hệ đến các ẩn số chính trị
trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung,ông Huy nhận thấy 2 loại dữ kiện :
- Một số nhân vật đã được dùng để tượng trưng cho một
vài quốc gia đặc biệt trên thế giới hoặc để mô tả một vài chính khách nổi tiếng
trong lịch sử Trung Quốc cận đại.
- Một số sự việc đã diễn tả quan điểm của Kim Dung về
vấn đề tranh đấu chính trị và một phần trong quan điểm này dựa vào triết lý Đạo
giáo và Phật giáo.
Ông Huy trình bầy những khám phá của ông một cách thứ
tự, lớp lang, dựa trên lý luận với rất nhiều chi tiết khá tỉ mỉ. Sau đây chỉ là
một số thí dụ rất sơ lược, tiêu biểu về các ẩn số chính trị - xin nhắc lại chỉ
là một số thí dụ có giá trị thuyết phục cao trong rất nhiều ẩn số mà ông Huy đã
tìm thấy - qua các truyện võ hiệp Kim Dung :
1.
Các nhân vật tượng trưng cho một số quốc gia đặc biệt trên thế giới
Cuộc luận võ trên đỉnh Hoa Sơn được đề cập đến trong
các bộ Võ Lâm Ngũ Bá, Anh Hùng Xạ Điêu và Thần Điêu Đại Hiệp có mục đích xác định
vai tuồng bá chủ võ lâm. Cuộc luận võ đầu tiên và quan trọng nhất có 5 nhân vật
tham dự. Họ có ngoại hiệu là Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế.
Sau cuộc tỷ thí rất gay go, mọi người đều công nhận rằng Trung Thần Thông là
người có võ công cao diệu hơn hết và được quyền giữ bộ Cửu Âm Chân Kinh. Những
người còn lại thì tài nghệ suýt soát nhau.
Ngoài ra, còn một nhân vật thứ sáu cũng được xem đồng
tài nghệ nhưng không tham dự cuộc luận võ này. Đó là bang chủ của Thiết Chưởng
Bang tên là Cừu Thiên Nhạn, ngoại hiệu là Thủy Thượng Phiêu. Cừu Thiên Nhạn có
người anh song sinh tên là Cừu Thiên Lý, võ công tầm thường, chỉ hay dùng xảo
thuật để loè bịp.
Trong một giai đoạn của cuộc luận võ hay luận kiếm
Hoa Sơn, năm nhân vật đầu tiên đã tỉ thí với nhau theo lối "ngũ quốc giao
binh", dịch sát nghĩa là "năm nước tranh chiến với nhau", Kim
Dung muốn hàm ý dùng các nhân vật võ lâm để ám chỉ một số quốc gia. Vậy thì,
nhân vật nào, quốc gia nào đây ?
-
Nhân vật tượng trưng cho nước Tầu : Trung Thần Thông
Trung Thần Thông là ngoại hiệu của Vương Trùng
Dương. Trung là ở ngay chính giữa. Tự ngàn xưa, người Tầu đã tự hào là họ sống
ngay chính giữa địa cầu (!). Họ đã chính thức gọi dân tộc họ là dân tộc Trung
Hoa và nước họ là Trung Quốc.
Về mặt tinh thần, người Trung Hoa theo đạo Trung
Dung, đạo của người quân tử lúc nào cũng đứng trong vị thế quân bình. Trong mọi
việc làm đều có thái độ thích ứng, vừa phải. Không thái quá, không bất cập. Người
cố gắng theo đạo Trung Dung thì sẽ trở thành sáng suốt, hiểu biết và có thể biến
cải để ứng phó vượt qua mọi trở lực, nói một cách khác sẽ trở thành Thần Thông.
Phái Đạo giáo mà Trung Thần Thông đứng đầu là phái
Toàn Chân, có nghĩa là sự thật đầy đủ, trọn vẹn. Toàn Chân là môn phái có thật
trong lịch sử. Ngoài chủ trương riêng của Đạo giáo, nó lại còn bao gồm đạo
Trung hiếu của Nho giáo và các giới luật của Phật giáo và điều này đã mô tả
đúng tính cách tổng hợp của nền văn hóa Trung Hoa cổ truyền.
Tỷ thí tài nghệ để trở thành bá chủ võ lâm, tuy
nhiên Trung Thần Thông lại có bản chất ngược lại với tư tưởng bá chủ - lấy được
Cửu Âm Chân Kinh nhưng nhất quyết không dùng vì bí kíp võ học tuyệt tác này đòi
hỏi phương pháp luyện công quá âm độc, dị thường. Tư cách của Trung Thần Thông,
tức Vương Trùng Dương cho thấy cao hơn hẳn Đông Tà, Tây Độc và các nhân vật võ
lâm khác, càng chứng tỏ xứng đáng vai trò lãnh đạo, phù hợp với họ Vương, có
nghĩa là Vua, người đứng đầu thiên hạ. Đạo lý nhà vua phải theo để cai trị một
cách chính đáng, nhân nghĩa gọi là Vương đạo. Chủ trương chính trị Vương đạo là
chủ trương chính thức được đề cao trong sử sách Trung Hoa từ ngàn xưa.
Kim Dung là người Trung Hoa nên, qua nhân vật Trung
Thần Thông Vương Trùng Dương, hàm ý nước Trung Hoa có đủ khả năng và tư cách
làm số 1 trên thế giới cũng là điều không đáng ngạc nhiên.
-
Nhân vật tượng trưng cho nước Nhật : Đông Tà
Đông Tà là ngoại hiệu của Hoàng Dược Sư. Hoàng là mầu
vàng ám chỉ Nhật Bản cũng là dân da vàng.
Nhật Bản nằm về phía đông của Trung Hoa phù hợp với
ngoại hiệu Đông Tà của Hoàng Dược Sư. Đông Tà lại mặc áo mầu xanh, theo vũ trụ
quan của người Trung Hoa thì mầu xanh thuộc về hành mộc và liên hệ với phương
đông, nhấn mạnh thêm nước Nhật ở phía đông.
Căn cứ của Đông Tà là đảo Đào Hoa mà Nhật Bản là đảo
quốc và nổi tiếng thế giới là xứ hoa Anh Đào.
Đông Tà có tánh sợ lửa. Điều này ám chỉ các đảo Nhật
có nhiều núi lửa và thường bị động đất.
Bà vợ của Đông Tà có tên là Mai Hương. Mà hoa Mai lại
được người Trung Hoa xem là quốc hoa. Điều này có thể ám chỉ dân tộc Nhật có
liên hệ và chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa.
Thân thế của Đông Tà còn tỏ rõ hơn nữa ảnh hưởng văn
hóa Trung Hoa rất sâu xa đối với nước Nhật - Đông Tà theo học võ với Châu Đồng.
Ông này cũng là thầy của Nhạc Phi, một danh tướng anh hùng Trung Hoa. Trước đó
Đông Tà là một thư sinh học theo Nho giáo nên là người văn võ kiêm toàn. Đông
Tà thông thạo các thú tiêu khiển của người Trung Hoa là cầm, kỳ, thi, họa ; nắm
vững mọi loại kỹ thuật Trung Hoa như y dược, bói toán, chiêm tinh, tướng số,
nông điền thủy lợi, binh lược... ; biết thưởng thức các món ăn ngon, các thứ
trà quý của Trung Hoa... Tuy nhiên, Đông Tà lại thâm hiểu Đạo giáo và hướng về
sự thanh tĩnh vô vi. Đông Tà cũng có một số đức tính tốt là cương trực, nói lời
giữ lời theo kiểu "quân tử nhất ngôn", kính trọng các bậc trung thần,
nghĩa sĩ, nhiều khi ra tay giúp người yếu thế, trừng trị bọn tham quan ô lại, bọn
trộm cướp hiếp đáp dân lành.
Các đệ tử của Đông Tà đều mang tên Phong, như Khúc
Linh Phong, Phùng Mặc Phong, Lục Thừa Phong, Trần Huyền Phong, Mai Siêu
Phong... Phong nghĩa là gió, giống như chữ Phong trong danh từ nổi tiếng của Nhật
là Thần Phong (Kamikaze) nguyên là danh từ dùng để chỉ trận bão lớn năm 1281 đã
đánh đắm các chiến thuyền của hạm đội Mông Cổ, cứu nước Nhật khỏi bị Mông Cổ thống
trị. Trong thế chiến thứ hai, Thần Phong là tên của đội phi công cảm tử tình
nguyện lao phi cơ chứa đầy chất nổ xuống các chiến hạm Mỹ và nổ tung với các chiến
hạm này - một cố gắng hi sinh tuyệt vọng nhưng rẩt anh hùng mang đặc tính Nhật
Bản.
Đông Tà tuy vậy không được Kim Dung coi là người
theo chính đạo mà là một nhân vật nhuốm đầy tà quái, hàm ý người Nhật chịu ảnh
hưởng văn hóa Trung Hoa nhưng chỉ theo một phần, rồi tìm cách biến chế và không
cư xử đúng theo quan điểm đạo đức của người (quân tử mẫu mực) Trung Hoa.
Đông Tà, tức nước Nhật, trong mắt Kim Dung đã Tà như
thế nào ?
Dựa vào Kỳ Môn Bát Trận của Khổng Minh để lập ra Phản
Kỳ Môn Bát Trận để bảo vệ đảo Đào Hoa. Cũng dựa vào nguyên tắc sinh khắc, âm
dương, ngũ hành, nhị thập bát tú và 64 quẻ kép của Bát Quái. Tuy nhiên trong trận
đồ của Đông Tà, vị trí của các quẻ lại ngược lại vị trí các quẻ trong trận đồ
Khổng Minh.
Thổi ngọc tiêu kích thích dục tình.
Thiếu tự chế - quá bi thương vì cái chết của vợ, gần
như điên cuồng khi tưởng mất con.
Ăn cướp, tống tiền nhà giầu để có phương tiện lập
căn cứ địa kiên cố, sang trọng. Dùng thủ đoạn xảo trá để đoạt Cửu Âm Chân
Kinh.
Khi tức giận hai đệ tử phản bội đào thoát thì trừng
phạt các đệ tử vô tội và hết sức trung thành khác bằng cách cắt đứt gân chân của
họ rồi đuổi đi. Đâm mù mắt, chọc thủng tai các đầy tớ, gia nhân, vốn là các
thành phần tội phạm, để kiềm chế họ và giữ bí mật về mình.
Sự tàn ác, ích kỷ của Đông Tà ám chỉ nước Nhật sau
khi canh tân trở nên cường thịnh thì đi xâm lăng Trung Quốc và các nước khác cốt
để làm lợi cho riêng mình, trắng trợn tự xưng là Đế quốc Nhật Bản, khác với lý
tưởng Vương đạo của người Trung Hoa là - theo Kim Dung - "trị quốc" để
dọn đường cho "bình thiên hạ" tức là tiến tới "thế giới đại đồng".
Biến cố "The rape of Nanking" năm 1937 gây
kinh hoàng, chấn động thế giới khi quân Nhật chiếm thủ đô Nam Kinh của Trung
Hoa Dân Quốc, đã hãm hiếp và giết hại 300.000 người dân Tầu, thây chất như núi,
máu loang đỏ các sông ngòi, là một tội ác khó có thể nào quên.
-
Nhân vật tượng trưng cho các nước Đế quốc Châu Âu : Tây Độc
Tây Độc là một nhân vật kinh khủng, có lẽ còn đáng
ghét hơn cả Đông Tà, ám chỉ các nước đế quốc thực dân Châu Âu đã sâu xé, dày
xéo, bóc lột Trung Hoa và các dân tộc ở Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ hàng trăm
năm.
Tây Độc là ngoại hiệu của Âu Dương Phong. Âu là Châu
Âu. Châu Âu ở phía Tây của Trung Quốc. Người Châu Âu còn gọi là người Tây
Dương, hay người Tây Phương. Tây Độc Âu Dương Phong cũng xưng là Bạch Đà Sơn Chủ,
tức chúa núi Bạch Đà. Bạch là mầu trắng khiến liên tưởng đến người da trắng,
giòng giống... Bạch Quỷ (!).
Trái với nếp sống thanh tĩnh theo Đạo giáo của Trung
Thần Thông Vương Trùng Dương, nếp sống của Tây Độc Âu Dương Phong là sự hưởng
thụ vật chất tầm thường, ô trọc. Căn cứ Bạch Đà Sơn chứa đầy gái đẹp, ngọc ngà,
châu báu, của ngon vật lạ... vốn là chiến lợi phẩm có từ cướp của, giết người,
bắt cóc... do hai chú cháu Âu Dương Phong và Âu Dương Công Tử thực hiện. Mô tả
này nhắc đến thời kỳ các nước Châu Âu ùa nhau đi chiếm thuộc địa, bắt buộc các
dân tộc khác làm nô lệ, thực thi chính sách đế quốc bóc lột tàn nhẫn, trở nên
giầu có và trụy lạc
Sự mất trí, điên cuồng lúc về sau của Tây Độc biểu
tượng cho sự vong thân của người Tây Phương dẫn đến khủng hoảng xã hội, cách mạng,
nội chiến và đánh giết lẫn nhau gây ra đại chiến thế giới 1 và 2.
-
Nhân vật tiêu biểu cho Liên Xô : Bắc Cái
Bắc Cái là ngoại hiệu của Hồng Thất Công.
Bắc Cái là bang chủ Cái Bang, là chúa ăn mày, tức là
trùm vô sản.
Liên Xô ở phía Bắc và Tây của Trung Quốc. Bắc nhiều
hơn Tây, vả lại Tây đã dùng cho trường hợp Tây Độc để ám chỉ Châu Âu.
Chữ Hồng, họ của Bắc Cái (Hồng Thất Công) theo Hán
văn là rộng lớn mênh mông nhưng lại đồng âm với chữ Hồng là đỏ, mầu tiêu biểu
cho Đảng cộng sản, tức Cái Bang. Thêm nữa, chữ Hồng gồm 2 phần, bên tả là bộ thủy,
bên hữu là chữ cộng, y như chữ Cộng trong từ ngữ cộng sản.
Kỹ thuật tranh đấu của Bắc Cái là Đả Cẩu Bổng Pháp -
dùng gậy để đánh chó của nhà giầu, đánh cả cường hào, ác bá, tham quan ô lại -
tiêu biểu cho chủ trương Giai cấp đấu tranh, Hàng Long Thập Bát Chưởng tiêu biểu
Biện Chứng Pháp Duy Vật. Kiên Bích Trận của Cái Bang biểu tượng kỹ thuật tổ chức
và tranh đấu tập thể của Đảng cộng sản quốc tế do Liên Xô lãnh đạo.
Cái Bang của Hồng Thất Công có 2 phe ăn mày hiềm
khích và chống chọi nhau. Một phe áo lành và sạch nhưng ít người, ám chỉ cộng sản
Đệ Tứ với thủ lãnh Trotsky. Một phe áo rách và dơ nhưng đông người hơn, ám chỉ
cộng sản Đệ Tam do Stalin cầm đầu. Bắc Cái Hồng Thất Công có thể vừa tượng
trưng cho Liên Xô như là một quốc gia, vừa tượng trưng cho Lenin như là một
nhân vật. Chỉ khi Lenin lúc còn sống mới dung hợp được cả phe Stalin và phe
Trotsky.
-
Nhân vật tiêu biểu cho các nước thuộc thế giới đệ tam - tức là các nước đang mở mang như Thái Lan : Nam Đế
Nam Đế là ngoại hiệu của Đoàn Chính Minh, vua nước Đại
Lý, thuộc sắc dân Thái, sau thoái vị đi tu với pháp danh là Nhất Đăng, Nhất
Đăng Đại Sư. Người thế độ cho ông không phải là một cao tăng Trung Hoa mà là một
nhà sư Thiên Trúc, tức là Ấn Độ, theo Phật giáo Tiểu thừa khác với Phật giáo Đại
thừa thịnh hành ở Trung Hoa.
Hiện nay có cuộc mâu thuẫn giữa các nước đã phát triển
ở phương Bắc và các nước đang mở mang ở phương Nam, được gọi là tranh chấp Bắc
Nam. Nam Đế là biểu tượng của thế lực phương Nam.
-
Nhân vật biểu tượng cho Đức quốc xã và Phát xít Ý : anh em Cừu Thiên Nhạn và Cừu
Thiên Lý
Được mời nhưng không tham dự cuộc Hoa Sơn Luận Võ,
Bang chủ Thiết Chưởng Bang Cừu Thiên Nhạn được xem là có tài nghệ ngang với Võ
Lâm Ngũ Bá. Cừu Thiên Lý là anh song sinh của Cừu Thiên Nhạn, trông rất giống,
có tánh mưu mẹo, gạt gẫm nhưng tài nghệ kém người em rất xa, hàm ý Phát xít Ý của
Mussolini ra đời trước, hay khoa trương, nhưng không có thực lực như Đức quốc
xã của Hitler.
Theo sự mô tả của Kim Dung, Thiết Chưởng Bang (Bang
hội Bàn Tay Sắt) lúc đầu là hội của những người yêu nước chống sự xâm lấn của
nước ngoài, về sau lầm lạc đi vào con đường cướp bóc, hung bạo, xem mạng người
như cỏ rác phù hợp với lịch sử chung của 2 chế độ độc tài hữu phái Quốc xã và
Phát xít.
Ngoại hiệu Thủy Thượng Phiêu phản ảnh công phu độc
đáo đi trên mặt nước của Cừu Thiên Nhạn ám chỉ chủ nghĩa siêu nhân và siêu tộc
của Đức Quốc Xã.
Tín hiệu bàn tay sắt của bang chủ Cừu Thiên Nhạn là
gợi ý đến từ bội tinh Thập Tự Sắt, huy chương quân công cao quý nhất của dân tộc
Đức cũng như huy hiệu chữ Vạn thời Hitler.
-
Nhân Vật biểu hiệu cho nước Mỹ : Dương Qua
Dương Qua nhận Tây Độc làm nghĩa phụ và được truyền
dậy những công phu siêu đẳng hàm ý nước Mỹ có gốc gác Châu Âu, văn hóa Mỹ cùng
tính chất văn hóa Châu Âu, gọi chung là Tây Phương. Dương Qua còn được gọi là
Tây Cuồng.
Dương Qua chính là Thần Điêu Đại Hiệp mà chim điêu
(eagle) là biểu hiệu của nước Mỹ. Quốc huy của nước Mỹ có hình chim điêu.
Trong lần Hoa Sơn Luận Võ cuối cùng, trong số 5 cao
thủ có mặt thì Dương Qua là người trẻ nhất được xem như kế vị Tây Độc nhưng
không ác hại như nghĩa phụ, lại học thêm được tinh hoa võ thuật của các cao thủ
khác, cũng như tự sáng chế nên có bản lãnh cao hơn mọi người. Điều này phù hợp
với sự kiện nước Mỹ là quốc gia Tây Phương, trẻ trung, cường thịnh vượt hẳn các
nước đế quốc Châu Âu già nua, tàn tạ như đế quốc Bồ Đào Nha, đế quốc Tây Ban
Nha, đế quốc Anh, đế quốc Pháp, đế quốc Hòa Lan, đế quốc Bỉ... để trở nên đệ nhất
siêu cường.
2.
Các nhân vật được dùng để mô tả một vài chính khách nổi tiếng trong lịch sử
Trung Hoa cận đại
Trước hết là trường hợp các lãnh tụ Trung Quốc.
Trong thời kỳ sáng tác ba bộ Võ Lâm Ngũ Bá, Anh Hùng
Xạ Điêu và Thần Điêu Đại Hiệp, Kim Dung còn thiên tả nhưng đến khi viết hai bộ
Tiếu Ngạo Giang Hồ và Lộc Đỉnh Ký, Kim Dung đã nhận chân được sự thật về Cộng sản
Quốc tế nói chung và Cộng sản Trung Hoa nói riêng.
Trong bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ, đề tài chính là cuộc
tranh chấp đẫm máu giữa Triêu Dương Thần giáo và các phe gọi chung là bạch đạo.
Ông Huy đã tìm thấy nhiều dữ kiện chứng tỏ rằng Triêu Dương Thần giáo trong Tiếu
Ngạo Giang Hồ được dùng để ám chỉ Đảng cộng sản Trung Hoa và hai vị giáo chủ Nhậm
Ngã Hành và Đông Phương Bất Bại biểu tượng hai nhà lãnh đạo quan trọng của
Trung Quốc là Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ.
Ông Huy lý luận như sau :
Triêu Dương là buổi sớm mai lúc mặt trời ở phía Đông
mà bản quốc thiều của Trung Quốc là bản Đông Phương Hồng.
Khẩu hiệu chính của Trung Quốc trong thời kỳ chiến tranh lạnh là "gió đông thắng gió tây" cho nên giáo chủ Triêu Dương Thần giáo có tên là Đông Phương Bất Bại là hiện thân của Lưu Thiếu Kỳ, người làm chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) trong 9 năm và nắm thực quyền một thời gian dài trước khi bị lật đổ, bị tra tấn và bị giết.
Khẩu hiệu chính của Trung Quốc trong thời kỳ chiến tranh lạnh là "gió đông thắng gió tây" cho nên giáo chủ Triêu Dương Thần giáo có tên là Đông Phương Bất Bại là hiện thân của Lưu Thiếu Kỳ, người làm chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) trong 9 năm và nắm thực quyền một thời gian dài trước khi bị lật đổ, bị tra tấn và bị giết.
Giáo chủ Nhậm Ngã Hành biểu tượng cho Mao Trạch
Đông, Chủ tịch Đảng cộng sản Trung Hoa. Việc Đông Phương Bất Bại bí mật giam Nhậm
Ngã Hành trong lòng đất dưới đáy Tây Hồ ở Hàng Châu ám chỉ thời kỳ Lưu Thiếu Kỳ
liên kết với Đặng Tiểu Bình tập trung quyền lực Đảng trong tay, dồn Mao Trạch
Đông vào thế "ngồi chơi xơi nước", "hữu danh vô thực" sau
thất bại "bước tiến nhẩy vọt" khiến Mao uất hận dùng "đại cách mạng
văn hóa" long trời lở đất để quật ngược lại. Cuộc xung đột giữa Nhậm Ngã
Hành và Đông Phương Bất Bại cũng kỳ bí và ghê gớm như cuộc xung đột giữa Mao Trạch
Đông và Lưu Thiếu Kỳ.
Thần Long giáo trong Lộc Đỉnh Ký cũng được dùng để
ám chỉ Đảng cộng sản Tầu. Giáo chủ Hồng An Thông là hình ảnh xấu xí của Mao Trạch
Đông, bà vợ ác nghiệt nhưng trẻ đẹp Tô Thuyên tức Hồng Phu Nhân biểu hiệu cho
Giang Thanh, bọn Ngũ Long Thiếu Niên tượng trưng cho Vệ Binh Đỏ. Những cảnh tượng
xấu xa, tàn bạo, tệ hại liên quan đến Thần Long giáo mà Kim Dung mô tả rất gần
với thực trạng chính trị Hoa Lục thời Đại Cách Mạng Văn Hóa.
Kế tiếp là trường hợp của các chính khách quốc gia
Trung Hoa trong mắt Kim Dung theo như sự suy đoán của ông Huy.
Cũng trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, nếu Triêu Dương Thần
giáo (bị gọi là Ma giáo) tượng trưng cho phe cộng sản thì phái Bạch Đạo tương
trưng cho phe quốc gia. Phe Bạch Đạo chính thức theo lập trường bảo vệ đạo lý
và tình trạng đương hữu nhưng trong thực tế phân hóa trầm trọng. Có những người
rất đàng hoàng, tử tế nhưng không thiếu kẻ gian ác. Nhân vật tiêu biểu cho loại
người sau là Nhạc Bất Quần, chưởng môn của phái Hoa Sơn, sau lên làm "minh
chủ" của 5 phái "hợp nhất", gọi là Ngũ Nhạc kiếm phái gồm Hoa
Sơn, Hành Sơn, Tung Sơn, Thái Sơn và Hằng Sơn.
Nhân vật Nhạc Bất Quần được Kim Dung dùng để ám chỉ
Tưởng Giới Thạch, sau khi "quốc phụ" sáng lập là Tôn Dật Tiên chết,
thì trở thành lãnh tụ số 1 của Trung Hoa Dân Quốc và Trung Hoa Quốc Dân Đảng.
Kim Dung dùng lối chơi chữ ở đây. Không để ý thì
không thấy. Nhạc, theo chữ Hán, là hòn núi lớn gồm chữ "khâu" là gò
và "sơn" là núi. Cả 3 chữ "nhạc", "khâu" và
"sơn" đều chỉ những khối lớn do đá cấu tạo nên. Mà đá tức là "thạch"
- Tưởng Giới Thạch !
Dưới ngòi bút có phần cố ý... "bôi bác" của
Kim Dung, Nhạc Bất Quần có bề ngoài khả kính của một lãnh tụ võ lâm mang ngoại
hiệu Quân Tử Kiếm nhưng thực chất là Ngụy Quân Tử hay Quân tử giả hiệu.
Tưởng Giới Thạch còn có tên là Tưởng Trung Chánh,
hàm ý thành tín ngay thẳng, không những chính thức theo chủ nghĩa Tam Dân của
Tôn Dật Tiên - Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc - mà còn
luôn luôn đề cao Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ nhưng, theo Kim Dung, thật sự là người
theo chủ nghĩa quyền uy, một nhà độc tài hữu phái đứng đầu một chính quyền ung
thối vì tham nhũng.
Giống như Nhạc Bất Quần lớn tiếng tố cáo, miệt thị
Ma giáo, Tưởng Giới Thạch kết án cộng sản tà ngụy, bất nhân nhưng bên trong Tưởng
hành động còn tà ngụy, bất nhân hơn hay cũng chẳng kém. (Trong Tiếu Ngạo Giang
Hồ, Kim Dung còn nghiêng về Nhậm Ngã Hành, tức Mao Trạch Đông, hàm ý Mao vẫn đỡ
tệ hại hơn Tưởng. Chỉ trong Lộc Đỉnh Ký, qua nhân vật giáo chủ Hồng An Thông,
Kim Dung mới xem Mao, Tưởng đều đáng ghét như nhau).
Thông
điệp chính trị của Kim Dung
Trở lại những ẩn số chính trị mà ông Huy tìm thấy,
những ẩn số quan trọng nhất có lẽ là những thông điệp mà Kim Dung đã kín đáo gửi
đến cho đồng bào Trung Hoa của ông. Những thông điệp này cũng có thể trở thành
những điều đáng suy ngẫm cho những người hoạt động chính trị hay tranh đấu
chính trị nói chung ở bất cứ nước nào - Trung Hoa, Việt Nam, Miến Điện, Mỹ, Nhật,
Âu, Phi... Chẳng hạn như :
1. Chính nghĩa dựa trên đạo lý thường chỉ là nhận thức
chủ quan, dễ dàng đưa đến sự thiên vị. Đoàn thể nào cũng xem đạo lý của mình là
đúng, là chính còn đạo lý của đoàn thể khác là sai, là tà. Đấy là chưa kể
"nói một đằng, làm một nẻo".
2. Trong mọi đoàn thể đều có người tốt, người xấu chứ
không phải người của chính phái nhất định là tốt, người của tà phái nhất định
là xấu. Ma giáo có thể có người tử tế như Hướng Vấn Thiên, Khúc Dương Trưởng
Lão, danh môn chính phái như Thiếu Lâm, Võ Đang có thể có đệ tử đồi bại như Trần
Hữu Lượng, Tống Thanh Thư. Hệ quả này là người ta phải có tinh thần cởi mở và
khoan dung đối với nhau. Nên cởi mở và khoan dung như Lệnh Hồ Xung trong Tiếu
Ngạo Giang Hồ.
3. Mô tả quá trình các nhân vật đạt đến vị trí tối
cao như lãnh tụ, như minh chủ nguyên tắc của Đạo Đức Kinh được thực thi là
"tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi" (biết đủ thì không bị nhục, biết
dừng lại đúng lúc thì không bị nguy) và nguyên tắc "bất tranh" (không
tranh giành cho bằng được). Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần tàn phế, tử vong, thân
bại danh liệt vì quá tham lam, ham hố. Mưu thâm thì họa cũng thâm !
4. Trong đoạn cuối của Tiếu Ngạo Giang Hồ, giáo chủ
Triêu Dương Thần giáo ngỏ lời gả con gái là Nhậm Doanh Doanh cho Lệnh Hồ Xung
và mời Lệnh Hồ Xung làm Phó giáo chủ. Mặc dù yêu Nhậm Doanh Doanh tha thiết, Lệnh
Hồ Xung khước từ và bỏ đi. Điều này có nghĩa : Riêng tại các nước có sự phân
tranh Quốc-Cộng như trường hợp Trung Hoa (cũng như Cao Ly, Cuba, Việt Nam) sẽ
không có, không thể có, hòa giải, hòa hợp dân tộc thực sự nếu các đảng cộng sản
đang nắm quyền lực tiếp tục chủ trương độc tài, độc đảng, độc tôn phi lý. Các đảng
cộng sản này phải đi bước trước là thực hiện sự cải cách thực sự.
...
Trong hơn nửa thế kỷ vừa qua cho đến tận ngày nay có
đến hằng trăm triệu độc giả ở Trung Hoa, Đài Loan, Đông Nam Á, Bắc Mỹ, Châu
Âu... say mê nghiền ngẫm truyện Võ Hiệp Kim Dung, có hàng trăm tác giả viết
sách, báo bình luận về tư tưởng, cuộc đời của Kim Dung, thậm chí xuất hiện cả
trường phái "Kim Học".
Tuy nhiên, không thấy ai nghiêm túc đặt vấn đề
"đi tìm các ẩn số chánh trị" trong các tác phẩm của Kim Dung. Hoặc giả
có đặt vấn đề thì chỉ "giải quyết" bằng cách đưa ra các khái niệm mơ
hồ về chuyện Tả, Hữu, Quốc, Cộng... chứ không có ai tìm ra được các những
"bí mật" ẩn tàng một cách rõ ràng, mạch lạc và có hệ thống như ông
Nguyễn Ngọc Huy.
Kim Dung đã "qua mặt" được tất cả mọi người
nhưng không "qua mặt" được một người - một người Việt Nam !
Phải chăng "Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,
song hào kiệt đời nào cũng có" ?
Cao
Tuấn
(06/12/2018)
No comments:
Post a Comment