Kurt
Campbell & Ely Ratner - Foreign
Affairs
Người
dịch: Huỳnh Hoa
17-2-20189
Tính
lại về Trung Quốc
Bắc
Kinh coi thường những kỳ vọng của Hoa Kỳ như thế nào
Kurt
M. Campbell và Ely Ratner
*
*
Hoa
Kỳ luôn luôn có một ý thức quá lớn về khả năng của mình trong việc quyết định
con đường đi của Trung Quốc. Hết lần này đến lượt khác, các tham vọng của Hoa Kỳ
đều tan vỡ như bọt nước. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, George Marshall,
đặc phái viên Hoa Kỳ tại Trung Quốc, hy vọng được làm mối lái cho một nền hòa
bình giữa phe Quốc dân đảng và phe Cộng sản trong cuộc nội chiến Trung Hoa.
Trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên, chính phủ Truman nghĩ rằng Mỹ có thể ngăn
chặn được bộ đội của Mao Trạch Đông vượt qua sông Áp Lục [biên giới giữa
Trung Quốc và Bắc Hàn]. Chính phủ Johnson thì tin Bắc Kinh cuối cùng sẽ cố
tránh dính dáng vào Việt Nam. Trong mỗi trường hợp này, thực tế của Trung Quốc
đã làm đảo lộn mọi kỳ vọng của Hoa Kỳ.
Với
sự kiện tổng thống Richard Nixon mở cửa với Trung Quốc, Washington đã làm cú đặt
cược lớn nhất và lạc quan nhất. Cả Nixon và Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc
gia của ông ta, đều cho rằng cuộc hòa giải này sẽ chêm một cái nêm vào giữa Bắc
Kinh và Mạc Tư Khoa và làm thay đổi quan niệm của Trung Quốc về lợi ích của họ
khi tiến gần hơn tới Hoa Kỳ. Vào mùa thu năm 1967, Nixon đã viết trên tạp chí Foreign
Affairs: “Thế giới không thể an toàn cho đến khi Trung Quốc thay đổi. Vì vậy mục
tiêu của chúng tôi, ở mức độ mà chúng tôi có thể tác động đến các sự kiện, là
đem lại sự thay đổi đó”. Kể từ ngày ấy, chiến lược của Hoa Kỳ luôn đặt trên nền
tảng là cái giả thuyết: làm sâu sắc hơn các mối quan hệ thương mại, ngoại giao
và văn hóa sẽ có tác dụng làm thay đổi sự phát triển nội bộ của Trung Quốc và
cách hành xử của nước này với bên ngoài. Ngay trong giới chính sách Hoa Kỳ những
người mang nỗi hoài nghi về ý định của Trung Quốc cũng chia sẻ cái niềm tin tiềm
ẩn rằng sức mạnh và vị thế bá chủ của Hoa Kỳ có thể dễ dàng uốn nắn Trung Quốc
theo sở thích của Washington.
Nửa
thế kỷ đã trôi qua từ những bước đi đầu tiên của Nixon hướng tới tái lập tình hữu
nghị Trung-Mỹ, đã có các bằng chứng ngày càng rõ ràng rằng Washington một lần nữa
lại đặt quá nhiều niềm tin vào sức mạnh của mình trong việc định hình con đường
phát triển của Trung Quốc. Tất
cả mọi phe trong cuộc tranh luận chính sách này đều sai: cả những người ủng
hộ thương mại tự do và các nhà tài chính từng tiên đoán về sự cởi mở tất yếu và
ngày càng tăng ở Trung Quốc; những người ủng hộ hội nhập từng cho rằng các tham
vọng của Bắc Kinh sẽ được thuần hóa nhờ sự tương tác rộng lớn hơn với cộng đồng
quốc tế; và cả những chính trị gia diều hâu từng tin rằng, sức mạnh của Trung
Quốc có thể bị làm cho cùn nhụt bởi tính ưu việt vĩnh cửu của Hoa Kỳ.
Không có cây gậy hoặc củ cà rốt nào có
tác động tới Trung Quốc như dự kiến. Những mối ràng buộc về ngoại giao và thương
mại đã không mang lại được sự cởi mở về chính trị và kinh tế ở Trung Quốc. Cả sức
mạnh quân sự của Hoa Kỳ cũng như cán cân lực lượng khu vực đều không ngăn cản
được Bắc Kinh tìm cách thay thế những thành phần cốt lõi của một hệ thống do
Hoa Kỳ dẫn dắt. Và cái trật tự tự do quốc tế cũng đã thất bại trong việc thu
hút hoặc ràng buộc Trung Quốc một cách mạnh mẽ như đã từng kỳ vọng. Thay vì vậy, Trung Quốc đã đi
theo con đường của riêng mình, và chứng tỏ hàng loạt kỳ vọng của Hoa Kỳ cho tiến
trình này là hoàn toàn sai lầm.
Thực
tế ấy đặt cơ sở hợp lý để biện minh cho sự “nghĩ lại tỉnh táo” về đường lối của
Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Có rất nhiều rủi ro đi kèm với một sự đánh giá lại
như vậy; những người bảo vệ cho khuôn khổ hiện hành cảnh báo về một sự mất ổn định
trong quan hệ song phương, hoặc khả năng kích hoạt một cuộc Chiến tranh Lạnh mới.
Nhưng công cuộc xây dựng một cách tiếp cận và một mối quan hệ vững mạnh hơn, bền
vững hơn với Bắc Kinh đòi hỏi phải thật sự thành thực về nhiều giả định căn bản
đã biến thành sai lầm như thế nào. Từ bên này sang bên kia phổ ý thức hệ, cộng
đồng chính sách ngoại giao Hoa Kỳ vẫn tiếp tục đầu tư sâu rộng vào những kỳ vọng
về Trung Quốc – về đường lối của nước này với kinh tế, chính sách đối nội, an
ninh và trật tự thế giới – ngay cả khi đã tích lũy được rất nhiều bằng chứng chống
lại các kỳ vọng ấy. Những chính sách xây dựng trên kỳ vọng đã thất bại trong việc
thay đổi Trung Quốc ngay trong cách mà chúng ta dự tính hoặc hy vọng.
SỨC
MẠNH CỦA THỊ TRƯỜNG
Sự
tương tác thương mại rộng lớn hơn với Trung Quốc được giả định sẽ mang lại cuộc
giải phóng nền kinh tế Trung Quốc, từng bước một nhưng đều đặn. Chiến lược An
ninh quốc gia năm 1990 của tổng thống Mỹ George H.W. Bush [Bush
cha] miêu tả các quan hệ được nâng cao với thế giới là “cốt yếu cho triển
vọng của Trung Quốc giành lại con đường cải cách kinh tế”. Lối suy nghĩ này chiếm
ưu thế trong nhiều thập niên. Nó dẫn dắt các quyết định của Mỹ trong việc cấp
cho Trung Quốc quy chế thương mại tối huệ quốc (MFN) trong thập niên 1990, ủng
hộ Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2001, thiết lập đối
thoại kinh tế cấp cao năm 2006 và đàm phán một hiệp định đầu tư song phương dưới
thời tổng thống Barack Obama.
--------------------------------
“Thương mại hàng hóa
giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã bùng nổ, từ mức dưới 8 tỉ USD năm 1986 lên mức hơn
578 tỉ USD năm 2016”
--------------------------------
Thương mại hàng hóa giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã bùng nổ, từ mức dưới 8 tỉ USD năm 1986 lên mức hơn 578 tỉ USD năm 2016, tăng hơn 30 lần sau khi đã điều chỉnh theo lạm phát. Tuy nhiên, từ những ngày đầu tiên của thế kỷ này, công cuộc tự do hóa kinh tế của Trung Quốc đã dừng lại. Trái với những kỳ vọng của phương Tây, Bắc Kinh đã đầu tư gấp đôi vào mô hình tư bản nhà nước ngay cả khi họ đã trở nên giàu có hơn. Thay vì trở thành một lực lượng thúc đẩy sự cởi mở rộng lớn, mức tăng trưởng kinh tế liên tục đã phục vụ cho sự chính danh hóa quyền cai trị của đảng Cộng sản Trung Quốc và mô hình kinh tế do nhà nước dẫn dắt của nước này.
Các
quan chức Hoa Kỳ tin rằng, nợ nần, sự kém hiệu quả và nhu cầu của một nền kinh
tế tiến bộ hơn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những cải cách sâu rộng ở Trung
Quốc. Các quan chức Trung Quốc cũng nhận ra những vấn đề trong đường lối của họ;
năm 2007 thủ tướng Ôn Gia Bảo đã gọi nền kinh tế Trung Quốc là “không ổn định,
không thăng bằng, không kết nối và không bền vững”. Nhưng thay vì mở cửa đất nước
cho cuộc cạnh tranh lớn hơn thì với ý đồ duy trì quyền kiểm soát nền kinh tế, đảng
Cộng sản Trung Quốc lại củng cố khối doanh nghiệp nhà nước và theo đuổi những
chính sách công nghiệp nhắm tới việc thúc đẩy các tập đoàn hàng đầu về công nghệ
quốc gia trong các lĩnh vực thiết yếu, bao gồm cả hàng không không gian, y sinh
học và robotics (đáng chú ý là kế hoạch “Made in China 2025”). Và bất chấp những lời hứa hẹn cứ
nhắc đi nhắc lại, Bắc Kinh vẫn luôn chống lại áp lực từ Washington và nhiều thủ
đô khác đòi Trung Quốc phải tạo lập một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp
nước ngoài. Trung Quốc đã hạn chế quyền tiếp cận thị trường và buộc các
doanh nghiệp không phải Trung Quốc phải ký kết những hợp đồng liên doanh và
chia sẻ công nghệ, trong khi họ vẫn tuồn vốn đầu tư và trợ cấp cho những công
ty nội địa được nhà nước hậu thuẫn.
Cho
tới gần đây, phần lớn các nhà hoạch định chính sách và quản lý doanh nghiệp Hoa
Kỳ vẫn ngầm chấp nhận một sự phân biệt đối xử như vậy; những lợi ích thương mại
tiềm tàng thì lớn đến mức họ cho rằng sẽ là không khôn ngoan khi đảo lộn mối quan
hệ hiện hành bằng những chính sách bảo hộ thị trường hoặc cấm vận thương mại.
Thay vì vậy, họ đấu tranh quyết liệt để giành những sự nhượng bộ nhỏ nhoi, từng
chút một. Nhưng giờ đây,
những gì có thời được coi chỉ là những thất bại ngắn hạn trong việc làm ăn với
Trung Quốc đã trở thành những nỗi thất vọng thường trực và tai hại hơn nhiều.
Năm ngoái Phòng Thương mại Hoa Kỳ báo cáo cứ 10 doanh nghiệp Mỹ thì có 8 đơn vị
cảm thấy ít được hoan nghênh ở Trung Quốc so với những năm trước, và khoảng 60
phần trăm số doanh nghiệp được hỏi ý kiến có rất ít hoặc không có niềm tin rằng
Trung Quốc sẽ mở cửa thị trường nhiều hơn trong vòng ba năm tới. Những cơ chế tự nguyện và hợp
tác để thúc đẩy mở cửa nền kinh tế Trung Quốc nhìn chung đã thất bại, kể cả cơ
chế Đối thoại Kinh tế toàn diện mới được chính phủ của ông Trump khai trương.
MỆNH
LỆNH CỦA TỰ DO HÓA
Tăng
trưởng kinh tế được giả định sẽ không chỉ mang lại sự cởi mở kinh tế rộng hơn
mà cả sự tự do hóa chính trị. Lối tư duy này cũng cho rằng, sự phát triển sẽ
kích hoạt một chu kỳ thuận lợi; một tầng lớp trung lưu mới manh nha sẽ đòi hỏi
những quyền lợi mới và các quan chức thực dụng sẽ chấp nhận các cải cách tư
pháp cần thiết để tiến xa hơn. Cuộc tiến hóa này dường như là điều chắc chắn
sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ và các cuộc chuyển hóa dân chủ diễn ra ở Đài
Loan và Nam Hàn. “Không quốc gia nào trên
trái đất này tìm ra được một con đường nhập cảng hàng hóa và dịch vụ của thế giới
trong khi vẫn ngăn chặn các ý tưởng nước ngoài tại biên giới của mình”, ông
George H. W. Bush tuyên bố như vậy. Chính sách của Hoa Kỳ nhắm tạo thuận lợi
cho tiến trình này bằng cách chia sẻ công nghệ, đẩy mạnh thương mại và đầu tư,
hỗ trợ giao lưu nhân dân và tiếp nhận hàng trăm ngàn sinh viên Trung Quốc vào
các trường đại học Mỹ.
Vụ
đàn áp những người biểu tình đòi dân chủ ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989
đánh tan niềm hy vọng về sự trỗi dậy của nền dân chủ đại diện ở Trung Quốc.
Nhưng nhiều chuyên gia và nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ vẫn kỳ vọng
chính phủ Trung Quốc sẽ cho phép thực thi quyền tự do báo chí rộng rãi hơn, cho
phép xã hội dân sự mạnh mẽ hơn trong khi dần dần chấp nhận cạnh tranh chính trị
nhiều hơn cả bên trong đảng Cộng sản lẫn ở cấp địa phương. Họ tin rằng, cuộc
cách mạng công nghệ thông tin của thập niên 1990 sẽ khuyến khích những xu hướng
như vậy bằng cách giúp công dân Trung Quốc tiếp xúc nhiều hơn với thế giới bên
ngoài và nâng cao những phần thưởng kinh tế cho việc mở cửa. Như tổng thống
Bill Clinton có lần nói, “Không có tự do
đầy đủ để suy nghĩ, để truy vấn và để sáng tạo, Trung Quốc sẽ rơi vào một tình
thế bất lợi rõ ràng khi cạnh tranh với các xã hội hoàn toàn mở trong kỷ nguyên
thông tin, trong đó nguồn lực lớn lao nhất của tài sản quốc gia là những gì nằm
bên trong đầu óc của con người”. Các nhà lãnh đạo Bắc Kinh sẽ dần dần nhận
ra rằng chỉ bằng cách chấp nhận tự do cá nhân thì Trung Quốc mới có thể thịnh
vượng trong một tương lai công nghệ cao.
Nhưng
nỗi lo sợ rằng sự cởi mở rộng hơn có thể đe dọa cả sự ổn định quốc nội và sự sống
còn của chế độ đã thôi thúc các nhà lãnh đạo Trung Quốc tìm kiếm một con đường
thay thế. Họ coi cả hai cú
sốc biến cố Quảng trường Thiên An Môn và biến cố Liên xô sụp đổ như là bằng chứng
của những mối hiểm nguy mà công cuộc dân chủ hóa và cạnh tranh chính trị mang lại.
Và thế là, thay vì chấp nhận những chu kỳ tích cực của công cuộc cởi mở, Bắc
Kinh lại phản ứng chống lại các lực lượng toàn cầu hóa bằng cách dựng lên những
bức tường và siết chặt quyền kiểm soát của nhà nước, thui chột thay vì tăng cường
dòng chảy tự do của người dân, của ý tưởng và hoạt động thương mại. Những áp lực
bổ sung lên chế độ của Trung Quốc trong thế kỷ này – bao gồm một sự giảm tốc về
kinh tế, bệnh tham nhũng đặc hữu của chính quyền và quân đội, cũng như những
trường hợp đáng ngại về sự nổi dậy của dân chúng ở khắp nơi trên thế giới – đã
kích thích thêm chứ không làm giảm đi chế độ chuyên chế độc tài.
Thật
vậy, những biến cố trong thập niên vừa qua đã phá hỏng những niềm hy vọng khiêm
tốn nhất về tự do hóa chính trị ở Trung Quốc. Năm 2013, một chỉ thị nội bộ của
đảng Cộng sản Trung Quốc, được biết tới như là Tài liệu số 9, cảnh cáo thẳng thừng
rằng, “chế độ dân chủ hiến định phương Tây” và các “giá trị phổ quát” khác là
những bức bình phong che giấu ý đồ làm suy yếu, mất ổn định, thậm chí làm tan
rã nước Trung Quốc. Chỉ thị đó chứng tỏ rằng hố ngăn cách giữa những kỳ vọng của
Hoa Kỳ với kỳ vọng của Trung Quốc về tương lai chính trị của nước này đang mở rộng
ra rất nhanh. Như Orville Schell, một chuyên gia về Trung Quốc hàng đầu của Mỹ,
nhận xét: “Trung Quốc chắc chắn đang trượt
lùi vào một bầu không khí chính trị gợi nhớ tới ông Mao Trạch Đông trong thập
niên 1970 hơn là ông Đặng Tiểu Bình của thập niên 1980”. Ngày nay, cuộc đàn
áp đang diễn ra với các nhà báo, các lãnh tụ tôn giáo, người hoạt động xã hội và
các luật sư nhân quyền không có dấu hiệu giảm xuống – chỉ trong năm 2015 đã có hơn 300 luật sư, người trợ
giúp pháp lý và người hoạt động xã hội bị giam giữ.
------------------------------
“Công nghệ thông tin
đã giúp tăng cường bàn tay của nhà nước, giúp nhà cầm quyền Trung Quốc kiểm
soát dòng chảy thông tin và giám sát hành vi của công dân.”
-------------------------------
Công
nghệ thông tin, thay vì giúp chuyển giao quyền lực cho nhân dân Trung Quốc như ở
nhiều nước phương Tây, lại giúp tăng cường bàn tay của nhà nước, giúp nhà cầm
quyền Trung Quốc kiểm soát dòng chảy thông tin và giám sát hành vi của công
dân. Kiểm duyệt, giam cầm, và một bộ luật an ninh mạng mới trao cho chính quyền
quyền kiểm soát rộng rãi mạng Internet ở Trung Quốc, ngăn cản hoạt động chính
trị bên trong “Vạn lý hỏa thành” (Great Firewall) của Trung Quốc. Giờ
đây chế độ
chuyên chế thế kỷ 21 của Trung Quốc còn
triển khai cả một “hệ thống tín nhiệm xã hội”, sử dụng nguồn dữ liệu lớn (big
data) kết hợp với trí thông minh nhân tạo (artificial
intelligence) để khen thưởng hay trừng phạt công dân Trung Quốc dựa vào hoạt
động chính trị, thương mại, xã hội và hoạt động trực tuyến của họ. Ứng dụng
công nghệ nhận diện khuôn mặt, kết hợp với mạng lưới máy quay phim theo dõi phủ
khắp Trung Quốc, đã giúp cho nhà nước có thể xác định vị trí của bất kỳ người dân
nào chỉ trong vài phút đồng hồ.
NGĂN
CHẶN VỊ THẾ HÀNG ĐẦU
Sự
kết hợp giữa ngoại giao Hoa Kỳ với sức mạnh quân sự Hoa Kỳ - củ cà rốt và cây gậy
– được giả định sẽ thuyết phục Bắc Kinh rằng Trung Quốc sẽ không thể và không cần
thiết phải thách thức cái trật tự về an ninh do Hoa Kỳ dẫn dắt ở châu Á.
Washington đã “thúc đẩy mạnh mẽ sự tham gia của Trung Quốc vào các cơ chế an
ninh khu vực để trấn an các quốc gia láng giềng và làm dịu mối quan ngại về an
ninh của chính mình”, Chiến lược An ninh quốc gia năm 1995 của chính phủ
Clinton xác định như vậy và được hỗ trợ bằng những mối quan hệ giữa quân đội với
quân đội cùng nhiều biện pháp xây dựng lòng tin khác. Những phương thức giao kết
này được kết hợp với một “hàng rào an toàn” – gia tăng sức mạnh quân sự của Hoa
Kỳ trong khu vực, được hỗ trợ bởi các đối tác và đồng minh có năng lực. Lối suy
nghĩ này cho rằng, tác động của đường lối này là để làm nguội cuộc cạnh tranh
quân sự ở châu Á và kiềm chế tham vọng của Trung Quốc trong việc thay đổi trật
tự khu vực. Bắc Kinh sẽ hài lòng chấp nhận một mức độ đủ về quân sự, xây dựng lực
lượng vũ trang cho những sự kiện bất ngờ hạn hẹp ở khu vực và dành phần lớn nguồn
lực cho các nhu cầu nội địa.
Lập
luận này giả định rằng, Trung Quốc sẽ tập trung vào cái mà họ tự mô tả là “cửa
sổ cơ hội chiến lược” cho công cuộc phát triển ở trong nước với rất nhiều thách
thức về kinh tế và xã hội xâm chiếm sự quan tâm của các nhà lãnh đạo cấp cao
Trung Quốc. Các nhà hoạch định chính sách và các học giả Hoa Kỳ cũng giả định rằng
Trung Quốc đã học được bài học quý báu từ Liên xô về cái giá khủng khiếp phải
trả cho việc tham gia chạy đua vũ trang với Hoa Kỳ. Như vậy, Washington không
chỉ có thể ngăn cản hành động xâm lăng của Trung Quốc mà còn có thể – dùng từ của
Ngũ giác đài – “can ngăn” Trung Quốc đừng thử cạnh tranh với Hoa Kỳ. Zalmay
Khalilzad, một quan chức trong cả hai chính phủ Reagan và Bush, lập luận, một
Hoa Kỳ ở vị thế thống trị có thể “thuyết phục giới lãnh đạo Trung Quốc rằng một
thách thức như vậy sẽ rất khó khăn khi chuẩn bị và hết sức rủi ro khi theo đuổi”.
Hơn thế nữa, vẫn không rõ là liệu Trung Quốc có thể thách thức vị thế hàng đầu
của Hoa Kỳ cho dù họ muốn vậy hay không. Vào cuối thập niên 1990, quân giải
phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) được coi là vẫn đi sau quân đội Hoa Kỳ và quân
đội các nước đồng minh nhiều thập kỷ.
Trong
bối cảnh như vậy, các quan chức Hoa Kỳ luôn giữ sự thận trọng đáng kể để không
bị vấp vào một cuộc chạm trán với Trung Quốc. Nhà khoa học chính trị Joseph Nye
giải thích lối suy nghĩ này khi ông phụ trách văn phòng châu Á của Ngũ giác đài
dưới thời chính phủ Clinton: “Nếu chúng
ta đối đãi với Trung Quốc như kẻ thù, chúng ta chắc chắn sẽ có kẻ thù trong
tương lai. Còn nếu chúng ta đối đãi với Trung Quốc như bạn bè, chúng ta không
chắc có được tình bạn, nhưng ít ra chúng ta cũng để ngỏ khả năng có thêm nhiều
kết quả tốt lành”. Trong cuộc điều trần trước quốc hội để được xem xét phê
chuẩn làm bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ hồi tháng 1-2001, ông Colin Powell nói rằng:
“Trung Quốc không phải là kẻ thù và thách
thức của chúng ta là giữ cho họ không biến thành kẻ thù”.
Ngay
cả khi Bắc Kinh bắt đầu đầu tư nhiều hơn vào quân đội bằng nguồn của cải mà họ
mới tích lũy được, chính phủ Trung Quốc vẫn tìm cách trấn an Washington; tỏ dấu
hiệu cho thấy họ vẫn tiếp tục gắn bó với con đường chính sách ngoại giao ôn
hòa, thận trọng mà ông Đặng đã vạch ra. Năm 2005, quan chức cao cấp của đảng Cộng
sản Trung Quốc, ông Trương Tất Kiên (Zhang Bijian) đã viết trên tạp chí Foreign
Affairs rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ tìm kiếm quyền bá chủ khu vực mà
vẫn duy trì cam kết “trỗi dậy hòa bình”. Năm 2011, sau một cuộc tranh luận sôi
nổi trong các nhà lãnh đạo Trung Quốc về chuyện liệu đã đến lúc “sang số” chưa,
ông Đới Bỉnh Quốc (Dai Bingguo), ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc, khẳng định với
thế giới rằng “phát triển hòa bình là lựa chọn chiến lược mà Trung Quốc đã thực
hiện”. Bắt đầu từ năm 2002, bộ quốc phòng Hoa Kỳ được quốc hội ủy quyền đã soạn
thảo báo cáo hàng năm về quân đội Trung Quốc, nhưng có một sự đồng thuận trong
các quan chức cao cấp của Hoa Kỳ rằng Trung Quốc vẫn tiếp tục là một thách thức
xa xôi và có thể quản lý được.
---------------------------------------
“Đối với Bắc Kinh, khối
đồng minh của Mỹ và sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở châu Á đặt ra những mối
đe dọa không thể chấp nhận cho lợi ích của Trung Quốc”.
----------------------------------------
Tuy
nhiên quan điểm đó đã đánh giá không đúng mức thực trạng giới lãnh đạo Trung Quốc
vừa đầy tham vọng vừa đồng thời bất an như thế nào. Đối với Bắc Kinh, khối đồng
minh của Mỹ và sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ ở châu Á đặt ra những mối đe dọa
không thể chấp nhận đối với lợi ích của Trung Quốc ở Đài Loan, bán đảo Triều
Tiên, biển Hoa Đông và biển Đông. Theo lời của Vương Cát Tư (Wang Jisi), giáo
sư Đại học Bắc Kinh, thì “ở Trung Quốc, mọi người đều tin chắc rằng… Washington
sẽ cố gắng ngăn cản các cường quốc đang nổi lên, đặc biệt là Trung Quốc, thực hiện
các mục tiêu và nâng cao vị thế của họ”. Vì thế Trung Quốc đã bắt đầu phá hủy dần
dần cái trật tự an ninh do Hoa Kỳ dẫn dắt ở châu Á, phát triển những khả năng
[quân sự] để ngăn chặn sự tiếp cận của quân đội Hoa Kỳ tới khu vực này, và ly
gián hoặc gây chia rẽ Washington với các đồng minh.
Cuối
cùng, cả sức mạnh quân sự lẫn nỗ lực giao kết ngoại giao của Hoa Kỳ đều không
can ngăn được Trung Quốc xây dựng một đội quân đẳng cấp thế giới của riêng
mình. Những cuộc phô diễn công nghệ cao của lực lượng Hoa Kỳ trong cuộc chiến
tranh Iraq và nhiều nơi khác chỉ có tác dụng thúc đẩy nhanh hơn những nỗ lực hiện
đại hóa PLA của Trung Quốc. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phát động những
kế hoạch cải cách quân đội nhằm làm cho các lực lượng vũ trang của Trung Quốc
có sức sát thương hơn, có khả năng phóng chiếu sức mạnh quân sự rất xa ngoài bờ
biển Trung Quốc. Với chiếc hàng không mẫu hạm thứ ba đang được xây dựng, với những
căn cứ quân sự tân tiến mới được lập trên các đảo ở Biển Đông và với căn cứ
quân sự đầu tiên của Trung Quốc ở nước ngoài được lập ở Djibouti (châu Phi),
Trung Quốc đang trên đường trở thành một đối thủ quân sự bằng vai phải lứa mà
Hoa Kỳ chưa từng nhìn thấy kể từ thời Liên bang Xô viết. Các nhà lãnh đạo Trung
Quốc không còn nhắc lại câu châm ngôn của Đặng Tiểu Bình rằng để phát triển,
Trung Quốc cần phải “thao quang dưỡng hối” (che giấu năng lực, chờ đợi
thời cơ). Hồi tháng 10-2017, Tập Cận Bình tuyên bố “đất nước Trung Quốc đã đi từ
chỗ đứng lên, trở nên giàu có và trở nên hùng mạnh”.
NHỮNG HẠN CHẾ CỦA TRẬT
TỰ
Vào
cuối cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai, Hoa Kỳ xây dựng những thiết chế (institution) và
luật lệ góp phần tạo nên cơ cấu chính trị toàn cầu và động lực khu vực ở châu
Á. Những quy tắc được chấp nhận rộng rãi, chẳng hạn như tự do thương mại và tự
do hàng hải, giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp, hợp tác quốc tế để xử lý những
thách thức toàn cầu v.v… đã thay thế cho các không gian ảnh hưởng của thế kỷ
19. Lối suy nghĩ thiện chí cho rằng, là người được hưởng lợi nhiều nhất từ cái
trật tự tự do quốc tế này, Bắc Kinh chắc hẳn sẽ có phần đóng góp đáng kể vào việc
duy trì cái trật tự ấy và coi sự tiếp tục cái trật tự này là hết sức thiết yếu
cho tiến bộ của chính Trung Quốc. Chính sách của Hoa Kỳ nhắm khích lệ sự tham
gia của Bắc Kinh bằng việc chào đón Trung Quốc vào các thiết chế hàng đầu và
làm việc với Trung Quốc về những vấn đề quản trị toàn cầu và an ninh khu vực.
Các
nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ hy vọng rằng, một khi Trung Quốc đã gia nhập
các thiết chế đa phương thì Bắc Kinh sẽ học cách chơi theo luật lệ và chẳng bao
lâu Trung Quốc sẽ bắt đầu góp phần vào việc duy trì các thiết chế ấy. Thứ trưởng
bộ ngoại giao Robert Zoellick trong chính phủ George W. Bush [Bush
con] đã kêu gọi Bắc Kinh hãy trở thành một “cổ đông có trách nhiệm” trong
hệ thống quốc tế. Từ quan điểm của Washington, quyền lực lớn hơn đi kèm với
nghĩa vụ lớn hơn, đặc biệt là vì Trung Quốc đã hưởng lợi rất nhiều từ hệ thống.
Như ông Obama đã nhấn mạnh, “Chúng ta kỳ vọng Trung Quốc tôn trọng và bảo vệ
chính những luật lệ đã giúp họ thành công”.
Ở
một số thiết chế, Trung Quốc có vẻ sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm, dù mưa nắng
thất thường. Trung Quốc gia nhập tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương
(APEC) năm 1991, Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1992, Tổ chức
Thương mại thế giới năm 2001, và tham gia nhiều nỗ lực ngoại giao quan trọng, kể
cả hội nghị 6 bên [Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật, Nam Hàn và Bắc Hàn] và các cuộc
đàm phán P5+1 [5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc + Đức]
để giải quyết các chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn và Iran. Trung Quốc
cũng trở thành nước đóng góp quan trọng cho các hoạt động chống hải tặc và gìn
giữ hòa bình của Liên hiệp quốc.
Nhưng
Bắc Kinh vẫn cảm thấy bị đe dọa bởi các yếu tố trung tâm khác trong cái trật tự
do Hoa Kỳ dẫn dắt – và đang ngày càng tìm cách thay thế chúng. Điều đó đặc biệt
đúng về những gì mà Trung Quốc coi là những vụ vi phạm không mong muốn về chủ
quyền quốc gia của họ do Hoa Kỳ và các đối tác của Hoa Kỳ thực hiện, dù dưới
hình thức cấm vận kinh tế hoặc hành động quân sự. Những quy tắc của chủ nghĩa tự
do liên quan tới quyền hay trách nhiệm của cộng đồng quốc tế được can thiệp để
bảo vệ người dân khỏi những vụ vi phạm nhân quyền chẳng hạn, đã đối chọi trực
tiếp với ưu tiên hàng đầu của Trung Quốc là bảo vệ hệ thống chuyên chế khỏi sự
can thiệp của nước ngoài. Với một vài ngoại lệ đáng chú ý, Trung Quốc luôn bận
rộn với việc làm giảm nhẹ những biện pháp cấm vận đa phương, che chở các chế độ
chuyên chế trước sự lên án của phương Tây và kết bè cánh với Nga để ngăn chặn Hội
đồng Bảo an Liên hiệp quốc phê chuẩn các hành động can thiệp. Một số chính phủ
phi dân chủ - ở Sudan, Syria, Venezuela, Zimbabwe và nhiều nơi khác – đã được
hưởng lợi rất nhiều từ sự ngăn chặn này.
Trung
Quốc cũng bắt đầu xây dựng một tập hợp các thiết chế quốc tế và khu vực của
riêng mình – mà Hoa Kỳ chỉ là kẻ ngoại cuộc đứng ngoài nhìn vào – hơn là làm
sâu sắc hơn các cam kết của Bắc Kinh đối với các thiết chế hiện tồn. Bắc Kinh
đã khai trương Ngân hàng Đầu tư hạ tầng châu Á (AIIB), Ngân hàng Phát triển mới
(NDB) (cùng với Brazil, Ấn Độ, Nga và Nam Phi) và đáng chú ý nhất, Trung Quốc
đã khởi động dự án “Nhất lộ nhất đới” (một vành đai, một con đường) – cái tầm
nhìn phi thực tế của ông Tập nhằm xây dựng những tuyến đường bộ và đường hàng hải
nối Trung Quốc với phần còn lại của thế giới. Những thiết chế và chương trình
này đã trao cho Bắc Kinh tư cách đặt ra nghị trình và tập hợp sức mạnh của
riêng mình trong khi bỏ qua các tiêu chuẩn và giá trị được các thiết chế quốc tế
hiện hành tôn trọng và tuân thủ. Bắc Kinh công khai phân biệt rõ đường lối phát
triển của mình bằng việc lưu ý rằng, không giống như Hoa Kỳ và các cường quốc
châu Âu, họ không đòi hỏi các nước nhận viện trợ phải chấp nhận cải cách quản
trị quốc gia như là điều kiện để được hỗ trợ.
-------------------------------------
“Những
giả định dẫn dắt chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc đã có vẻ
ngày càng mong manh.”
----------------------------------------
Trong
khi đó, ở khu vực châu Á, Bắc Kinh đã bắt đầu thay đổi cán cân về an ninh, từng
chút từng chút làm biến đổi hiện trạng bằng những bước đi đủ nhỏ để tránh kích
hoạt một phản ứng quân sự từ Hoa Kỳ. Ở biển Đông, một trong những hải lộ quan
trọng nhất của thế giới, Trung Quốc đã khéo léo sử dụng tàu tuần tra biển, chiến
tranh pháp lý và cưỡng bức kinh tế để thúc đẩy đòi hỏi chủ quyền của mình.
Trong một số trường hợp, Trung Quốc chỉ đơn giản xâm chiếm các vùng lãnh thổ
tranh chấp hoặc quân sự hóa các đảo đá nhân tạo. Trong khi Bắc Kinh có lúc thể
hiện sự kiềm chế và thận trọng có tính chiến thuật, đường lối chung của Trung
Quốc cho thấy họ mong muốn tạo ra một không gian ảnh hưởng hiện đại trên mặt biển.
Vào
mùa hè năm 2016, Trung Quốc bỏ qua một phán quyết có tính cột mốc của tòa án quốc
tế theo Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển [UNCLOS], theo đó những đòi hỏi
quá rộng của Trung Quốc về chủ quyền trên biển Đông là bất hợp pháp xét theo luật
quốc tế. Các quan chức Hoa Kỳ đã giả định một cách sai lầm rằng một sự kết hợp
nào đó giữa áp lực, sự sỉ nhục và mong muốn của chính Trung Quốc về một trật tự
hàng hải căn cứ trên luật lệ sẽ dần dần làm cho Bắc Kinh chấp nhận phán quyết ấy.
Nhưng thay vì vậy, Trung Quốc đã bác bỏ thẳng thừng phán quyết của tòa. Tháng
7-2017, một năm sau ngày tòa PCA ban hành phán quyết nói trên, nói chuyện tại một
diễn đàn an ninh quốc tế ở Aspen, bang Colorado, một nhà phân tích cao cấp của
Cơ quan Tình báo Hoa Kỳ (CIA) đưa ra kết luận, kinh nghiệm đã dạy cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc “rằng
họ có thể coi thường luật pháp quốc tế mà vẫn không sao cả”. Các quốc
gia trong khu vực, bị ảnh hưởng bởi sự phụ thuộc về kinh tế với Trung Quốc lẫn
mối lo ngại ngày càng tăng về cam kết của Hoa Kỳ với châu Á, đã thất bại trong
việc phản kháng sự xâm lấn của Trung Quốc chứ không như kỳ vọng của Hoa Kỳ rằng
họ sẽ phản kháng mạnh.
KIỂM KÊ LẠI
Khi
những giả định dẫn dắt chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đã có vẻ ngày càng mong
manh, khi khoảng cách giữa kỳ vọng của Hoa Kỳ và thực tế tại Trung Quốc ngày
càng doãng rộng ra thì Washington lại tập trung phần lớn sự chú ý vào những nơi
khác. Từ năm 2001, cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo cực
đoan (jihadist) đã choáng hết tâm trí của bộ máy an ninh quốc gia Hoa
Kỳ, lôi kéo sự chú ý ra khỏi những thay đổi ở châu Á đúng vào lúc Trung Quốc thực
hiện những bước tiến dài về quân sự, ngoại giao và thương mại. Tổng thống Hoa Kỳ
George W. Bush lúc đầu đề cập tới Trung Quốc như là “đối thủ cạnh tranh chiến
lược”, nhưng sau vụ tấn công khủng bố ngày 11-9, trong Chiến lược An ninh quốc
gia năm 2002 của mình, ông lại tuyên bố, “Các cường quốc của thế giới tự thấy
mình đứng về cùng một phía – đoàn kết chống lại những mối hiểm nguy chung của bạo
lực và hỗn loạn mà bọn khủng bố gây ra”. Trong thời chính phủ của tổng thống
Obama, đã có một nỗ lực “xoay trục” hoặc “tái cân bằng”, chuyển mối quan tâm
chiến lược về châu Á. Nhưng đến cuối nhiệm kỳ của tổng thống Obama, ngân sách
và nhân lực của Hoa Kỳ vẫn được tập trung chủ yếu cho các khu vực khác – ví dụ,
đội ngũ chuyên viên Hội đồng An ninh quốc gia phụ trách khu vực Trung Đông thì
đông gấp ba lần đội ngũ phụ trách Đông Á và Đông Nam Á.
Sự
sao nhãng chiến lược này đã đem lại cho Trung Quốc cơ hội để tận dụng các lợi
thế của mình, và được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bởi cái quan điểm ngày càng phổ biến
ở Trung Quốc rằng Hoa Kỳ (cùng với phương Tây nói chung) đang trong tiến trình
suy thoái nhanh chóng và không thể lay chuyển được. Các quan chức Trung Quốc
nhìn thấy một nước Mỹ trong nhiều năm liền bước đi khập khiễng vì khủng hoảng
tài chính toàn cầu, vì những nỗ lực chiến tranh rất tốn kém ở Iraq và
Afghanistan và tình trạng rối loạn chức năng ngày càng sâu sắc ở Washington.
Ông Tập đã kêu gọi Trung Quốc phải trở thành “một nhà lãnh đạo toàn cầu về
phương diện sức mạnh toàn diện của quốc gia và ảnh hưởng quốc tế” vào giữa thế
kỷ này. Ông ta khoe khoang mô hình phát triển của Trung Quốc như là “một lựa chọn
mới cho các quốc gia khác”.
Giờ đây Washington phải đối mặt với đối
thủ cạnh tranh mạnh nhất, năng động nhất trong lịch sử hiện đại. Để xử lý đúng
đắn thách thức này, đòi hỏi nước Mỹ phải từ bỏ ngay lối suy nghĩ đầy hy vọng từ
lâu đã là đặc điểm của lối tiếp cận của Mỹ đối với Trung Quốc. Chiến lược An ninh
quốc gia đầu tiên của chính phủ Trump đã tiến một bước theo hướng đúng đắn bằng
cách đặt thành nghi vấn những giả định trong chiến lược của Hoa Kỳ trong quá khứ.
Nhưng nhiều chính sách của ông Donald Trump – như tập trung chú ý quá hạn hẹp vào thâm hụt
thương mại song phương, từ bỏ các hiệp định thương mại đa phương, đặt câu hỏi về
giá trị của quan hệ đồng minh, và giáng cấp các chính sách ngoại giao và nhân
quyền – đã đặt Washington vào nguy cơ đi theo cách tiếp cận đối đầu mà
không cạnh tranh(confrontational without being competitive); trong khi Bắc
Kinh theo đuổi đường lối ngày càng cạnh tranh mà không đối đầu.
Khởi
điểm cho một lối tiếp cận tốt hơn là Hoa Kỳ cần tỏ ra khiêm tốn về khả năng làm
thay đổi Trung Quốc. Nguyên tắc chỉ đạo chiến lược của Hoa Kỳ ở châu Á không phải
là tìm cách cô lập và làm suy yếu Trung Quốc, cũng không phải là cố gắng thay đổi
Trung Quốc theo hướng tốt hơn. Thay vì vậy, Washington nên tập trung chú ý nhiều
hơn vào sức mạnh và cách hành xử của chính mình; sức mạnh và các hành xử của tất
cả các đồng minh và đối tác. Xây dựng chính sách trên nền tảng là một tập hợp
các giả định có tính hiện thực hơn về Trung Quốc có thể nâng cao lợi ích của
Hoa Kỳ và đưa mối quan hệ song phương vào một cơ sở bền vững. Để đạt được điều
đó đòi hỏi phải làm việc, nhưng bước đi
đầu tiên tương đối đơn giản:
Hoa Kỳ cần phải thừa nhận các chính sách của chúng ta đã thất bại trong việc thực
hiện các kỳ vọng của chúng ta đến mức nào.
*
Kurt
M. Campbell là chủ tịch Asia Group, nguyên trợ lý bộ trưởng bộ ngoại giao Hoa Kỳ
phụ trách vụ Đông Á-Thái Bình Dương trong giai đoạn 2009-2013. Ely Ratner là
nhà nghiên cứu cao cấp về nghiên cứu Trung Quốc của Hội đồng Quan hệ đối ngoại
(CFR), nguyên phó cố vấn an ninh quốc gia của phó tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden
giai đoạn 2015-2017.
Nguồn:
Kurt
Campbell & Ely Ratner
No comments:
Post a Comment