Nguyễn Quang Duy
4-9-2018
Tìm hiểu lịch sử là công việc vô cùng thiết yếu vì
có hiểu người xưa, có hiểu được lịch sử mới hiểu được vận mệnh nước nhà mà khôi
phục lại. Trên Diễn đàn BBC nhà báo Nguyễn Giang đưa ra một cách nhìn khá mới lạ
để ghi công và đánh giá những nhân vật lịch sử đã đóng góp cho việc truyền bá
chữ Quốc ngữ. “Các vị truyền giáo có công tạo ra bộ mẫu chữ, nhưng việc này
không có gì quá độc đáo hay quá khó khăn và giả sử nếu không có họ thì việc đó
cũng có thể làm được sau này.”
Ý kiến cũng nói rằng Trung Hoa, Thái Lan, Ấn Độ, Ả Rập,
Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều quốc gia khác đều đã có những văn tự bằng tiếng La Tinh
nhưng chưa bao giờ trở thành chữ Quốc ngữ của họ. Cũng theo nhà báo Nguyễn
Giang, Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ xóa hàng rào cản tâm lý quá lạc hậu để giới sỹ
phu yên tâm dùng chữ Quốc ngữ.
Và rằng chính nỗ lực tiên phong quảng bá Quốc ngữ là
của trí thức miền Nam và nhờ chính sách tiến bộ, khoa học của chính quyền Pháp
tại Đông Dương tạo đà cho chữ Quốc ngữ lan tỏa. Nhưng tôi nghĩ cũng lạ tại sao
ba nước Việt, Miên và Lào có chung hoàn cảnh, đều là thuộc địa của Pháp mà Miên
và Lào lại không sử dụng La Tinh làm chữ Quốc ngữ.
Ở đây cần xem công lao các vị vua cuối cùng của triều
Nguyễn, dù họ không thực sự nắm quyền thời Pháp thuộc.
Sắc lệnh
của Vua Thành Thái
Theo sử gia Liam Kelley (2016) vào đầu thế kỷ XX cả
người Pháp lẫn những nhà cách mạng đều không đủ quyền lực để chữ Quốc Ngữ có thể
lan sâu rộng xuống đến tận cấp độ làng quê. Qua nghiên cứu những nguồn tài liệu
trong giai đoạn này, sử gia Liam kết luận chính nhà Nguyễn mới đi đầu trong
công cuộc cải cách giáo dục.
Trong bài “Emperor Thành Thái’s Educational
Revolution”, sử gia Liam Kelley (2016) đã công bố sắc lệnh của vua Thành Thái
được lưu trữ trong sách Đại Nam Hội Điển Sử Lệ Tục Biên. Bài viết được Nguyễn Hồng
Phúc lược dịch có đoạn như sau:
“Hoàng đế Thành Thái đã tuyên bố trong một sắc lệnh
rằng vào năm trị vì thứ 18 của ông (năm 1906), cha mẹ có thể quyết định việc
cho con theo học một trường ấu học Hán văn hoặc một chương trình giảng dạy Nam
âm (Quốc ngữ).
Với những người học theo chương trình Hán văn, sẽ có
một cuốn sách giáo khoa được soạn ra nhằm giới thiệu những từ chữ Hán theo cấp
độ khó dần. Nó cũng bao gồm một danh mục các Hán tự kèm theo phiên âm và định
nghĩa bằng quốc ngữ được dùng trong tài liệu.
…Trong khi, một cuốn sách giáo khoa bằng quốc ngữ
khác sẽ được soạn ra để dạy những người theo chương trình học ‘Nam âm’ nhằm giới
thiệu cho họ những thông tin cơ bản về xứ Đông Dương, thiết chế cai trị của nó,
những phong tục tập quán…
Thêm vào đó, cũng có thêm một cuốn sách nữa được dịch
từ Hán văn sang Nam âm nhằm cung cấp những loại thông tin mà học viên đang luyện
thi khoa cử cần biết. Bản dịch này được soạn ra cho những người không muốn thi
khoa cử, nhưng nó vẫn được đưa vào chương trình để cho họ biết thêm về những gì
mà những người đang luyện thi khoa cử phải học…”
Sắc lệnh này vô cùng quan trọng vì khi nhà vua ra lệnh
sử dụng chữ Quốc ngữ là nhà vua đã công khai ý định muốn thấy tầng lớp quan lại
và sỹ phu phải thoát khỏi ảnh hưởng Trung Hoa trong giáo dục, văn hóa, và nhất
là tư tưởng.
Vừa
thoát Trung vừa chống Pháp
Xin nhắc lại về cuộc đời vị vua trẻ tuổi. Vua Thành
Thái lên ngôi năm 1889, đến năm 1907 bị Pháp ép thoái vị. Ngài bị quản thúc ở
Vũng Tàu rồi đến năm 1916 bị đày sang đảo Réunion. Vua là người cầu tiến, học
tiếng Pháp, có hiểu biết khá toàn diện, cắt tóc ngắn, mặc âu phục, phong cách của
người theo tân học.
Nhà Vua thường xuyên tiếp xúc với sỹ phu và dân
chúng, đồng thời trọng dụng nhiều nhân tài, thanh liêm, đức độ với hy vọng khôi
phục và canh tân đất nước. Sắc lệnh cho dạy quốc ngữ chính là văn bản ủng hộ
Phong Trào Duy Tân (1906) và Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) thúc đẩy việc theo tân
học và dùng chữ quốc ngữ.
Cắt tóc ngắn trở thành một dấu hiệu của người theo
tân học. Nhiều thanh niên lúc ấy sắm cho mình một cái kéo, đi tuyên truyền, vận
động cắt tóc và vận động canh tân. Đến khi Vua bị người Pháp ép thoái vị năm
1907 hình ảnh một vị vua yêu nước, chống Pháp, cắt tóc ngắn nhanh chóng lan tỏa
xuống đến tầng lớp nông dân.
Tháng 3 năm 1908, bắt đầu từ tỉnh Quảng Nam, nông
dân đầu cắt tóc ngắn lũ lượt kéo đến các phủ huyện đòi giảm sưu giảm thuế. Tất
cả đều hớt tóc ngắn đi thành đoàn, phong trào mở rộng vào Nam đến Bình Định,
Phú Yên và ra Bắc đến Nghệ An, Hà Tĩnh. Pháp và triều Nguyễn gọi cuộc biến động
này là Giặc cắt tóc, ở Bình Định gọi là Giặc đồng bào, sau nầy được đổi lại là
cuộc Dân biến Trung kỳ.
Đây là cuộc đấu tranh bất bạo động đầu tiên trong lịch
sử Việt Nam và đoàn biểu tình lấy biểu tượng là Vua Thành Thái một vị vua yêu
nước, theo tân học và chống Pháp. Như vậy ngay từ đầu thế kỷ thứ 20, người Việt
đã công khai thực hành phương pháp đấu tranh bất bạo động với biểu tượng vua
Thành Thái, có tổ chức, có chiến thuật, có mục tiêu và có chiến lược một cách rất
rõ ràng.
Cuộc đấu tranh bất bạo động bị Pháp đàn áp dã man.
Nhiều người tổ chức và tham dự bị bắt, phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục
bị dập tắt.
Các vị
Vua tiếp tục cải cách
Năm 1907 vua Duy Tân tiếp nối việc cải cách giáo dục
bằng cách cho thành lập Bộ Học nhằm cai quản việc học hành và thi cử. Thượng
thư Bộ Học Cao Xuân Dục là một nhà giáo dục cổ vũ thực học, thực tài, bỏ đi kiểu
học từ chương, xa rời thực tế và chủ trương phát triển nền giáo dục “không học
vì bằng cấp” mà phải học lấy thực tài để ra giúp dân, giúp nước. Đáng tiếc ông
lại hết sức bài bác chữ Quốc ngữ, nhưng không phải vì thế mà chữ Quốc ngữ bị
đưa ra khỏi nền giáo dục.
Theo Trần Gia Phụng từ năm 1909, chương trình thi
Hương bắt buộc thí sinh phải làm các đề thi luận văn bằng cả chữ Hán lẫn chữ Quốc
ngữ. Ngày 26 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 28/12/1918) vua Khải Định
ra đạo dụ chính thức bãi bỏ khoa cử kiểu Hán học. Năm 1919 là năm cuối mở khoa
thi Hương ở Huế, từ đó chữ Quốc ngữ thành chữ viết chính thức của người Việt
Nam.
Vai trò
của các ông giáo trường làng
Bên cạnh các trường công do triều đình và người Pháp
lập ra là một hệ thống trường tư do các thầy đồ sau chuyển thành thầy giáo làng
giảng dạy. Mỗi làng có khi lên đến vài ba trường, hoặc dạy ở nhà thầy, hoặc ở
nhà người giàu có nuôi thầy cho con ăn học và cho con các nhà lân cận trong
làng theo học. Thầy đồ đa số là những người có học, có người đỗ tú tài, có người
là quan hồi hưu mở lớp dạy học. Thầy đồ hoàn toàn tự do không chịu sự giám sát
của triều đình.
Mặc dầu được tự do mở lớp giảng dạy giới thầy đồ vẫn
giữ lòng trung với các vua nhà Nguyễn và với sách Thánh hiền. Các thầy đồ quyết
liệt chống lại các chính sách giáo dục của nhà cầm quyền Pháp với quan niệm chữ
Quốc ngữ là sản phẩm của ngoại bang và là công cụ của các nhà truyền giáo. Với
họ, chữ Hán giáo dục về luân lí, về lịch sử, là chữ Thánh hiền còn Quốc ngữ chỉ
để đọc báo, đọc Kinh Thánh, những sản phẩm của quân xâm lược, biết đọc chẳng
ích lợi gì.
Nhưng khi sắc lệnh cho dạy Quốc ngữ của vua Thành
Thái được ban ra thì chính các thầy đồ đã thay đổi đã tự học chữ Quốc ngữ để
truyền dạy lại cho học sinh. Ba lớp Đồng ấu học trước khi học sinh vào tiểu học
đều do các thầy giáo trường làng dạy hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ. Nhờ thế chữ
Quốc ngữ trở thành phổ thông đại chúng.
Những bộ sách giáo khoa như Sử ký địa dư giáo khoa
thư, Luân lý giáo khoa thư, Quốc văn giáo khoa thư, được học giả Trần Trọng Kim
và các cộng sự biên soạn để dạy lớp ấu học trường làng. Bộ sách giáo khoa ‘Việt
Nam Sử lược’ được học giả Trần Trọng Kim soạn để dạy các lớp cao hơn và đã hoàn
toàn chỉ cho những người đã biết Quốc ngữ.
Lên lớp nhì và lớp nhất ở trường chính phủ, mỗi tuần
chỉ dạy chữ Quốc ngữ một giờ rưỡi và bậc trung học chỉ dạy ba giờ. Thời gian
còn lại học sinh được dạy bằng tiếng Pháp và hầu hết do người Pháp dạy. Từ đó
ta thấy được căn bản tiếng Việt, sử địa, luân lý, văn hóa về Việt Nam của học
sinh hầu như đều thu nhận được từ các thầy giáo trường làng.
Vua Bảo
Đại là người Tây Học
Tốt nghiệp trường Khoa học Chính trị Paris về nước,
vua Bảo Đại bắt tay ngay vào việc cải cách đất nước, mong từng bước khôi phục lại
chủ quyền quốc gia. Ngày 10/12 năm 1932, vua Bảo Đại cho công bố đạo dụ nước ta
theo chế độ Quân chủ Lập hiến, nhà vua sẽ trực tiếp điều khiển nội các và cho cải
cách hành chính, giáo dục và tư pháp.
Một nội các mới đã được thành lập gồm những người trẻ
theo tân học như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Đệ… Bộ Học được đổi tên
thành Bộ Giáo dục và giao cho Phạm Quỳnh từng là chủ nhiệm báo Nam Phong một
người luôn tha thiết với chữ Quốc ngữ điều hành.
Các cuộc cải cách của vua Bảo Đại đều bị người Pháp
cản trở, riêng cải cách về giáo dục nhờ Phạm Quỳnh được người Pháp tin nên ít bị
cản trở. Chữ Quốc ngữ được tăng giờ dạy ở các trường công. Nhờ thế sau khi
Nhật đảo chánh Pháp, trao trả độc lập cho Việt Nam, chỉ trong vòng 5 tháng
chính phủ Trần Trọng Kim đã thực hiện thành công cuộc cải cách lấy chữ Quốc ngữ
làm ngôn ngữ chính trong giáo dục.
Bộ trưởng Giáo dục Hoàng Xuân Hãn có công lao lớn
khi soạn cả sách toán và kỹ thuật bằng tiếng Việt Quốc ngữ để dạy ngay trong
niên học 1945-46 tại miền Bắc và miền Trung. Từ 1948 đến 1955, chính phủ Quốc
gia Việt Nam tiếp tục lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy đến hết bậc trung
học.
Bắt đầu
từ chuyển biến tư tưởng thời Thành Thái
Học tiếng Pháp, theo tân học thoát khỏi tư tưởng
Trung Hoa nên vua Thành Thái đã hiểu rõ những khái niệm về tự do, dân chủ, quốc
gia, dân tộc, quân chủ, cộng hòa… hiểu từ sách Pháp không phải từ sách Trung
Hoa. Thay đổi quan trọng nhất của nhà vua là về mặt tư tưởng, về ý thức đất nước
không còn của nhà vua nữa mà là của quốc gia của dân tộc.
Quốc gia là một thực thể độc lập có chủ quyền thoát
khỏi tư tưởng thuộc địa hay chư hầu Trung Hoa. Khái niệm ‘quốc gia’ bắt đầu được
sử dụng đối nghịch với ‘thuộc địa’, ‘chư hầu’. Mặc dù không có quyền lực trong
tay các vua triều Nguyễn đã thực hiện thành công cải cách từ giáo dục, văn hóa,
đến chính trị đưa đất nước thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa.
Bài học các vua triều Nguyễn đã thực hiện là nếu muốn
cải cách giáo dục phải bắt đầu bằng thay đổi tư tưởng cho chính mình. Vì thế,
theo tôi, nhu cầu thiết yếu của đất nước ngày nay không phải là cải cách tủn mủn
về phát âm, ký tự Quốc ngữ mà phải vừa thoát khỏi ý thức hệ cộng sản, vừa
thoát Trung để khôi phục các nền tảng cơ bản cho Việt Nam.
Nguyễn
Quang Duy
Melbourne, Úc Đại Lợi
4/9/2018
____
Tài
Liệu Tham Khảo
Liam Kelley (2016), Cải Cách Giáo Dục Của Vua Thành
Thái, Nguyễn Hồng Phúc lược dịch.
Nguyễn Giang, Những người giúp chữ Quốc ngữ ‘làm
nên’, BBC World Service
Trần Gia Phụng, Lịch sử chữ Quốc Ngữ.
No comments:
Post a Comment