Tác
giả: Chin-Hao Huang
Biên
dịch: Đinh Nho Minh
Posted on 07/12/2018 by The Observer
China,
the United States and the Future of Southeast Asia. David B. H. Denoon
chủ biên. New York: New York University Press, 2017. Bìa mềm: 464 trang.
Tập sách mới nhất do David B.H. Denoon chủ biên tập
hợp bài viết từ các chuyên gia nổi tiếng về an ninh và quan hệ quốc tế ở Đông
Nam Á. Điểm nhấn chung của tập sách này là: khi Đông Nam Á đang trở thành một
trọng tâm mới trong gia tăng đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, các nước Đông
Nam Á sẽ có ảnh hưởng như thế nào tới vận động quyền lực đang thay đổi nhanh
chóng ở khu vực?
Mức độ phát triển kinh tế và chính trị đa dạng cùng
ưu tiên đối ngoại khác nhau của mười nước ASEAN khiến việc tìm được một chính
sách chung của khu vực này đối với Trung Quốc và Hoa Kỳ trở nên khó khăn. Ở phần
giới thiệu, Denoon thừa nhận rằng “mẫu hình hành vi của các thành viên ASEAN là
khá đa dạng” (trang 6). Tuy nhiên, vẫn có một vài xu hướng chung.
Ví dụ, vị trí địa lí gần nhau buộc các quốc gia
trong khu vực phải có quan hệ giao thương và kinh tế gần gũi với Trung Quốc. Chẳng
hạn, Thái Lan ngày càng ngả về Trung Quốc, một phần do số lượng lớn các thương
nhân người gốc Hoa vốn nhận thấy lợi ích trong việc duy trì quan hệ gần gũi với
Trung Quốc. Ở Chương 8, Catharin Dalpino cho thấy Lào và Campuchia cũng được lợi
từ sự hào phóng của Trung Quốc trong những năm gần đây, đặc biệt từ nguồn vốn hỗ
trợ phát triển, cho vay ưu đãi và đầu tư ngày càng gia tăng vào các dự án cơ sở
hạ tầng lớn từ đập thủy điện đến đường cao tốc và đường sắt. Dalpino kết luận
trong chương của mình là ảnh hưởng của quân đội lên chính trị ở Myanmar có
nghĩa là quan hệ kinh tế sẽ tiếp tục có vai trò then chốt trong quan hệ Trung
Quốc-Myanmar. Tương tự, các nước giáp biển ở Đông Nam Á cũng muốn có quan hệ
kinh tế gần gũi với Trung Quốc hơn. Vikram Nehru đã miêu tả rất kĩ vấn đề này ở
chương mở đầu. Các nước có kinh tế phát triển cao như Singapore, Malaysia,
Brunei và Indonesia tiếp tục phát triển và dựa vào Trung Quốc trong vai trò một
thị trường xuất khẩu hấp dẫn.
Cùng lúc, các tác giả viết rằng mặc dù đang có sự hợp
tác ngày càng sâu rộng về mặt kinh tế, xu thế đối đầu và phòng bị nước đôi
(hedging) cũng đang ngày càng phổ biến trong quan hệ an ninh Trung Quốc-Đông
Nam Á. Ví dụ, Việt Nam có quan điểm an ninh phức tạp đối với Trung Quốc. Như Trần
Trương Thủy đã chỉ ra ở Chương 6, bất chấp sự tương đồng về ý thức hệ với Trung
Quốc, Việt Nam rất cảnh giác với ảnh hưởng quá mức của Trung Quốc, đặc biệt từ
sau vụ giàn khoan năm 2014 ở Biển Đông. Sự chia rẽ phe nhóm trong giới lãnh đạo
Việt Nam cũng cho thấy Hà Nội phải cân bằng giữa phái dân tộc chủ nghĩa chống Bắc
Kinh và phái thân Bắc Kinh. Tương tự, quan hệ an ninh của Philippines cũng đã gặp
nhiều phức tạp trong những năm gần đây do hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông,
đặc biệt là sự kiện Bãi cạn Scarborough năm 2012. Những quan chức và chính trị
gia muốn tăng cường hợp tác ngoại giao và an ninh với Trung Quốc buộc phải xem
lại quan điểm của mình khi có sự gia tăng hiện diện và bành trướng của Trung Quốc
trong vấn đề tranh chấp biển đảo. Phán quyết có lợi cho Philippines vào tháng 7
năm 2016 của Tòa Trọng tài thúc đẩy cảm giác nghi ngờ Trung Quốc trong dân
chúng Philippines. Tuy nhiên, các ưu tiên cấp cách về kinh tế và an ninh trong
nước đã áp đảo các quan ngại về ngoại giao, dẫn tới một bộ máy lãnh đạo mới
thân Bắc Kinh hơn vào năm 2016. Từ đó tới nay, bộ máy lãnh đạo này đã quan tâm
tới việc cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Sự quan ngại về sức mạnh cứng của
Trung Quốc tiếp tục chi phối bối cảnh an ninh tại Singapore, Malaysia, và
Indonesia. Evan Laksmana, Heng Yee Kuang và Zakaria Ahmad có phân tích cân bằng
trong Chương 4, 5 , và 7, và đều chỉ ra rằng các nước Đông Nam Á đều coi sự xác
quyết gia tăng của Trung Quốc như là một thách thức an ninh nguy hiểm và ngày
càng lớn đối với ổn định khu vực.
Đây cũng là nơi mà Hoa Kỳ có vai trò trong các toan
tính của khu vực. Nổi bật nhất là mối quan hệ an ninh mới hình thành và đang
phát triển giữa Hoa Kỳ và các nước Indonesia, Việt Nam và Myanmar, như
bài viết của Marvin Ott và Michael McDevitt trong tập sách cho thấy. Các nước
Đông Nam Á này đều từng có quan hệ phức tạp với Hoa Kỳ, nhưng họ đã quyết định
để lại quá khứ sau lưng để hướng về mục tiêu thực dụng hơn với Washington: mở rộng
và làm sâu sắc mối quan hệ an ninh với một cường quốc bên ngoài khác để đảm bảo
sự sống còn và vai trò của các nước này trong khu vực. Điều này cũng phản chiếu
chiến lược lâu nay của các nước nhỏ như Singapore và Brunei. Trong một khu vực
mà một số cường quốc bên ngoài đang tìm cách tranh giành ảnh hưởng, Đông Nam Á
đang ở vị trí đặc biệt có thể mở rộng quan hệ an ninh với nhiều đối tác. Thay
vì đối đầu trực tiếp với ảnh hưởng gia tăng và mối đe dọa an ninh từ Trung Quốc,
gần như tất cả các nước Đông Nam Á đều đang đa dạng hóa các mối quan hệ an ninh
của mình. Nói cách khác, các nước này đang “thuê” Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và cả
Nga đảm nhiệm vai trò đối trọng với Trung Quốc.
Những phân tích trong tập sách này khẳng định tầm
quan trọng của lựa chọn “omni-enmeshment” (can dự đa hướng) như là chính sách
chính của các nước trong khu vực trong việc can dự với các cường quốc bên
ngoài. Điều này khẳng định ý tưởng rằng mọi thứ càng động thì càng tĩnh. Như
Chu Shulong đã quan sát trong chương của mình, sự trỗi dậy của Trung Quốc diễn
ra từ từ trong nhiều thập niên thay vì diễn ra trong vòng một đêm hoặc bất ngờ.
Nó cho phép các lãnh đạo Đông Nam Á có thời gian để chuẩn bị và đối mặt với sự
dịch chuyển quyền lực không thể tránh khỏi này bằng những cách tinh tế, một điều
được thể hiện xuyên suốt tập sách tuyệt vời với nhiều bằng chứng thực nghiệm và
nghiên cứu sâu về các quốc gia này.
Tập sách này có đóng góp gì cho việc xây dựng lí
thuyết? Công luận, bối cảnh lịch sử, phát triển kinh tế, phe phái trong đảng, sự
chuyển tiếp lãnh đạo và bản chất của chế độ chính trị là vài yếu tố trong nước
có vai trò quyết định với chính sách đối ngoại của các nước Đông Nam Á. Có lẽ
chúng ta không thể đo được mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố này nếu chỉ dựa vào
các phân tích trong sách, khiến cho việc suy đoán các yếu tố này có ảnh hưởng
vào thời điểm nào trở nên khó khăn. Nhưng những luận điểm biến thiên theo lịch
sử và văn hóa trong tập sách là một điểm quan trọng nhưng chưa được nghiên cứu
đầy đủ: nó giải thích được những khác biệt trong lựa chọn về đối ngoại của các
lãnh đạo Đông Nam Á khi ứng xử với các cường quốc bên ngoài. Không có chính
sách nào có thể phù hợp được với mọi quốc gia, cũng như không thể có một chiến
lược đơn giản, hoặc là cân bằng quyền lực hoặc là phù thịnh, cho khu vực. Chỉ
riêng điểm này cũng đã là một đóng góp quan trọng cho lĩnh vực nghiên cứu này,
cũng như cho những ai muốn thực sự hiểu được chính trị và các ưu tiên của Đông
Nam Á.
-----------
Chin-Hao Huang là Phó Giáo sư Khoa học Chính trị và
Giám đốc Viện Nghiên cứu Quan hệ Quốc tế ở Đại học Yale-NUS.
Nguồn bài điểm sách bằng tiếng Anh: Contemporary
Southeast Asia Vol. 39, No. 3 (2017), pp. 587-89.
No comments:
Post a Comment