01/12/2018
https://vietbao.com/images/file/6yMOHYlX1ggBAN59/w600/ta-on-1.jpg
Trong nỗ lực xóa bỏ ký ức tập thể về sự kiện này, người ta đã không chỉ đục bia, mà còn đục cả thơ... một hành vi không chỉ xảo trá với lịch sử, vô ơn với chiến sĩ mà còn đớn hèn và nhục nhã về chính trị.
Trong nỗ lực xóa bỏ ký ức tập thể về sự kiện này, người ta đã không chỉ đục bia, mà còn đục cả thơ... một hành vi không chỉ xảo trá với lịch sử, vô ơn với chiến sĩ mà còn đớn hèn và nhục nhã về chính trị.
Nguyễn Anh Tuấn
*
Ngày 11 tháng 11 năm 2018, báo Nhân
Dân trang trọng loan tin: “Lễ kỷ niệm 100 năm ngày ký Hiệp ước đình
chiến kết thúc cuộc chiến tàn khốc trong lịch sử nhân loại, đã diễn ra tại Khải
Hoàn Môn trên đại lộ Champs Elysée ở trung tâm thủ đô Paris. Tham dự sự kiện
này có 72 nguyên thủ và lãnh đạo quốc gia.”
Ảnh: thenational
Tui lấy kính lúp xăm soi hoài nhưng không thấy
mặt mũi của “lãnh đạo quốc gia” Việt Nam đâu ráo trọi. “Đại diện của
dân tộc” này cũng khỏi có luôn, theo như lời phàn nàn của nhà
báo Lưu
Trọng Văn:
“Gã ngạc nhiên tại Paris trong lễ kỉ niệm 100 năm kết thúc Thế chiến lần
thứ Nhất đại diện của dân tộc gã không được mời. Ngài tổng thống Pháp đã mời
vua Ma rốc và lãnh đạo một số nước Bắc Phi để tri ân nhưng đã quên rằng giành lại
hoà bình và độc lập cho nước Pháp trong Thế chiến này có hơn 100.000 người VN của
tổ quốc gã... Chua xót cho những hương hồn dân Việt!”
Khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt tôi vẫn chưa
mở mắt chào đời nên không biết chi nhiều về những chuyện vào thưở
đã xa lắc, xa lơ, hồi đầu thế kỷ XX. May là vừa đọc được một bài
viết rất công phu (“Chiến Binh Gốc Việt Trong Lịch Sử”) của nhà
văn Giao
Chỉ:
“Khi Pháp thực hiện việc xâm lăng và cai trị Việt Nam (khi đó họ gọi là
An Nam) để bình định thêm các thuộc địa và gây chiến với nhiều quốc gia khác, lực
lượng binh lính người Việt được chiêu mộ để phục vụ cho mục đích chiến tranh
này, dấu chân của họ đã in khắp các chiến trường Âu Phi. Không thể tưởng tượng
con số thanh niên Việt trong 4 năm 1914-1918 đã có đến gần 100,000 ngưởi tham dự
đại chiến thế giới lần I tại Pháp…
Thời kỳ đó thanh niên Việt Nam đi lính cho Pháp tham dự đệ nhị thế chiến
dường như hiếm có các sĩ quan. Giỏi lắm chỉ là ông cai, thầy đội hay lên đến
quan quản tức là thượng sĩ đã là cao cấp lắm. Riêng có trường hợp đại úy phi
công anh hùng của quân đội Pháp là ông Đỗ Hữu Vỵ con trai của tổng đốc Nam Kỳ Đỗ
hữu Phương.”
Wikipedia (tiếng
Việt) cho biết thêm:
“Trong số những phi công đầu tiên của Pháp xuất xứ từ Đông Dương được ghi
nhận có Phan Tat Tao, Cao Đắc Minh, Felix Xuân Nha (Nguyen Xuan Nha), Đỗ Hữu Vị,
nhưng Đỗ Hữu Vị được xem là nổi tiếng nhất. Vì vậy, chính phủ Pháp cho in hình
ông trên con tem phát hành khắp Đông Dương, lấy tên ông đặt cho nhiều trường học,
nhiều đường phố ở các thuộc địa và chính quốc.”
Nghĩa trang dành cho binh lính Đông Dương
tại Gironde, nơi những người con đất Việt yên nghỉ.
Ảnh & chú thích lấy từ: Việt Báo
Đỗ Hữu Vị từ trần vào năm 1916, hơn trăm năm
sau nước Pháp vẫn còn “trường học, đường phố” mang tên ông. Như thế – kể
ra – trí nhớ của dân Tây cũng không đến nỗi bạc bẽo gì cho lắm,
như bác Lưu Trọng Văn vừa mới than phiền. Ít nhất thì nó cũng đến
nỗi “bạc” như dân Ba Đình, Hà Nội. Họ xóa sổ liền đám Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam, ngay sau khi cuộc chiến Nam/Bắc vừa tàn.
Thân phận của những cán binh miền Bắc, hay
còn gọi là lính bác Hồ, cũng không khác mấy:
“Lúc tôi tình nguyện vào Nam, số học sinh của cả bốn lớp 10 của trường
chúng tôi vào chiến trường khoảng 120 người, vậy mà chỉ 2 người may mắn sống
sót, là tôi và một người nữa. Tôi thì bị bom làm điếc tai bên phải; người còn lại
là cậu Lương thì bị cụt một tay và trở nên ngớ ngẩn. Tất cả những bạn khác của
tôi không ai sống sót. Khi tôi đi tìm mộ của những bạn đã chết, tôi mới biết,
trong những trận đánh mà bộ đội miền Bắc thua, thì người ta xóa sạch dấu vết và
tên tuổi liệt sĩ không được ghi lại. Họ giải thích rằng dân tộc ta là dân tộc
anh hùng phải chiến thắng quân thù, nhưng trận này chưa thắng cho nên không thể
kiểm kê các liệt sĩ được. Cho nên hàng trăm người chết dưới đáy hồ, dưới đáy vực
mà hoàn toàn không ai tìm được tung tích.” (Đinh Quang Anh Thái. “Giọt Nước Mắt
Người Phụ Nữ Bên Thắng Cuộc.” Ký 2.
Người Việt Books: Westminster, CA 2018).
Chế
Lan Viên cũng ghi lại cái tâm cảm (gần) tương tự:
Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30 ...
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Chỉ một đêm, còn sống có 30 ...
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Rải rác trên Đường
Mòn Hồ Chí Minh, theo G.S. Nguyễn Văn Lục:
“Người ta phỏng đoán có khoảng 300.000 vừa là TNXP, vừa là cán binh bộ đội
đã đào ngũ hay mất tích hoặc chấm dứt đời sống. Bệnh tật như kiết lỵ, sốt rét
đã nhanh chóng hoàn tất cuộc đời của họ mà có thể chưa một ngày lâm trận. Thân
xác chỉ còn là những bộ xượng lụi tàn, nằm chờ chết như một niềm an ủi cuối
cùng.”
Nhặt nhạnh lại số hài cốt vương vãi khắp
nơi, khi đất nước tôi không còn chiến tranh, là việc của
những mẹ già lên núi tìm xương con mình hay của những
... nhà ngoại cảm, những liên lạc viên (không khả tín gì cho lắm)
giữa cõi âm và cõi dương – ở VN.
Trong cuộc chiến kế tiếp thì con số tử sĩ
và thương vong “nhẹ nhàng” hơn. Theo Đại
tá Phạm Hữu Thắng, chuyên gia về Campuchia thuộc Viện Lịch Sử Quân Sự, con
số binh sỹ Việt Nam thiệt mạng là gần bốn chục ngàn người. Ông cũng khẳng
định:
“Trong tay tôi có con số thống kê của ngành Quân y, Tổng cục Hậu cần, số
thương vong trong mười năm, cả bị thương và hy sinh là hơn 156.000.”
Trao đổi với BBC,
trong cuộc tọa đàm hôm 25/9/2014, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Huy đưa ra một số
liệu khác:
“Những con số đưa ra hiện nay cũng chưa chính xác lắm... Nhưng người ta
nói khoảng 55.000 binh sỹ, tức là bộ đội cộng với thanh niên xung phong Việt
Nam đã hy sinh trên chiến trường Campuchia thời gian đó.”
Đây là “cuộc chiến bị lãng quên” (theo như
cách nói của nhà báo Kevin
Doyle ) nên – thực ra – cũng chả ai bận tâm chi nhiều đến hậu
quả của nó, xá chi đến những bọ xương khô hay những thân xác bị tàn
phế.
Kế tiếp nữa là chiến tranh biên giới
Việt/Trung. Nó không “bị” nhưng “buộc” phải lãng quên, như cách nói
của FB Hồ
Hữu Hoành:
“ Không có lấy bất cứ một bài học, một nội dung về nó trong
sách giáo khoa, từ tiểu học cho đến đại học. Đã có thời, nhắc đến
nó cứ như nói chuyện húy kỵ, đụng đến nhà vua... không dân tộc nào
đau thương và đầy kinh nghiệm với chiến tranh như Việt tộc. Nhưng không
có dân tộc nào, mà những kẻ ở thượng tầng sẵn sàng xóa bỏ lịch
sử, kiến tạo một sự thật khác, như ở dân tộc này.”
Họ “xóa bỏ lịch sử, kiến tạo một sự thật
khác” cách nào?
Báo Tiền
Phong, số ra ngày 31 tháng 7 năm 2014 cho biết:
“Tháng 2.2011 trong chuyến đi thu thập tư liệu biên soạn lịch sử sư
đoàn, đại tá Đỗ
Phấn Đấu, Chính ủy hiện tại của Sư đoàn 337 mới phát hiện ra rằng cột
bia chiến thắng Khánh Khê đã bị hư hại nhiều. Trên tấm bia nhiều dòng chữ đã bị
phai mờ, có chỗ còn có dấu hiệu bị hủy hoại. Nơi đặt cột bia cũng nằm trong khu
vực xây dựng công trình thủy điện mà nay mai sẽ không còn dấu tích.”
Bẩy năm sau, vào ngày 17 tháng 2 năm 2018,
blogger Nguyễn
Anh Tuấn cho biết thêm chi tiết:
“... trong nỗ lực xóa bỏ ký ức tập thể về sự kiện này, người ta đã không
chỉ đục bia, mà còn đục cả thơ... một hành vi không chỉ xảo trá với lịch sử, vô
ơn với chiến sĩ mà còn đớn hèn và nhục nhã về chính trị.”
Đối với những kẻ “xảo trá với lịch sử, vô ơn với
chiến sĩ” thì không có tư cách gì để đại diện cho dân tộc Việt Nam.
Họ không được mời tham dự Lễ Kỷ Niệm Một Trăm Năm Kết Thúc Thế Chiến Thứ
Nhất, theo tôi, là chuyện chả có gì đáng để phàn nàn cả.
No comments:
Post a Comment