Phạm
Việt Vinh chuyển ngữ.
03/08/2018
Trịnh
Xuân Thành tại tòa án Hà Nội. Ảnh: Doan Tan/VNA/dpa
Một
người Việt Nam nộp đơn xin tỵ nạn tại Đức – rồi bị bắt cóc bởi cơ quan mật vụ của
chính đất nước mình. Tại sao chuyện này lại có thể xảy ra?
Bài
viết dưới đây xuất hiện lần đầu hôm 21.07.2018 trên tờ báo „taz“ của Đức và sau
đó được cập nhật vào ngày 02.08.2018. „taz“ là một tờ báo độc lập thuộc về một
tổ hợp của hơn 18.000 thành viên đầu tư góp sức cho tự do báo chí.
Vào
01.08.2001, một thanh niên Việt Nam, 25 tuổi, sang Đức và đến nhận một phòng
đơn tại ký túc xá ở thành phố nhỏ Murnau bên hồ Staffelsee thuộc bang Bayern để
bắt đầu một khóa học tiếng Đức. Anh ta tham gia khóa học theo lời mời của Cộng
hoà liên bang Đức, nói rõ hơn là: của Cơ quan mật vụ hải ngoại- Tổng cục tình
báo liên bang BND.
16
năm sau đó, vào ngày 23.07.2017, cũng người đàn ông này lại đến nhận một căn
phòng ở nước Đức, tại nhà trọ „Kiez-Pension“ ở Berlin-Friedrichshain. Nhưng lần
này anh ta ở lại không lâu, bởi vì ngay trong ngày hôm đó, anh ta đã báo cắt
phòng. Đó là Vũ Quang Dũng, nhân viên Tổng cục 1 của Bộ công an Việt Nam. Một
cơ quan mật vụ!
Cũng
vào ngày hôm đó, một người Việt Nam khác biến mất ngay tại giữa Berlin. Anh ta
là Trịnh Xuân Thanh và trước đó mấy tuần đã nộp đơn xin tỵ nạn tại nuớc Đức.
Anh ta cho rằng mình là nạn nhân của cuộc giao tranh quyền lực trong nội bộ ban
lãnh đạo nhà nước cộng sản. Chính quyền Việt Nam tuyên bố rằng anh ta phạm tội
tham nhũng.
Hơn
một tuần sau đó, trên truyền hình nhà nuớc Việt Nam, Trịnh Xuân Thanh xuất hiện
với khuôn hình gầy rộc, gần như một bóng ma. Anh ta nói rằng mình đã tự nguyện
quay trở về quê hương. Án tử hình đang chờ đón anh ta.
Ngay
từ khi đó, các nhà điều tra của Đức, những người đang tìm kiếm anh ta, đã tin
chắc rằng: Trịnh Xuân Thanh đã bị bắt cóc- bởi cơ quan mật vụ của chính đất nước
mình.
Kể
từ đó đến nay đã là một năm. Bộ ngoại giao Đức hồi đó đã nói đến „một vi phạm
trắng trợn, có một không hai chống lại luật pháp Đức và chống lại Công pháp quốc
tế“, hai nhân viên ngoại giao Việt Nam phải ra khỏi nước Đức. Những biện pháp
sau đó như hủy bỏ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, giảm viện trợ phát
triển, bắt các cán bộ Việt Nam mặc dù có hộ chiếu ngoại giao cũng phải xin Visa
nếu muốn nhập cảnh vào Đức, đã diễn ra một cách kín tiếng hơn.
Khi
đó, chính phủ Liên bang thông báo rằng họ không biết tí gì về kế hoạch bắt cóc,
và vì vậy, sự vụ xảy ra- mặc dù rất đáng tiếc, nhưng họ đã không thể ngăn chặn.
Không có truy vấn, không có xử lý tại Quốc hội.
Đó
là một năm yên tĩnh đáng ngạc nhiên.
Chỉ
có các nhà điều tra- cho đến tận hôm nay, vẫn đang chắp nối các sự kiện để biết
được chuyện gì đã thực sự xảy ra. Cho đến gần đây, một người đàn ông bị nghi là
liên quan đến sự vụ đã phải đứng trước Tòa thượng thẩm Berlin. Hôm 25 tháng Bảy
anh ta đã bị tuyên án tù ba năm và mười tháng. Tòa thấy rằng việc anh ta là một
thành tố của nhóm bắt cóc thuộc cơ quan mật vụ Việt Nam đã được minh chứng rõ
ràng.
Anh
ta đã đứng ra thuê nhiều chiếc xe được sử dụng cho việc theo dõi cũng như được
trực tiếp dùng cho việc bắt cóc. Anh ta cũng có mặt khi phòng khách sạn của nhân
vật bị nghi là cầm đầu nhóm bắt cóc được dọn dẹp. Khi đó, anh ta đã luôn biết rằng
những việc mình làm thuộc về một hoạt động mật vụ. Trước tòa, bị can đã thú nhận
sự tham gia của mình trong vụ bắt cóc. Việc thú nhận đã góp phần thu ngắn thời
gian xử tòa và làm giảm mức phạt đối với anh ta.
Trong
phần lý giải án quyết, tòa nêu rõ: vụ bắt cóc là một „vi phạm trắng trợn chủ
quyền của nước Đức“.
Trong
lịch sử đương đại của Cộng hoà liên bang Đức, vụ này là „có một không hai“.
Nhưng
đây không chỉ đơn giản là một vụ hình sự. Người Việt ở Đức đang phải tự hỏi là
họ thực sự đứng về phía nào- có những nguời trong họ đã bị dọa giết. Và cho đến
ngày hôm nay vẫn có câu hỏi chưa được trả lời- đó là: Lẽ ra chính quyền Đức đã
có thể ngăn chặn được vụ bắt cóc hay không?
Chương
1: Một vụ xử đặc biệt
Đầu
năm 2018, tại Toà thượng thẩm, Berlin. Ủy viên tổng công tố liên bang truy tố một
người đàn ông với cáo buộc rằng người này đã tham gia vào vụ bắt cóc. Theo bản
cáo trạng, người đàn ông này đã thuê ba chiếc xe hơi dùng cho việc bắt cóc cũng
như đã đứng ra lo liệu phòng khách sạn cho nhân vật bị nghi là chỉ huy vụ bắt
cóc. Đó là những tội nhỏ, sức nặng của chúng chỉ được đặt ở câu phụ: „Hoạt động
gián điệp mật vụ“. Và: „Nhằm chống lại Cộng hòa liên bang Đức“.
Người
đàn ông đó là N. H. Long. Anh ta 47 tuổi và có một văn phòng chuyển tiền tại
Praha.
Nhưng
Tòa không chỉ có chủ đích làm rõ những gì người đàn ông này thực hiện. Hai nữ
thẩm phán cùng với ba nam thẩm phán khác của Tòa còn muốn đưa ra ánh sáng hành
trình xuyên quốc gia của nạn nhân bị bắt cóc. Họ thẩm cung những nhân chứng đã
nhìn thấy Trịnh Xuân Thanh cùng với người tình bị lôi lên chiếc xe VW-Bus vào
lúc 10h47 khi hai người này đi dạo tại Tiergarten ở Berlin. Họ được các nhân
viên cảnh sát điều tra tường thuật lại việc những người bị bắt cóc đã bị chở đến
Đại sứ quán Việt Nam và bị giữ tại đó như thế nào trong khi các nhà điều tra
lùng kiếm các nạn nhân bị bắt cóc.
N.H.
Long- bị can tại Berlin, có vẻ như không nhận thức được tất cả những gì đang diễn
ra. Anh ta còng lưng ngồi cạnh hai thông dịch viên, những người thông qua hệ thống
tai nghe dịch ngay lập tức sang tiếng Việt cho anh ta nghe những điều được nói.
Nhưng không ai có thể nói cho anh ta biết những suy luận đằng sau các câu nói
đó. Đã có lúc xảy ra một màn kịch nhỏ khi một nữ thẩm phán hỏi có đúng là anh
ta đang nhai kẹo cao su trong lúc xử tòa hay không. Phải một lúc sau anh ta mới
hiểu là mình phải nhả miếng kẹo cao su ra. Rồi ngay cả sau khi làm như vậy, anh
ta vẫn giữ lại ánh mắt trống rỗng, coi như mọi chuyện chả liên quan gì đến bản
thân.
Và
mọi chuyện cũng đúng là như vậy.
Các
phiên xử bị nạp đầy không khí chính trị và chuyển động trên một địa hình lạ lẫm.
Trong khu vực dành cho khán giả có những nhân viên của Đại sứ quán Việt Nam ngồi
theo dõi kỹ lưỡng quá trình xét xử. Với thời gian, tòa án Đức đã có kinh nghiệm
với chủ nghĩa Hồi giáo bạo hành. Nhưng với chính thể Việt Nam thì chưa.
Vì
vậy mà một câu hỏi đơn giản cũng có thể gây lên một cơn phấn khích. Vợ của nạn
nhân bị bắt cóc được triệu tập tới tòa với tư cách một nhân chứng. Một nữ thẩm
phán hỏi: „Đã có khi nào chồng bà nói đến chuyện ông âý đã về Việt Nam như thế
nào không?“ Người đàn bà thận trọng nhìn về phía bên trái, nơi luật sư hỗ trợ
nhân chứng ngồi. „Tôi có thể đề nghị phiên tòa gián đoạn một lúc được không?“
Vào
buổi sáng, cô được ba cảnh sát bảo vệ đưa qua cầu thang kín dẫn thẳng vào phòng
xử số 145a. Đó là một người phụ nữ mảnh dẻ, cô ta mang một chiếc áo khoác thanh
lịch màu xanh sẫm, và che mặt bằng một tờ giấy.
Cô
tường thuật về bước đường công danh của chồng trong chính trị và kinh doanh,
cho đến khi anh ta trở thành người cầm đầu ngành xây dựng của Tập đoàn dầu khí
nhà nước và sau đó là Phó chủ tịch một tỉnh. Cô kể về việc cách đây nhiều năm
đã có những cáo buộc đối với chồng, và hồi đó đã có kết luận rằng chồng cô vô tội.
Và về việc sau này những người cầm quyền mới lại bới ra câu chuyện xưa.
Cô
kể về việc mình cùng ba con chạy trốn sang nước Đức. Về người chồng sang sau
vào ngày 20 tháng Tám 2016. Cô nói về cuộc sống kín đáo tại Berlin và về nỗi sợ
bị phát hiện. Mặc dù vậy, những cảnh báo từ Hà Nội cũng đến được với họ. Cảnh
báo rằng có những mật vụ đang tìm kiếm họ. Họ nghe rằng Việt Nam đã yêu cầu nước
Đức dẫn độ họ về. Vì vậy, vào tháng Năm 2017, Trịnh Xuân Thanh đã nộp đơn xin tỵ
nạn chính trị, chỉ một vài tuần trước khi anh ta bị bắt cóc. Thế nhưng anh ta vẫn
không thoát khỏi cánh tay dài của nhà nước chuyên chế.
Sau
một lúc gián đoạn ngắn, người đàn bà từ chối trả lời câu hỏi của nữ thẩm phán.
Trong phòng xử bùng ra cuộc tranh luận: Trong trường hợp này, cô ta có được ứng
dụng quyền từ chối trả lời của nhân chứng hay không?
Khi
đó, nữ luật sư của Trịnh Xuân Thanh vào cuộc. Do trong vụ này anh ta là phụ
nguyên đơn, nên Petra Schlagenhauf được phép phát biểu tại tòa: „Thân chủ của
tôi đang ngồi trong trại giam ở Việt Nam“, bà nói. „Nếu những lời khai về quá
trình bị đưa về Việt Nam bị gán cho anh ta, thì có thể anh ta sẽ bị trả thù!“
Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như bị can hay là luật sư bào chữa cho anh ta chuyển những
thông tin này về Việt Nam?
Cuối
cùng, tòa quyết định: Người đàn bà phải trả lời, nhưng không có khán giả trong
phòng xử, và tất cả các bên liên quan đến vụ xử phải có trách nhiệm giữ bí mật.
Cứ như là việc giữ trách nhiệm và luật lệ trước đó đã có thể ngăn cản ai đó
không gây ra vụ việc.
Chuơng
2: Những nhân viên mật vụ đã bị phát hiện như thế nào
Các
nhà điều tra (Đức) đã gặp may. Nếu không có những nhân chứng ở Tiergarten ghi lại
ký hiệu biển số của chiếc xe VW-Bus, và nếu như chiếc xe thuê không có hệ thống
định vị GPS, thì hoàn toàn có khả năng là người ta không bao giờ tìm ra những kẻ
bắt cóc.
Nhưng
nhờ vậy mà các nhân viên điều tra Ban điều tra án mạng số 4 của Cục cảnh sát
hình sự Berlin đã biết chính xác hành trình của chiếc xe bắt cóc. Nhờ vậy mà họ
tìm ra các khách sạn, nơi các mật vụ xuống xe, hai người xuống ngay sát khách sạn
Sheraton, chỗ Trịnh Xuân Thanh cùng tình nhân đã ở bốn đêm. Từ đó, các nhân
viên điều tra đã có thể xem kỹ những dữ kiện thu hình kéo dài vài tiếng đồng hồ
của các Camera theo dõi.
Trên
màn hình, một người đàn ông nhỏ bé, mặt tròn, đầu hói một nửa, thường xuyên xuất
hiện. Khi các nhân viên hình sự xác minh người này qua hệ thống tìm ảnh của
Google, thì một điều được khẳng định: Đây là một vụ bắt cóc được tổ chức từ giới
lãnh đạo cao nhất.
Người
đàn ông trên màn hình là trung tướng Đường Minh Hưng. Vị sếp phó cơ quan mật vụ
của Bộ công an, với hai ngôi sao vàng trên cầu vai, đã đích thân sang Berlin.
Và ông ta đăng ký vào khách sạn với tên thật của mình. Những kẻ bắt cóc cảm thấy
rất an toàn, chắc nhắn.
Một
kẻ bắt cóc khác bị xác minh do ông tướng chặt chẽ về chuyện tiền nong. Để làm đảm
bảo, khách sạn Berlin, Berlin chặn lại một số tiền trong thẻ tín dụng của của
tướng Hưng. Rồi do một sự nhầm lẫn, số tiền này không được tháo trả. Ông tướng
liền gửi một khiếu nại qua Email và thông báo một số Handy cho trường hợp khách
sạn cần liên hệ.
Số
điện thoại này gắn với trang Facebook của một người đàn ông khác. Các nhà điều
tra truy tên người này trong bộ lưu trữ dữ kiện. Và họ trúng mối. Đó là người
quen cũ: Vũ Quang Dũng, nhân vật đã từng nhận học bổng của BND (Tổng cục tình
báo liên bang Đức).
Năm
2001, anh ta đã ở nước Đức hơn tám tháng, BND chi trả 5.368,57 Euro cho 20 tuần
anh ta học tiếng Đức tại học viện Goethe. Điều này được ghi trong hồ sơ của BND
và của Sở ngoại kiều. Sau đó, anh ta thường xuyên qua lại Đức. Hiện thời, anh
ta là phó thủ trưởng của Cục „Hợp tác (đối ngoại)“ chuyên trách về quan hệ với
các cơ quan tình báo nước ngoài. Trong vụ bắc cóc, anh ta đóng vai trò quan
không phải chỉ vì biết tiếng Đức, mà còn do anh ta có nhiều quan hệ hữu dụng.
Thông
qua tất cả liên lạc điện thoại giữa các máy Handy có vai trò trong vụ bắt cóc,
các nhà điều tra đã dựng lên được một sơ đồ. Đó là mạng lưới hành động của những
kẻ bắt cóc.
Các
nhân viên điều tra dần dần tìm ra có bao nhiêu người đã dính líu tới âm mưu tội
phạm. Họ thấy có nhóm người xuất hành từ Praha, có nhóm người đi từ Paris, có
những nhân viên sứ quán- nhiều người hiện nay vẫn còn ở Đức do có quy chế miễn
trừ ngoại giao. Những nhân vật chủ chốt là Vũ Quang Dũng, ông tướng và một nhân
vật tình báo cao cấp khác. Các liên kết điện thoại của nhân vật này cho thấy
đây rất có thể là người đã cùng điều hành vụ bắt cóc. Về nhân vật này, cho đến
bây giờ các nhà điều tra vẫn chỉ biết rằng đó là một người đã từng sử dụng chiếc
Smartphone hiệu Samsung đi cùng với thẻ Sim nạp.
Ai
muốn đưa nạn nhân bị bắt cóc từ Đức về Việt Nam sẽ phải đứng trước một trở ngại:
Sớm hay muộn thì anh ta cũng phải leo lên một chiếc máy bay, mà ở tất cả các
sân bay, mọi hành khách đều bị kiểm tra. Đối với các nhà điều tra, có một điều
chắc chắn: Những kẻ bắt cóc phải tìm được một chuyến bay. Nhưng đầu tiên, nhóm
bắt cóc đã đi đến khách sạn Borik nằm trên một ngọn đồi tại Bratislava, thủ đô
của Slowakia.
Ba
ngày sau vụ phạm tội, hai chiếc xe hơi- một Range Rover và một Mercedes Vito,
phóng về địa điểm nêu trên. Các nhân viên điều tra tin chắc rằng, ngồi trong
hai chiếc xe trên là một số kẻ bắt cóc và nạn nhân bị bắt cóc. Đoạn tiếp theo
hoàn toàn không thuận cho các nhà điều tra. Mật vụ Việt Nam có vẻ như dễ dàng
thường xuyên qua lại nhiều nước khác nhau. Nhưng cảnh sát Đức thì không được
như vậy. Tổng công tố liên bang phải đề nghị xin hỗ trợ pháp lý, chuyện này cần
phải có thời gian, và trong trường hợp đối với Slovakia thì sự trả lời nhiều
khi lại rất mập mờ.
Vào
thứ Tư sau hôm xảy ra vụ bắt cóc, ở khách sạn Borik có một buổi tụ họp ly kỳ
không ai có thể sáng chế ra hay hơn của câu chuyện trinh thám. Chủ nhà là Bộ
trưởng nội vụ Slovakia hồi đó, ông Robert Kalinak. Bốn khách Việt Nam có mặt,
trong đó có tướng Hưng- người đã điều phối vụ bắt cóc tại Berlin, và một vị tướng
hai sao khác của Bộ công an. Người dẫn đầu phái đoàn tên là Tô Lâm. Ông ta là Bộ
trưởng công an Việt Nam, đích thân sếp của Bộ công an và của cơ quan mật vụ.
Theo
điều tra của „Taz“, cuộc gặp gỡ chỉ kéo dài 50 phút. Buổi gặp mặt này chỉ được
đề xuất ra mới một hay hai ngày trước đó, và là một cái cớ rất tốt để phía Việt
Nam hỏi mượn một chiếc máy bay của các người bạn Slovakia. Rồi tám người Việt
Nam nữa đến nhập vào đoàn, trong đó có Vũ Quang Dũng- người đã nhận học bổng của
BND hồi nào. Một nhóm bắt cóc trên đường trở về nhà.
Thậm
chí các vị khách cũng không có thời gian để ăn tráng miệng. Chiếc phi cơ A319
đang chờ họ tại cửa VIP của sân bay để đi về Moscow. Lúc 14 giờ 46, chuyến bay
SSG004 cất cánh, có 12 hành khách ngồi trong phi cơ, tất cả đều mang hộ chiếu
ngoại giao. Các nhà điều tra tin chắc rằng, một nguời trong đó là nạn nhân bị bắt
cóc Trịnh Xuân Thanh. Tất nhiên là anh ta không được mang tên thật của mình.
Vậy
là đã rõ: Một nước bạn trong khối EU đã dính líu vào vụ bắt cóc một người xin tỵ
nạn tại Đức. Khi nghi vấn này bung ra vào cuối tháng Tư, thủ tướng Slovakia,
ông Peter Pellegrini, đã cam đoan với Thủ tướng Merkel là sẽ làm sáng tỏ toàn bộ
sự vụ. Từ đó đến nay người ta chẳng thấy ông ta phát biểu gì nhiều.
Có
một điều các nhà điều tra không rõ là nạn nhân bị bắt cóc đã đi đường nào từ
Moscow về Việt Nam. Đầu tháng Tám 2017, một nữ nhân viên liên lạc của BKA được
giao nhiệm vụ tìm hiểu xem liệu có phải nạn nhân bị bắt cóc đã có mặt trong
chuyến bay VN64 cuả Vietnam Airlines, cất cánh ở sân bay Moscow-Domodedowo lúc
19 giờ ngày 27 tháng Bảy hay không.
Nữ
nhân viên liên lạc đặt lại câu hỏi này với cơ quan tình báo Nga FSB và ba tháng
sau báo cáo về Đức: Bà ta không nhận được trả lời, và do tin rằng sẽ chẳng bao
giờ có câu trả lời nên bà ta đã không hoài công hỏi lại.
Chương
3: Những người cộng sản và các kẻ phản bội nhân dân
Cứ
vài phút là anh ta lại đếm xem có bao nhiêu người theo dõi tin tức từ Berlin.
Phiên xử tạm dừng vào buổi trưa và nhà báo Lê Trung Khoa tận dụng thời gian đó
để thu hình Video: Bị can đã nhận tội tòng phạm, và Khoa đưa ra những chi tiết,
máy quay phim rung nhẹ. Khoa chuyển thông tin lên Facebook . Vài giờ sau đó đã
có gần 50.000 người xem tin của anh. Khoa cười nhẹ. Và anh cũng cười như vậy
khi nói về chuyện có người dọa giết mình.
Lê
Trung Khoa là một trong những nhà báo Việt Nam quan trọng nhất ở Đức. Ở quê
hương của anh chế độ kiểm duyệt báo chí hoành hành, trong bảng xếp hạng của tổ
chức „Ký giả không biên giới“ Việt Nam đứng hàng thứ 175 trên tổng số 180 nước.
Ở đó, người ta phải đi đường vòng mới vào được Thoibao.de, trang báo mạng của
anh. Mùa hè vừa qua, anh là nhà báo đầu tiên đưa tin về vụ bắt cóc. Và tin của
anh đã lan khắp thế giới.
Cho
đến năm 2016, Lê Trung Khoa vẫn là nhà báo- như người ta thường nói, trung
thành với lề chính. Nếu có lúc Sứ quán gọi điện và yêu cầu sửa một bài nào đó,
anh ta sẽ đáp ứng.
Cách
đây một năm anh đăng một bài nói về chuyến đi thăm Hội nghị thượng đỉnh G20 tại
Hamburg của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc với giọng điệu không được yêu
nước như Hà Nội mong muốn. Lê Trung Khoa nhận đuợc đe dọa giết, và anh đi gặp cảnh
sát. Tiếp đó, anh chụp ảnh mình đứng trước trụ sở cảnh sát cùng với thẻ nhà báo
Đức và chuyển ảnh này lên trang mạng. Thông điệp của anh là: Tôi là một nhà báo
Đức. Đây không phải là đất Việt Nam.
Kể
từ khi Lê Trung Khoa đưa tin về vụ bắt cóc, Sứ quán không gọi điện cho anh nữa.
Các công ty nhà nước đã thuê đăng quảng cáo trên báo của anh cũng dừng liên hệ.
Có những người gọi anh là kẻ phản bội nhân dân, có những người xin chụp ảnh
Selfìe cùng anh như thể anh là một ngôi sao.
Cộng
đồng Việt trở nên chật hẹp. Chuyện gốc gác từ cùng một tỉnh, việc xuất thân từ
Bắc hay Nam cũng quyết định đến cấu trúc của cộng đồng người Việt ngay tại Đức.
Và cả sự xa, gần đối với chính quyền trong nước. Các nhân viên ngoại giao là
khách quý trong những bữa tiệc gia đình hay là trong liên hoan hội đoàn, họ là
những người có thể mang lại cho đồng hương những hợp đồng làm ăn hấp dẫn.
Có
điều là bây giờ không phải ai cũng thích như vậy. Một người đàn ông kể với
„Taz“ là Sứ quán muốn giao cho anh ta làm người hướng dẫn du lịch cho một phái
đoàn công an, và anh ta đã từ chối. Anh ta sợ bị lôi kéo vào một thế lực mờ ám.
Một
người khác ngay sau khi vụ bắt cóc xảy đã đến gặp cảnh sát và khai rằng có một
người quen làm trong Sứ quán nhờ anh ta đến khách sạn lấy hành lý của một phụ nữ
Việt Nam bị bệnh đột xuất. Đó là hành lý của cô tình nhân đã bị bắt cóc, người
mà ngay tối hôm xảy ra sự vụ đã được đưa lên máy bay để về Hà Nội. Một khai báo
bất lợi cho một nhân viên ngoại giao- điều không ai có thể nghĩ đến trước đó một
tháng.
Hầu
như chỉ có người Việt theo dõi sự chuyển dịch lòng trung thành này trong phòng
xử của tòa án. Trên một hàng ghế dành cho khán giả của tòa là nhân viên của Sứ
quán, hai người đàn ông của các hãng thông tấn nhà nước (Việt Nam), thỉnh thoảng
lại có người nhà của bị can. „Cộng sản“, đó là cụm từ để chỉ họ từ những người
ngồi ở một hàng ghế khác, hàng ghế của những người đối lập, những người bị gọi
là „phản bội nhân dân“. Lê Trung Khoa ngồi ở phía trên bên cạnh các nhà báo
khác.
Cuối
tháng Sáu cảnh sát Berlin nhận được một thư tố giác. Nặc danh. Rằng lại có một
âm mưu khác đang nằm trong kế hoạch. Nhà báo Lê Trung Khoa phải không còn tồn tại.
Có thể là bị đầu độc hay là do xe hơi cán.
Cảnh
sát thông báo với „Taz“ rằng tình trạng an ninh của người Việt tại Đức vẫn
không có gì thay đổi. Nhưng cảnh sát vẫn mời Lê Trung Khoa lên nói chuyện và
đưa cho anh ta một số điện thoại. Khoa có thể gọi vào số này nếu như anh ta thấy
điều gì khác thường, hay là khi cảm thấy mình bị đe dọa.
Chương
4: Người Đức biết những gì?
Một
cơ quan mật vụ nước ngoài bắt cóc một người đàn ông- mà có vẻ như không ai biết
gì về tiến trình chuẩn bị tội ác. Nhưng khi lục kỹ những dữ kiện tại các bộ,
các cơ quan tình báo, các hồ sơ điều tra của các báo cáo cảnh sát, thì một bức
tranh hoàn toàn khác được hiện ra. Trước vụ bắt cóc, chính phủ Việt Nam đã cố sức
ép các cơ quan chức năng Đức và thậm chí cả các bộ trưởng Đức phải bắt và dẫn độ
Trịnh Xuân Thanh. Lẽ ra nhà đương cục Đức phải thấy rõ: phía Việt Nam muốn có
người này bằng bất cứ giá nào.
Mùa
thu 2016 Trịnh Xuân Thanh đào thoát khỏi Việt Nam. Để tìm kiếm anh ta, chính
quyền gửi nhân viên cảnh sát của Cục truy nã tội phạm C52 sang châu Âu. Họ tìm
kiếm anh ta tại Praha, tại Đức. Hai nhân viên của Bộ công an sang Berlin „để hỗ
trợ cho Sứ quán“, theo như thông báo của Cảnh sát liên bang gửi cho LKA, Cục cảnh
sát hình sự tiểu bang, vào năm đó.
Ở
Hà Nội, vào tháng Chín 2016, Bộ công an Việt Nam mời nhân viên liên lạc của Cảnh
sát liên bang Đức đến gặp. Không phải một, mà là ba lần. Anh ta nhận được một bức
thư, ghi người nhận là Bộ trưởng nội vụ Đức. Nằm trong thư là đề nghị truy tìm
và đề nghị dẫn dộ. Người cảnh sát liên bang chuyển tiếp lá thư này cho BKA, Tổng
cục cảnh sát hình sự liên bang. Một thời gian sau, đích thân Giám đốc của BKA
nhận được một cú điện thoại gọi từ Hà Nội. Vào thời điểm đó, Trịnh Xuân Thanh
đã nằm trong danh sách truy nã quốc tế của Interpol.
Rồi
lại có những phái đoàn bay sang nước Đức. Vào ngày 13 tháng Chín 2016 có những
người Việt Nam đến làm việc tại Trụ sở cảnh sát liên bang tại Potsdam, một lần
khác là vào ngày 22 tháng Chín. Phía Việt Nam cho biết họ sẵn sàng gánh chịu
phí tổn của chuyện dẫn độ.
Ông
Thủ tướng Việt Nam gửi một bức thư cho bà Angela Merkel. Bà nữ thủ tướng trả lời
rằng cơ quan tư pháp độc lập mới là nơi quyết định việc dẫn độ. Sau đó, bà trực
tiếp được ông Thủ tướng đề cập vấn đề, vào đầu tháng Bảy, bên lề Hội nghị thượng
đỉnh G20 tại Hamburg.
Từ
rất lâu, các cơ quan có chức năng tại Đức đã nhận thấy mức độ nghiêm trọng của
sự vụ. Họ cho rằng rất có thể Trịnh Xuân Thanh sẽ phải đối chọi với một tiến
trình xét xử mang tính chính trị. Yêu cầu dẫn độ không hoàn chỉnh về pháp lý, lời
cáo buộc lại mơ hồ: Trịnh Xuân Thanh bị cho là người cầm đầu một công ty nhà nước
đã làm ăn thua lỗ khoảng 130 triệu Euro. Lệnh bắt giam thậm chí còn không có chữ
ký của một thẩm phán.
Vì
thế, các nhà chức trách quyết định không bắt giữ người bị truy tìm. Họ chỉ ra lệnh
điều tra về nơi trú ngụ của anh ta. Tức là chỉ để tìm xem anh ta đang sống ở
đâu.
Nhưng
phía Việt Nam vẫn không lỏng tay: Họ thông báo cho phía Đức địa chỉ các nơi được
cho là người bị truy lùng đang lưu trú, họ cho biết cả các số điện thoại và ảnh
của biển số xe, những thứ có thể dẫn đến chỗ anh ta.
„Sau
này“, đó là lời khai trước tòa của một nhân viên Tổng cục hình sự liên bang BKA
phụ trách việc truy nã cùng với Interpol, „những điều trên quả thực có làm cho
chúng tôi ngạc nhiên“. Có rất nhiều những hiểu biết chi tiết được chắp nối một
cách kỹ lưỡng. Đó phải là kết quả làm việc của cơ quan mật vụ.
Hoàn
toàn không có những chỉ dấu cho thấy là phía Việt Nam đã công khai tuyên bố: Nếu
quý vị không dẫn độ Trịnh Xuân Thanh, thì chúng tôi sẽ bắt cóc anh ta.
Nhưng
lại có những tin đồn. Liệu đã có ai đó suy tính đến chuyện phải bảo vệ nhân vật
xin tỵ nạn này không? Đối với câu hỏi này, Bộ ngoại giao, Bộ nội vụ, Tổng cục bảo
vệ hiến pháp và Tổng cục tình báo hoàn toàn nín tiếng. Giới an ninh chỉ cho biết
rằng, Tổng cục bảo vệ hiến pháp- nơi phụ trách công việc chống gián điệp trong
nội địa, đã không nhận được thông tin gì từ phía Tổng cục tình báo. Họ chẳng được
thông báo rằng đã có những nhân vật tình báo với tên tuổi rõ ràng đã đi vào nước
Đức. Nhưng việc một cơ quan mật vụ nước ngoài dám làm một hành động như vậy,
thì quả thật là không ai có thể mường tượng được.
Thực
ra thì cũng đã có những chỉ dẫn cho thấy mật vụ Việt Nam đã nhiều lần bắt cóc
công dân của họ ở nước ngoài. Nhưng đó là ở Đông Nam Á, một nơi xa tít. Một vụ
bắt cóc của một cơ quan mật vụ nước ngoài diễn ra ngay tại Đức- người ta chỉ biết
những chuyện như vậy mới nhất là xẩy ra vào cuối thời kỳ Chiến tranh lạnh.
Giữa
Đức và Việt Nam tồn tại mối quan hệ có người gọi là „thực dụng“, có người gọi
là „tốt đẹp“. Năm 2011, bà Thủ tướng liên bang Merkel và Thủ tướng Việt Nam hồi
đó đã thoả thuận với nhau về một quan hệ hợp tác chiến lược giữa hai nước. Các
bộ tư pháp hợp tác chặt chẽ với nhau, các phái đoàn Đức đều đặn sang thăm Việt
Nam, và ngược lại cũng vậy. Và có một điều không nên quên: Cho đến năm 1989,
chính Bộ an ninh quốc gia (Stasi) của Cộng hoà dân chủ Đức đã giúp Việt Nam hiện
đại hoá hệ thống mật vụ.
Việt
Nam, đó là điểm thả neo của Phương Tây trong khu vực. Các cơ quan tình báo Đức
và Mỹ rất coi trọng việc gìn giữ quan hệ với Hà Nội, để từ đó có thể biết nhiều
hơn về Trung Quốc. Điều này có lẽ là quan trọng hơn một vụ xúc phạm ngoại giao.
Và quan trọng hơn so với số phận một kẻ xin tỵ nạn.
Và
thế là Vũ Quang Dũng- một nhân viên mật vụ đã từng tham gia khóa học tiếng tại
Đức, lại được đưa vào cuộc. Nước Đức vẫn thường xuyên mở các khoá học tiếng Đức
cho nhân viên cơ quan an ninh của các quốc gia đang còn lỏng lẻo về luật pháp
và an ninh. Cái đó được gọi là Trợ giúp đào tạo. Có điều là mối quan hệ này
không bao giờ chỉ mang lại lợi lộc cho một phía.
Vào
tháng Tư 2017 Vũ Quang Dũng xin cấp Visa sang Đức. Với giấy giới thiệu của một
nữ nhân viên Tổng cục tình báo Đức BND tại Hà Nội. Mục đích chuyến đi Đức: „Hội
đàm với Phó giám đốc BND“. Một lịch hẹn với giới chức cao nhất.
Một
người đàn ông khác cũng đã được nước Đức đào tạo: Đó là Lê Thanh Hải, anh ta là
nhân viên liên lạc của công an Việt Nam tại Berlin, tức là đầu mối liên hệ đối
với các nhà chức trách Đức. Năm 2012, tại Berlin, anh ta tham gia một chương
trình đào tạo có học bổng của Tổng cục cảnh sát hình sự liên bang. Chương trình
đào tạo bao gồm học tiếng Đức, thảo luận, thực tập. Chi phí cho anh ta, theo Bộ
nội vụ, là hơn 22.000,- Euro.
Cả
Lê Thanh Hải cũng tận dụng những mối quan hệ của mình. Anh ta chính là người
năm 2016 đã chuyển đến nhà chức trách Đức những chỉ dẫn cho việc truy nã. Anh
ta là người đã đến gặp cơ quan Cảnh sát liên bang. Khi mọi cố gắng không có kết
quả, vào ngày 25 tháng Bảy- hai ngày sau vụ bắt cóc, anh ta lên chiếc xe Passat
của mình, màu xanh, mang biển số ngoại giao 0-147-15, cùng với Vũ Quang Dũng và
những người khác trong một đoàn xe- bị nghi là chở nạn nhân bị bắt cóc, đi đến
Brno; từ đó, nạn nhân bị đưa tiếp về Slovakia.
Hai
tháng sau vụ bắt cóc, Tổng cục tình báo gửi trả lời cho Tổng cục cảnh sát hình
sự liên bang: „Không có những phát hiện có giá trị trước tòa“ về việc Trịnh
Xuân Thanh bị truy bức chính trị. Họ cũng hầu như không đưa những thông tin về
vị thế chính trị và quan hệ phe cánh trên chính trường của anh ta, về các biện
pháp hành sử của ban lãnh đạo Đảng đối với các đối thủ chính trị và về tiến
trình tố tụng hình sự đối với nạn nhân. Tất cả đề trắng trơn.
Lê
Thanh Hải, nhân vật từng nhận học bổng của Tổng cục cảnh sát hình sự liên bang,
hiện nay vẫn ngụ tại Berlin. Anh ta có quyền miễn trừ ngoại giao. Và Vũ Quang
Dũng cho đến hôm nay vẫn là đầu mối liên hệ của Tổng cục tình báo liên bang tại
Hà Nội.
Chương
5: Thỏa thuận
Sáng
sớm ngày 29 tháng Bảy, sáu ngày vụ bắt cóc, có một nhóm nhân vật bất thường đến
xà lim số 12 trong trại giam B14 tại Hà Nội. Một vị tướng của Bộ công an được
tháp tùng bởi giám đốc trại giam cùng với nhiều lính canh và một bác sỹ của nhà
tù. Họ đến gặp Trịnh Xuân Thanh. Điều này được kể lại bởi Nguyễn Văn Đài, một
Luật sư đòi nhân quyền bị giam trong một xà lim gần đó và cách đây một vài tuần
đã được xuất cảnh sang Đức. Trong một tiệm Cafe gần Frankfurt am Main, anh thuật
lại những ngày tù của mình.
Ở
trại giam, mỗi tù nhân được phép có người thân vào thăm mỗi tháng một lần. Tất
cả các trao đổi chuyện trò đều bị theo dõi. Phần đa tù nhân đều đọc sách hoặc
chạy tại chỗ trong xà lim để giữ gìn sức khoẻ. Họ chỉ được ra khỏi xà lim để đi
trả lời các câu hỏi của điều tra viên. Vẫn là các câu hỏi cũ. Và kéo dài vài tiếng
đồng hồ.
Mặc
dù thế, tiếng đồn về người tù nhân nổi tiếng mới đến đã lan khắp trại giam.
Nếu
không có lính canh đứng gần, các tù nhân nói chuyện với nhau qua cửa sổ, từ xà
lim này sang xà lim khác. Đó là kênh truyền thông ngầm. Nhưng Trịnh Xuân Thanh
đã không phản ứng khi nhà tranh đấu nhân quyền Nguyễn Văn Đài tìm cách bắt chuyện
với anh ta.
Đến
hôm nay thì những phiên xét xử Trịnh Xuân Thanh đã kết thúc, anh ta nhận hai án
chung thân. Bộ ngoại giao (Đức) đã đòi hỏi là không có án tử hình đối với anh
ta. Vào tháng Năm, anh ta đã rút lại đơn kháng án. Vì không hy vọng rằng sẽ có
một phiên xét xử công bằng, nữ luật sư người Đức của anh ta cho biết như vậy.
Và cũng có thể vì một điều đã chắc chắn từ lâu, rằng tự do của anh ta không được
quyết định tại tòa (Hà Nội).
Cuối
tháng Sáu, bên lề một buổi họp mặt tại Berlin, vị Tham tán thương mại của Sứ
quán Việt Nam đã tiết lộ một thông tin. Ông ta nói rằng trước đó từ lâu, cụ thể
là từ tháng Mười Hai 2017, đã có một thỏa thuận giữa hai chính phủ. Thỏa thuận
về tiến trình bình thuờng hoá quan hệ giữa hai nước. Nước Đức vẫn luôn luôn nhấn
mạnh rằng, để đạt được điều đó, Trịnh Xuân Thanh phải được thả tự do. Khi được
hỏi về một sự thỏa thuận, Bộ ngoại giao (Đức) không phúc đáp.
Nếu
Trịnh Xuân Thanh được tự do, thì Hiệp định tự do thương mại với EU- một cái rất
quan trọng đối với Việt Nam, sẽ có hiệu lực.
Trịnh
Xuân Thanh có thể nhập cảnh vào Đức bất cứ lúc nào. Ngày 5 tháng Mười Hai 2017,
gần nửa năm sau vụ bắt cóc, Tổng cục về di cư và tỵ nạn của liên bang đã cấp
quy chế tỵ nạn cho anh ta.
No comments:
Post a Comment