Đỗ Đăng Liêu
29/12/2018
Biển
Đông
Việt Nam gọi nó là Biển Đông, với ý nghĩa đây là
vùng biển ở về phía Đông của Việt Nam.
Trung Quốc gọi nó là Biển Hoa Nam (South China Sea)
với ý nghĩa đây là vùng biển ở về phía Nam của Trung Quốc.
Muốn gọi sao thì tùy nhưng đều phải nhìn nhận đây là
vùng biển thuộc địa phận quốc tế, và như thế nó không phải là của Việt Nam mà
cũng chẳng phải của Trung Quốc, và đã như thế từ bao đời nay, và tàu bè mọi quốc
gia trên thế giới vẫn luôn có quyền đi lại tự do trên hải phận quốc tế ở vùng
biển này.
Nhưng, vùng biển này bỗng trở thành vấn đề kể từ khi
Trung Quốc đột nhiên ngang ngược gọi nó là sân nhà của họ, và buộc ai muốn đi
qua đó thì phải xin phép họ.
Vấn đề khởi đi từ sự ngang ngược vô lý đó!
Những
vi phạm, xâm phạm và thái độ gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông
Bao quanh Biển Đông không chỉ có Trung Quốc và Việt
Nam mà còn có Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân. Do đó, đối với 4 quốc gia kể
trên việc khoanh vùng nhận vơ của Trung Quốc là một hành động ức hiếp trực tiếp
về lý, tự nhận là của mình cái không phải là của mình. Đối với cả thế giới còn
lại thì đó là hành động ngang ngược và thách thức, chẳng khác nào bảo Mặt Trăng
là của riêng mình và cấm không ai được lên đó!
Dĩ nhiên, nếu hành vi ngang ngược và sai trái đó
phát sinh từ một nước nhỏ bé thì chắc chẳng ai để ý. Nhưng nó lại phát xuất từ
Trung Quốc, là quốc gia đông dân nhất, với mức phát triển kinh tế và quân sự
hàng đầu thế giới, và đang dùng cả hai phương tiện đó làm vũ khí để áp lực cả
thế giới, đặc biệt và nặng nề nhất là những quốc gia trong vùng, nhỏ, ít dân và
yếu hơn với ý đồ rõ ràng là muốn làm bá chủ thế giới.
Việt Nam là nạn nhân trực tiếp và thê thảm nhất của
mộng bá quyền của Trung Quốc. Việt Nam đã bị Trung Cộng lấn đất ở biên giới
phía Bắc, bị chiếm mất Quần Đảo Hoàng Sa, một phần Quần Đảo Trường Sa, ngư dân
Việt Nam bị Trung Cộng ức hiếp, trấn lột, giết hại, cấm khai thác hải sản và
cùng lúc Trung Cộng xả thải gây ô nhiễm trầm trọng dọc mấy trăm cây số bờ biển
Việt Nam.
Tất cả những hành động vi phạm chủ quyền Việt Nam của
Trung Cộng đều có sự đồng tình, tiếp tay của Đảng và Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam
theo một thỏa thuận giữa hai đảng cộng sản là Hiệp Ước Thành Đô 1990 (mà Đảng Cộng
Sản Việt Nam chưa một lần mở miệng phủ nhận) với nội dung cốt lõi là Cộng Sản
Việt Nam thoả thuận để Việt Nam trở thành một tỉnh của Trung Quốc vào năm 2020.
Người Việt có câu nói cửa miệng là “thừa khi bên Tàu
có loạn”, ý rằng họ đang có vấn đề khó khăn trong nội bộ, không còn tâm trí để
nghĩ đến chuyện xâm lấn nước ta, nên mình có thể yên tâm lo chuyện của mình.
Khổ nỗi, kể từ khi Hồ Chí Minh nhập cảng lý thuyết cộng
sản vào Việt Nam với vai trò một chư hầu của cộng sản quốc tế, và với việc lãnh
tụ Trung Cộng Mao Trạch Đông nắm quyền độc trị ở Trung Quốc, thì không những
“nước Tàu không có loạn” mà ngược lại để hết tâm trí nhắm vào việc xâm lăng Việt
Nam. Cho nên, kể từ đó, Việt Nam, từ ý thức hệ, chính trị, kinh tế, địa lý,
quân sự, xã hội, văn hoá,… ngày một lệ thuộc nặng nề hơn vào Trung Quốc.
Đặc biệt về lãnh vực quân sự trên Biển Đông, Trung
Quốc đã nhiều lần chủ ý phô trương sức mạnh quân sự qua việc tập trận bắn đạn
thật trên Biển Đông, xây dựng các căn cứ quân sự trên Quần Đảo Hoàng Sa và Trường
Sa cũng như trên các đảo nhân tạo với những trang bị vũ khí chiến tranh chứng tỏ
Trung Quốc sẵn sàng chiến tranh nếu bị cản trở trong ý đồ làm bá chủ của họ.
Phản
ứng của thế giới
Cách đây hơn 200 năm, Đại Đế Napoléon Bonaparte của
Pháp đã có câu nói có tính tiên tri là “Hãy để Trung Hoa ngủ yên, vì khi họ thức
dậy thì cả thế giới sẽ run sợ!” (Napoléon Ier: “Laissez donc
la Chine dormir, car lorsque la Chine s’éveillera le monde entier tremblera”.)
Lời tiên tri đã thành sự thật, và thế giới đang run
sợ, chí ít là rất lo lắng.
Mặc dầu chưa phải là vô địch thế giới về quân sự,
chưa có khả năng tấn công cao, đặc biệt đối với các cường quốc quân sự số một
thế giới như Mỹ, Nga,… Trung Cộng có thừa khả năng để áp đảo các nước nhỏ láng
giềng như Lào, Khmer, Mã Lai, Nam Dương,… và nhất là Việt Nam Cộng Sản.
Trước nguy cơ đó, các quốc gia Đông Nam Á đã có nhiều
nỗ lực để kết hợp sức mạnh để chống trả sức mạnh uy hiếp của người khổng lồ
Trung Cộng tuy rằng không mấy thành công vì những đòn đánh lẻ và chia rẽ của
Trung Quốc.
Dĩ nhiên, vì cũng bị thiệt hại quyền lợi lớn lao vì
hành vi ngang ngược của Trung Cộng, thế giới, nhất là Hoa Kỳ, không thể ngồi
nhìn Trung Cộng múa gậy vườn hoang.
Trên lãnh vực chính trị và ngoại giao, nhiều hành động
với mục tiêu cô lập Trung Quốc đã được thực hiện tuy rằng cũng có lúc không
thành công, chẳng hạn như Hiệp Ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) giữa 11
quốc gia.
Bộ
Tứ Kim Cương
Cách đây 11 năm, vào năm 2007, Thủ Tướng Nhật Bản
Shinzo Abe, cũng trong mục tiêu kiểm soát và ngăn chận nguy cơ bành trướng rất
đáng ngại của Trung Cộng, đã đưa ra ý tưởng và vận động thành lập một hành lang
để các nền dân chủ của Châu Á xích lại gần nhau, viễn ảnh về một Châu Á rộng lớn
hơn, vươn đến Mỹ và Úc, nơi con người, hàng hóa, kiến thức được luân chuyển
trong tự do và thịnh vượng.
Ý tưởng này được sự ủng hộ của Mỹ, Úc, Ấn Độ, dẫn đến
cuộc tập trận chung trên Vịnh Bengal vào Tháng 9, 2007. Rất tiếc là sau đó, Úc
và Ấn Độ đã rút ra và kế hoạch này bị ngưng lại.
Khi trở lại làm Thủ Tướng Nhật lần thứ nhì vào năm
2012 ông Abe đã một lần nữa kêu gọi việc phát triển cụ thể cái gọi là “kim
cương an ninh dân chủ Châu Á” bao gồm 4 nước Nhật, Mỹ, Ấn Độ và Úc.
Nhưng phải chờ đến năm 2017, với cảm nhận rõ hơn về
hiểm họa Trung Cộng tiếp theo phát biểu của Chủ Tịch Tập Cận Bình nhấn mạnh việc
Trung Cộng sẽ thành siêu cường và nắm vai trò lãnh đạo thế giới, song song với
việc Trung Cộng công bố kế hoạch “Vành đai, Con đường” bao gồm nhiều dự án cơ sở
hạ tầng trải dài từ Nam Á đến Châu Âu, tạo ảnh hưởng rộng lớn của Trung Quốc, Ấn
Độ và Úc đã tuyên bố ủng hộ việc thành lập “Bộ Tứ Kim Cương”.
Bên lề cuộc họp Thượng Đỉnh ASEAN vào năm 2017, bốn
nước Nhật, Mỹ, Ấn và Úc đã họp với mục tiêu cho hồi sinh Bộ Tứ Kim Cương nhưng
đã không đi đến được kết quả cụ thể vì vẫn còn hiện hữu một số khác biệt quan
điểm giữa 4 quốc gia. Tuy nhiên, theo những nhận định tích cực thì Bộ Tứ Kim
Cương coi như đã trở lại, và với cái nhìn địa chính trị mới về Ấn Độ – Thái
Bình Dương thay thế cho Châu Á – Thái Bình Dương, người ta tin rằng những nước
trong khu vực đã sẵn lòng cùng đối phó với sự bành trướng nguy hiểm của Trung
Quốc và bổ túc cho sự thiếu sót mới đây của Mỹ trong vai trò lãnh đạo so với
trước đây đến từ quan niệm đòi hỏi mọi quốc gia phải đóng góp “đồng đều”.
Vì bản chất của nguy cơ Trung Quốc song song với quyền
lợi trực tiếp của các quốc gia liên hệ, cuộc đối đầu tay đôi giữa Mỹ và Trung
Quốc sẽ dần dần được thay thế và ngày một cụ thể hơn bằng sự đối đầu giữa Trung
Quốc và Bộ Tứ Kim Cương với sự hỗ trợ ngày một rộng rãi hơn của các quốc gia
trong khu vực.
Thái
độ của Cộng Sản Việt Nam
Một sự thật đã rành rành là Đảng và Nhà Nước CSVN đã
bị Trung Cộng không chế tới mức không còn có thể “cựa quậy” được nữa.
CSVN cũng biết rằng để thoát ra khỏi sự khống chế của
Trung Cộng họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc dựa vào Mỹ, và cách cụ thể
nhất là ủng hộ Bộ Tứ Kim Cương. Tuy nhiên, vì bị khống chế trên căn bản những
quyền lợi cá nhân, những người lãnh đạo CSVN không còn khả năng tự thoát ra khỏi
vòng kim cô của Trung Cộng.
Lối thoát duy nhất cho nước Việt Nam để không rơi
vào vòng nô lệ Trung Cộng là sự ra đi của Đảng và Nhà Nước CSVN.
Và để được như vậy thì cần sự tỉnh thức của người
dân Việt, và nói riêng là những người cán bộ cộng sản còn lương tri.
Đỗ
Đăng Liêu
No comments:
Post a Comment