Bác sĩ Elje Vannema, “The
Vietcong Massacre at Hue”
Tác
giả: Elje Vannema
Bút
ký “The Vietcong Massacre at Hue” của nữ bác sĩ Elje Vannema, người gốc Hòa
Lan, có mặt tại Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968, một nguồn chứng cớ quan trọng
vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế. Bài viết được Vintage Press, New York công bố năm
1976, sau đó được báo chí Việt ngữ tại Mỹ trích dịch đăng lại dưới tựa đề : Thảm
sát Huế Tết Mậu Thân.
Xin
phép tác giả và dịch giả được đăng lại, vì sự cần thiết “cung cấp” bằng chứng
cho giới “trí thức Việt Nam”, những người tin vào sự “vô tội” Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hy vọng những người này sẽ đọc tài liệu này, để thấy rằng thảm sát Mậu Thân
1968 là chuyện “có thật”. Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân là hai “đồ tể
xứ Huế” là chuyện có thật. Thảm sát Mậu Thân 1968 đã diễn ra tại Huế ra sao, ai
chịu trách nhiệm?
50
năm sau lịch sử bị bóp méo, chôn vùi bởi tuyên giáo CS. Họ rùm beng ăn mừng chiến
thắng Mậu Thân. Nhưng sự thật vẫn còn đó. Những trang bút ký này của bác sĩ
Elje Vannema là sự thật, cần thiết cho những người có thiện chí muốn tìm “sự thật”.
*****
Sớm
tinh sương đã thấy quân Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) hiện diện trong thành phố.
Họ là những người lo mặt chính trị trong cuộc chiếm cứ. Ngày hôm trước, họ vào
sổ gần hết mọi người, ghi tên, tuổi, phái tính. Họ quan tâm đặc biệt đối với
phái nam, chia những người này ra thành nhiều nhóm: công chức, những người có
liên hệ với quân đội cộng hòa, và những kẻ khác. Nhiều trường hợp họ ghi chú đầy
đủ cả gia đình, cả tên con cái nữa. Mỗi nhóm họ chỉ định một người đại diện, mang
trách nhiệm mọi mặt về tất cả thành viên trong nhóm. Nếu có người thoát thì người
đại diện phải lãnh đủ. Dân chúng được lệnh không tụ họp đông người, trừ khi được
kêu đi dự mít tinh, không được nghe đài, không được phao tin đồn đãi…
Ngày
hôm sau, du kích và nằm vùng địa phương tỏa ra đi tìm những người có tên trong
danh sách viết tay nguệch ngoạc. Họ được đưa về Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa
án nhân dân. Một anh cựu sinh viên chủ tọa phiên tòa với sự hiện diện của một
người Bắc Việt và hai sinh viên khác. Hai sinh viên này chúng tôi biết…
Các
phiên tòa nhân dân mấy ngày trước đã chấm dứt. Dân chúng hiện diện khá đông tại
các phiên tòa ở Tiểu chủng viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa án
ở Tiểu chủng viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường
chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy
Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây. Cầm đầu ở Gia Hội là Nguyễn Đắc Xuân, trước kia là một liên
lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất hiện. Tòa trong thành do hai sinh viên
Nguyễn Đọc và Nguyễn Thị Đoan điều khiển. Các phiên tòa vang lên những lời đe dọa
với khẩu hiệu tuyên truyền, kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị lôi ra
tòa chẳng biết lý do mình bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị tử
hình tức khắc.
Sau
hai ngày phiên tòa kết thúc, nhường chỗ cho những công tác khủng bố dân chúng
khác. Một người trộm mở nghe đài (radio) bị bắn giữa thanh thiên bạch nhật để
làm gương. Một anh sinh viên không tới dự lớp học tập cũng bị bắn công khai.
Nguyễn Đọc bắn nhiều người trong đó có người bạn thân đồng lớp là Mu Ty, chỉ vì
bạn không chịu hợp tác với y. Bước vào ngày thứ hai bắt đầu kiểm soát lương thực,
thực phẩm.
Ngày
thứ bốn, vì không tuân hành lệnh cách mạng, một gia đình bị xử. Người chủ gia
đình bị bắn tức khắc. Dưới áp lực khủng bố gia tăng nhiều người bỏ trốn, nhưng
ít kẻ thoát. Vùng Gia Hội có nhiều người thoát hơn nhờ ban đêm chèo bè qua sông
sang làng Đập Đá. Thường bị bắn theo nhưng cố chèo.
Những
người nằm vùng xuất đầu lộ diện, ra tay truy lùng nạn nhân. Bộ đội Bắc Việt và
quân chính quy Mặt Trận lo chuyện quân sự và chiến lược. Nằm vùng địa phương lo
việc chính trị, hành chính, bình định, tuyên truyền, và tiêu diệt kẻ thù. Đám
này bắt và giết người bất kể, nhiều khi chỉ vì hiềm thù cá nhân. Cán bộ miền Bắc
có mặt ở tòa án nhân dân xem ra ít nắm vững chuyện chính trị và đóng vai trò ít
quan trọng trong các bản án. Địa phương quyết định mọi chuyện. Trước khi lên
danh sách, thường đám nằm vùng đã quyết định bắt ai rồi. Chỉ còn việc ra lệnh
thanh toán những ai họ nhắm nữa mà thôi. Có lẽ họ lý luận rằng, thà giết lầm
hơn bỏ sót, vì bỏ sót thì sau này mình sẽ bị nhận diện. Một cách hệ thống, công
chức, quân nhân, sinh viên có tinh thần quốc gia, có khả năng lãnh đạo và có thể
gây trở ngại cho cách mạng, chính trị gia đối lập, tất thảy đều được đoái hoài.
Danh sách bất tận.
Dân
chúng tập trung ở nhà thờ chính tòa được lệnh vào bên trong, không ai được đứng
bên ngoài. Phụ nữ và trẻ con được lệnh ngồi xuống. Đàn ông và thiếu niên từ 15
tuổi trở lên đứng. Ở bệnh viện, trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân quanh vùng, đặc
biệt là vùng quanh căn cứ Mỹ, được lệnh tập trung vào bệnh viện vì cộng sản sợ
giao tranh có thể xảy ra ở đó. Dân lúc này còn sợ súng máy và hỏa tiễn trực
thăng hơn quân chiếm đóng nên ngoan ngoãn làm theo lệnh. Sau ba ngày, đàn bà
con nít được lệnh ngồi, đàn ông đứng dậy để hai tên nằm vùng nhận diện, trước mặt
hai cán bộ miền Bắc và hai bộ đội Mặt Trận. Hai người nằm vùng này mới được xổ
tù khi Việt cộng chiếm thành phố. Cả hai đều là thành viên kỳ cựu của Mặt Trận.
Một số người, trẻ có, già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính tòa.
Bên
trong nhà thờ đàn ông và thiếu niên được lệnh sắp thành hàng rồi bước ra ngoài
với cán bộ hộ tống. Từ nhà thờ họ băng qua các đường Phủ Cam lên Chùa Từ Đàm. Bị
giữ ở đấy một ngày rồi lại tiếp tục đi về phía Nam, hướng Nam Giao. Đàn bà trẻ
con nhao lên nhưng được trấn an rằng cha, chồng, con họ phải ra phục dịch bên
ngoài thành. Một số bà đi theo xa xa, nhưng rồi bị chặn lại. Trong số người ra
đi có anh lính trẻ cộng hòa và Lương (nhân vật kể lại câu chuyện này). Ngày kế
tiếp, cuộc hành trình kéo dài suốt chiều tới tối, thoạt tiên rời Từ Đàm đi về
hướng Nam rồi bẻ hướng Đông Nam. Sáu cây số đường đi mà Lương nghĩ là một cuộc
trường chinh. Không ai nói với ai. Chỉ một lần yên lặng bị cắt đứt bởi một câu
hỏi của ai đó “Ta đi mô đây”. Có tiếng phụ họa “Lên núi hay tới chỗ chết?”.
Bộ
đội Mặt Trận nói là họ được đưa đi học tập. Không ai biết mình đi đâu nhưng tự
thâm tâm nhiều người tin rằng có lẽ đời mình sắp kết thúc. Ông già đi bên cạnh
Lương bổng ngã quỵ. Cho tới lúc đó anh không biết có ông già đi bên mình. “Bắt
gió cho ông ta ” tiếng ai đó vang lên… Lương ôm lấy ông cho tới khi người canh
gác tới.
Mắt
ông già hé mở trong chiều xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào. “Xin để tui
đi, để tui ở lại đây”, ông van xin, bàn tay xương xẩu níu lấy cánh tay người
gác. “Tui không đi xa hơn được nữa”.
“Đứng
dậy “.
Ông
già gượng dậy, cố thẳng người thêm được vài bước rồi lại ngã. Người gác đoàn
lúc này hết kiên nhẫn, đạp ông ra lề đường rồi bỏ đi. Vài phút sau, một phát
súng xé không khí cùng với một tiếng kêu yếu ớt vang lên. Làm thế để chắc ăn,
không ai chứng kiến. Xác ông được dập vào một hố gần đó, hai tù nhân được lệnh
lấp đất. Một tháng sau xác ông được đồng bào khám phá.
Vô
vọng, đoàn người bước đi càng lúc càng chậm, câm lặng uất nén. Người gác càng hối
thúc. Rồi có tiếng hô “Dừng lại “. Lương thấy đám người phía trước được lệnh bỏ
túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới đích. Đám canh gác phía sau miệng hét
thúc kẻ này đi nhanh, chân đá vào sườn kẻ khác… Sau này, Lương nhớ lại mình đã
đi qua thôn Tu Tay. Theo anh, chừng 18 người đã bị kêu lên phía trước và bị
quân Mặt Trận tố có tội ác với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi ngay. Chả ai biết
gì về số phận họ vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người khác được lệnh đi
về phía lăng Đồng Khánh.
Sau
một giờ đi họ lại được lệnh dừng, chia thành hai nhóm nhỏ và bắt đầu được lệnh
đào hầm rãnh. Họ đào mồ cho lớp người tới sau, chứ chính họ thì chỉ vài mạng phải
nằm ở đây mà thôi. Như một ác mộng kinh hoàng thăm viếng địa cầu, nhưng ác mộng
không do quỷ ma nào cả mà do chính con người tạo ra.
Thoạt
tiên, Lương nghĩ chắc mình sẽ không qua khỏi. Dù vậy, anh và người lính trẻ vẫn
cố tìm cách thoát thân, trong một hoàn cảnh có thể nói là tuyệt vọng. Hai người
thất thần nhìn nhau, mắt mở lớn. Chung quanh Lương, đám người đói, lạnh, có kẻ
đau, không ai dám quay về nhìn thành phố thân yêu đổ nát đang chìm trong bóng tối
sau lưng họ. Họ đào đã hai, ba tiếng, ai nấy im lặng gặm nhấm suy nghĩ của mình.
Hố đào là để trú ẩn và làm mương dẫn nước, người ta nói thế. Một tiếng nổ kèm với
tiếng la vang lên. Thần chết vây bủa không gian. Tại sao mình ở đây? Đa số họ
là công giáo, chả ai quan tâm tới chính trị, một số do hoàn cảnh lịch sử phải
bước vào lính như bao nhiêu thanh niên Việt Nam và trên khắp thế giới đến tuổi
khác.
Sau
khi đào xong một hố rãnh, đám đông được lệnh đi tới một đụn cát để nghỉ đêm.
Vài người bị dẫn đi. Một số la thét lên vì sợ. Lương thấy người bạn ở cùng phố
mà anh quen từ mấy năm nay bật khóc nức nở. Một người hoảng lên chạy quẩn để rồi
bị bắt giữ lại. Lương hoảng hốt. Chân anh như điện giật. Anh nghĩ phải liều
ngay. Chung quanh cán bộ gác đầy dẫy, nhưng nếu lao vào được bóng tối thì có cơ
thoát. Ác mộng tiếp tục. Người la. Kẻ bị đánh. Người rú lên cười kinh hoàng.
Lương ở trong một đám khá đông đang bước đi. Đám người khập khễnh lê lết xuyên
qua một đám cây rậm đi xuống đụn cát phía Nam. Khi họ xuống đồi, Lương lách người
lao vào bóng tối. Một viên đạn rít bên tai. Anh phóng qua đám rừng, tai vẫn
nghe tiếng đạn và tiếng la hét. Chỉ vài phút anh tới một con suối và chạy theo
dòng nước hướng về phía Đông. Anh đi suốt đêm, thỉnh thoảng bị khuất động bởi
trái sáng thả từ máy bay và tiếng đại bác. Sáng ra thấy mình băng qua một con
đường sắt. Từ đó tiếp tục đi tới quốc lộ, lòng mong ngóng sớm thoát được vùng tử
địa. Xế chiều anh tới con đường phía Nam cách Phú Bài mấy dặm. Mải tới ngày 16
tháng 2 Lương mới về lại được thành và kể cho chị Kim những gì đã xảy ra…
Người
ta đoán rằng đám nạn nhân từ Phú Cam tiếp tục đi nhiều ngày nữa về hướng Nam,
xuyên qua một vùng cây cối khó đi. Mải tới trung tuần tháng 9.69 người ta mới
tìm thấy xác họ trong một con suối nhỏ, khe Đá Mài, con suối chảy ra khe Đại đổ
vào sông Hương… Trong số 428 bộ cốt tìm được ở đó, rất ít được nhận diện. Vì
không tìm thấy ở đâu khác, gia đình họ Nguyễn (thân nhân người lính trẻ) tin rằng
con mình đã chấm dứt cuộc đời nơi khe suối này…
Mồ Tập Thể
Mồ tập thể được khám
phá đầu tiên
ở trường trung học quận Gia Hội, nằm bên cạnh khu dân cư. Sở dĩ cư dân gần đó
biết được là vì họ nghe tiếng súng và biết ở đó có mở tòa án nhân dân. Một số
người sau khi tham dự phiên tòa đầu tiên đã liều trốn và may mắn thoát. Một số
khác nhờ bơi qua sông. Trước ngôi trường có tất cả 14 hố gồm 101 tử thi. Sau ba
ngày tìm kiếm, người ta khám phá thêm một số hố rải rác trước, sau và bên hông
trường, nâng tổng số tử thi lên 203, gồm xác thanh niên, người già và phụ nữ.
Trong
số xác trẻ có 18 sinh viên. Một số trong bọn họ là những sinh viên đã bỏ vô bưng
theo Mặt Trận sau vụ đấu tranh chống chính quyền, nay trở về bắt các sinh viên
khác theo họ. Khi Mặt Trận chuẩn bị rút, các sinh viên được phép chọn hoặc vô
bưng hoặc ở lại thành. Kẻ chọn ở lại bị giết và chôn tại trường. Những sinh
viên khác của Gia Hội không theo Mặt Trận cũng chịu chung số phận. Có hố vừa
chôn được hai hoặc ba tuần; số còn lại rất mới. Những xác đầu tiên được lính Thủy
Quân Lục Chiến Cộng Hòa khám phá ngày 26.02.1968.
Trong
số nạn nhân có cô Hoàng Thị Tam Tuy (các tên riêng và địa danh nào không đoán
được sẽ ghi lại đúng như tác giả đã ghi – Người dịch), 26 tuổi, rất xinh, bán
hàng ở chợ, nhà tại đường Tô Hiến Thành, Gia Hội. Bị quân Mặt Trận, theo lời kể
của chị/em gái (sister) cô, vào nhà bắt đi đưa vào trường điều tra ngày 22 tháng
2, rồi chẳng thấy trở về. Xác cô chân tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ; mình mẩy
không thấy một vết thương nào. Xác cô nằm chung với bốn nạn nhân khác, mà hai
trong số đó có bà con với chị/em dâu cô. Trong số các nạn nhân khác có bà góa
Dương Thi Co, 55 tuổi, nghề bán guốc, 4 con. Bị bắt tại nhà ngày 22.02, đưa vào
trường Gia Hội và bắn chết. Xác bà được các con nhận diện ngày 26.02. Người thứ
ba là Lê Văn Thắng, 21 tuổi sinh viên ở Gia Hội. Anh bị bắt đi tham dự lớp huấn
luyện ngày 14.02. Xác được gia đình phát hiện và nhận diện ngày 16.03, chung hố
với hai nạn nhân khác trong khuôn viên trường.
Người
thứ tư là Trần Đình Trọng, sinh viên kỹ thuật và mới lập gia đình. Bị bắt ngày
06.02, tìm thấy xác ngày 26.02. Người thứ năm Nguyễn Văn Dong, cảnh sát 42 tuổi,
bị bắt ngày 17.02 ở nhà một người quen và bị chôn sống, tay trói tại trường Gia
Hội. Tìm thấy xác ngày 26.02. Người thứ sáu là Lê Văn Phú, 47 tuổi, cảnh sát. Bị
bắt tại gia ngày 08.02. Vợ con van xin Mặt Trận cho phép chồng ở lại nhà, nhưng
tối hôm đó bị hành quyết, bị bắn vào đầu, xác tìm thấy ngày 26.02, ở khuôn viên
trường. Người thứ bảy, bà Nguyễn Thi Lao, buôn thúng bán bưng, 48 tuổi. Bị bắt
trên đường lộ. Xác tìm thấy ở trường học, tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ; mình
mẩy không bị một vết thương nào. Có lẽ bà bị chôn sống. Những xác khác tìm thấy
gồm một đại úy cộng hòa, hai trung úy, ba trung sĩ và mấy viên chức hành chánh.
Bốn xác người của Mặt Trận.
Vùng mồ lớn thứ hai được khám phá gồm 12
hố với 43 tử thi ở Chùa Theravada, thường gọi là Tăng Quang Tự.
Vùng thứ ba tại Bãi Dâu với 3 hố,
26 xác. Trong số nạn nhân ở Chùa có ông Phan Ban Soan, 60 tuổi, sinh tại Phú
Vang, Thừa Thiên, nhà ở đường Tô Hiến Thành, có gia đình, 5 con. Ông Soan làm
nghề thợ may, trước có tham gia vụ Phật giáo chống tổng thống Diệm. Năm 1961 bị
bắt vì chống chính quyền, được thả năm 1967. Bị Việt cộng bắt đi tối 12.02 trên
đường Chi Lăng, Gia Hội. Cộng sản phân công ông chôn xác chết và phân phối gạo.
Xác ông tay bị trói, bị bắn xuyên đầu, dập cùng hố với 7 người khác.
Một
người khác tìm thấy ở Chùa là ông Đặng Cơ, 46 tuổi, nghề thầu khoán, bị bắt tại
gia ngày 06.02, tìm thấy xác ngày 26.02. Một người khác nữa là ông Ngô Thông,
66 tuổi, nhân viên hành chánh hồi hưu, bị bắt ngày 08.02, xác dập chung với 10
người khác. Một số tử thi có vết thương, một số tay bị trói giật cánh khỉ bằng
dây thép gai, và một số miệng bị nhét giẻ.
Lần
đầu tiên nói chuyện với đồng bào trong vùng tôi tưởng chỉ có 16 xác ở Chùa và 3
xác khác ở Bãi Dâu. Nhưng bên hông và sau Bãi Dâu có nhiều hố chôn. Tất cả ở
đây chết vì bị trả thù. Một vài người là thành viên Mặt Trận nhưng bị giết vì
muốn ở lại thành. Họ đều là dân Gia Hội. Bốn tháng sau, tháng 08.68, tôi trở lại
đây để tìm hiểu thêm uẩn khúc của những cái chết. Thân nhân các nạn nhân lẫn
dân địa phương đều xác nhận những điểm trên.
Tiết
lộ về “mồ chôn tập thể” đầu tiên của chính quyền miền Nam là vào ngày 28.02.68,
khi phát ngôn nhân chính phủ cho biết về một hầm “ghê gớm ở Cồn Hến gồm 100 xác
công chức và quân nhân bị bắt khoảng đầu tháng”. Cũng theo phát ngôn viên, “các
nạn nhân bị Việt cộng giết, thân xác họ không được lành lặn”. Cồn Hến nằm giữa
sông Hương. Lúc đầu Mặt Trận không màng chiếm Cồn. Nhưng sau nó trở thành một vị
trí chiến lược cho việc tiến quân và rút quân từ Gia Hội ra vùng cát Đông Nam,
vùng họ chiếm từ nhiều năm nay. Chính quyền xác nhận có 101 xác trong hầm. Theo
đồng bào chạy thoát từ Cồn thì trong số nạn nhân có nhiều người nam mang quân
phục, một vài người bận đồ kaki của Mặt Trận, một số khác bận áo dòng ngắn, một
vài người mang quân phục lính cộng hòa và một vài người bận thường phục. Tôi hỏi
nhân viên chính quyền địa phương về tên tuổi các nạn nhân thì được trả lời là
các tử thi không được nhận diện đầy đủ; họ xác nhận là không thể nào quả quyết
tất cả đều bị hành quyết; một vài nạn nhân có thể đã chết trong khi giao tranh
và vài xác khác, cũng theo họ, là của quân thù.
Vùng chôn thật sự thứ
tư nằm
sau Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Hai hầm chứa xác ba người Việt
làm việc cho tòa đại sứ Hoa Kỳ, hai xác người Mỹ: ông Miller và ông Gompertz,
nhân viên USOM; và xác một giáo sư trung học người Pháp bị giết vì lầm là người
Mỹ. Tất cả đều bị trói tay. Xác tìm thấy và liệm ngày 09.02. Xác hai người Mỹ
và người Pháp được đưa về Đà Nẵng.
Quận
Tả Ngạn, vùng thứ năm, do một quân
nhân người Úc khám phá ngày 10.03.68. Ba hầm rãnh với 21 tử thi, tất cả đều nam
giới, tay bị trói, đạn bắn xuyên đầu và cổ. Một hầm khác, vùng thứ sáu, nằm cách Huế 5 dặm về hướng Đông, được khám phá ngày
14.03.68 do một cố vấn quân sự Mỹ cùng toán lính Việt đi kèm. Hai lăm xác, tất
cả đều bị bắn vào đầu, tay trói giật cánh khủyu. Nhờ một cánh tay của một nạn
nhân nhô ra khỏi mặt đất mà hầm được khám phá.
Phía
Nam Huế qua hoàng thành ở Nam Giao là nơi mộ phần của vua Tự Đức và Đồng Khánh.
Nơi đây là vùng chôn tập thể thứ bảy.
Đây đó trên dưới hai chục hầm, có cái giữa đất bằng, có cái dưới bụi cây, có
cái bên bờ suối. Bên cạnh hầm lớn, có những hố nhỏ chứa một, hai hoặc ba xác. Hầm
đầu tiên được khai quật ngày 19.03.68, nhưng mãi cho tới tháng 6.69 vẫn còn xác
được tiếp tục phát hiện. Ban đầu còn dễ nhận dạng, vài xác mang quân phục,
ngoài ra còn lại thường phục. Đặc biệt ở đây không có xác phụ nữ và trẻ con.
Càng về sau việc nhận diện trở nên khó khăn. Dù vậy, cuối hè 1969, người ta
cũng nhận diện được xác bố của ông thôn trưởng thôn Than Duong. Vì con trai vắng
mặt nên cụ già bị bắt thay con. Về sau con đi tìm cha mãi không gặp. Xác cha, đạn
xuyên đầu và ót, được tìm thấy tháng 6.69.
Cũng
trên đường hướng Nam đó là Tu viện Thiên An, nơi xảy ra trận chiến ác liệt
trong thời gian cộng sản tấn công. Khi buộc phải triệt thoái, cánh quân chiếm
đóng phía Nam thành phố rút lên núi và chiếm giữ ngôi Tu viện xây cách đây 26
năm, cách Huế 6 cây số hướng Nam, vào ngày 21.02. Lúc đó Tu viện đang là nơi
lánh nạn cho hơn 3000 người. Mặc cho các cha dòng van xin, cộng sản đã cho thần
hỏa thiêu rụi tòa nhà chính trong vòng hai ngày. Các tòa nhà bên là chỗ sinh kế
của nhà dòng cũng bị lửa đạn thiêu hủy. Thư viện gồm những pho thư khố và thủ
bút quý thời vua chúa cũng chung số phận.
Cha
Dom Romain Guillaume, một trong những linh mục của dòng, bị một lính Việt cộng
bắn vào vai lúc rời khỏi tòa nhà cháy sau khi đã di tản hầu hết dân tỵ nạn. Một
linh mục người Việt bị bắn vào chân. Khi rút khỏi đống gạch vụn Tu viện ngày
25.02, Cộng quân mang theo trên 200 người, trong đó 2 linh mục người Pháp, cha
Urbain, 52 tuổi, và cha Guy, 48 tuổi và một số tu sĩ linh mục, tập sinh và người
giúp việc. Những người này bị lọc bắt trong thời gian cộng quân chiếm Nhà dòng
và được dẫn đi về hướng Nam. Đa số bọn họ kết liễu cuộc đời gần chỗ lăng các
vua. Tới tháng 6.69, tổng cộng 203 xác được khai quật. Trong số nạn nhân ở lăng
Tự Đức có Đoan Xuan Tong, 20 tuổi học sinh trung học, nhà ở làng Nguyệt Biểu,
quận Hương Thủy. Em biến mất khỏi nhà ngày 06.02.68. Xác em được thân nhân tìm
thấy bên cạnh lăng vua ngày 19.03.68, chôn chung với năm người khác cùng làng.
Tại lăng Đồng Khánh có xác linh mục Urbain lấp cùng một hố với 10 người khác. Một
người Việt khai quật xác cho tôi hay tay linh mục bị trói, mình không có một vết
thương, chứng tỏ có lẽ bị chôn sống. Xác ông liệm ngày 23.03.68 và sau đó được
một linh mục đồng dòng nhận diện. Vị linh mục này không thể xác nhận được là
tay cha Urbain có bị trói hay không. Sự kiện không có xác đàn bà và con trẻ
trong các hầm chứng tỏ các nạn nhân đã bị hành huyết dã man chứ không phải chết
trong lúc giao chiến. Nếu bị pháo kích hoặc oanh tạc thì chắc chắn đã có người
bị thương và sống sót, hoặc có người chết không toàn thây. Và chắc rằng họ
không phải bị chôn tại chỗ, bởi theo phong tục người chết luôn được mang về nhà
mình để hồn họ khỏi phải vất vưởng muôn kiếp. Vì thế nguyên tắc của đối phương
là phải giấu nạn nhân thế nào để không bị khám phá, mà nếu có bị khám phá thì
cũng không nhận diện được là ai.
Ngoài
thi hài cha Urbain, thi hài cha Guy dòng Thiên An cũng được tìm thấy trong một
hầm riêng ngày 27.03.68 gần lăng Đồng Khánh, với vết đạn ở đầu và cổ.
Vùng chôn thứ tám ở cầu An Ninh khám
phá ngày 01.03 với 20 xác. Trong số tử thi có ông Trương Văn Triệu, trung sĩ
lính Cộng hòa. Trung sĩ Triệu có vợ và 5 con. Du kích cộng sản địa phương bắt
ông ở trường mẫu giáo Kim Long, nơi ông ẩn trốn. Bị trói và dẫn đi. Nhờ dân
chúng gần đó cho hay Việt cộng có chôn xác người gần cầu nên vợ ông đã tìm được
xác chồng sau đó.
Xác
ông Tran Hy, thuộc lực lượng Nhân Dân Tự Vệ, có vợ 4 con, cũng được lấp cùng hầm
với ông Trieu. Ông bị bắt ngày 20.02 khi đang trốn trong nhà một láng giềng.
Tay bị trói cánh khuỷu, người không có vết thương nào.
Vùng chôn thứ chín ở cửa Đông Ba, nơi xảy
ra giao tranh lớn. Đây chỉ có một hầm 7 người bị bắt tại gia và giết sau đó.
Trong đó có ông Ton That Quyen, 42 tuổi. Có gia đình với 10 người con, bị bắt
và dẫn đi hôm 08.02.68. Gia đình tìm được xác ông ngày 05.05.68.
Địa điểm thứ mười là trường tiểu học
An Ninh Hạ, một hầm 4 xác, trong đó có cảnh sát Tran Trieu Tuc, 52 tuổi, có vợ
7 con. Ông bị bắt tại nhà và mang đi ngày 05.02.68. Xác tìm được ngày 17.03.68 ở
trường, mang vết thương ở đầu và cổ. Ba xác còn lại: một sinh viên, một quân
nhân và một cảnh sát.
Địa điểm thứ mười một là trường Van Chi, một
hầm 8 xác. Trong đó có anh Le Van Loang, thợ máy, 35 tuổi, có vợ 6 con. Theo lời
chị Loang, anh bị bắt đi dự lớp huấn luyện ngày 06.02. Khi bị dẫn đi, chị và
các cháu chạy theo van xin nhưng vô hiệu. Họ ra lệnh mẹ con chị phải quay trở về.
Xác anh được những gia đình đi tìm xác người thân tìm thấy ngày 10.03.68 gần
trường. Một vài xác bận quân phục, 4 xác chắc chắn là thường dân, trong đó có một
sinh viên.
Địa điểm thứ mười hai ở chợ Thông, cách nội
thành 2 cây số về hướng Tây. Tìm được 102 xác. Trong đó có ông Nguyen Ty, 44 tuổi,
thợ xây gạch, có vợ 6 con. Bị bắt ngày 02.02.68 và có lẽ bị giết ở chợ cùng với
nhiều nạn nhân khác. Tìm được xác ngày 01.03, tay bị trói, một viên đạn từ ót
bung ra cửa miệng. Nhiều người khác cũng bị bắn, tay trói. Có nhiều xác đàn bà
nhưng không có trẻ con.
Địa điểm thứ mười ba là vùng lăng Gia
Long, ở Thiện Hàm bên bờ sông Hương, cách thành phố khoảng 16 cây số hướng Nam
và cách Đàn Nam Giao cỡ 13 cây số Tây Nam. Gần 200 xác được tìm thấy dưới các
đám cây và bụi rậm, gồm học sinh, sinhviên, nhân viên hành chính, quân nhân và
nhiều phụ nữ. 27 người thuộc làng lân cận. Sau khi an ninh tạm vãn hồi, các bà
đi tìm chồng đã khám phá ra địa điểm này. Lúc đầu, họ không dám đi quá xa.
Nhưng hai ngày sau, 25.03.68, họ đụng vào một miếng đất mới đào trên triền một
trong nhiều thung lũng nhỏ trong vùng. Xác người thân họ nằm nơi đây, tay bị
trói cánh khủy, đạn bắn từ sau cổ xuyên qua miệng. Có nhiều rãnh hầm nối nhau với
nhiều xác. Một số nạn nhân từ nội thành, những người khác từ các làng lân cận.
Một số là sinh viên từ Huế về nhà ăn tết.
Địa điểm thứ mười bốn nằm ở giữa Chùa Tăng
Quang và Tường Vân, 2,5 cây số Tây Nam Huế. Ở đó có xác 4 người Đức, 3 bác sĩ
và một bà vợ, tìm thấy ngày 02.04.68.
Địa điểm mười lăm ở Đông Gi, 16 cây số
phía đông Huế trên đường ra bờ biển, tìm thấy ngày 01.04.68. 101 xác, đa số bị
trói và miệng nhét đầy giẻ. Tất cả đều nam giới,trong đó có15 sinh viên, nhiều
quân nhân và nhân viên hành chính, già lẫn trẻ. Một vài xác không thể nhận diện
được.
Tới
tháng 05.68, tổng cộng có trên 900 xác người bị coi là mất tích đã được tìm thấy.
Dĩ nhiên còn nhiều người chưa được tính… Đầu năm 1969 nhiều địa điểm khác được
khám phá.
Điểm chôn thứ mười
sáu:
Đầu tiên ở làng Vinh Thái. Địa điểm thứ hai ở làng Phú Lương. Địa điểm thứ ba ở
làng Phú Xuân, tất cả thuộc quận Phú Thứ. Tất cả được tìm thấy trong khoảng từ
tháng 01 tới tháng 08.69. Quận này với quận kế bên bị cộng sản chiếm nhiều năm
và nơi đây xảy ra nhiều cuộc không tập kéo dài nhiều tháng. Mải tới đầu năm
1969 quân Cộng hòa mới tiến vào được vùng này…
Ba
làng này cách thị xã Huế chừng 15 cây số về các hướng Đông và Đông Nam, cách bờ
biển từ 3 tới 5 cây. Theo các viên chức địa phương trên 800 xác được tìm thấy
trong các vùng trên trong vòng 6 tháng. Có hầm đào sâu, có hầm cạn. Nhiều xác
chôn lâu rồi, quần áo đã mục… Trong số nạn nhân người ta nhận diện được 16 học
sinh trung học, theo học ở Huế nhưng về quê ăn tết. Cả nhân viên hành chính,
đàn ông, đàn bà, trẻ em, già lẫn trẻ. Một số tay bị trói, đa số đều chôn cùng một
hố. Vùng làng Vinh Thái đào được 135 xác; làng Phú Lương 22; và làng Phú Xuân đợt
đầu 230, đợt sau, khám phá vào cuối năm 69, 375 xác. Dù thời gian qua lâu,
nhưng nhờ lượng muối cao của đất vùng này giữ, đa số tử thi hãy còn có thể nhận
diện được. Nhiều nhân viên hành chính và quân nhân, bị bắn ở cổ và đầu. Đa số nạn
nhân thuộc nam giới. Một vài phụ nữ và trẻ em và một vài người mang nhiều loại
vết thương. Có các linh mục, tu sĩ và chủng sinh của các làng lân cận mất tích
từ hơn 20 tháng kể từ biến cố tháng 02.68. Trong số 357 xác có cha Bửu Đồng, một
cha sở quận Phú Vang và 2 chủng sinh. Cha Đồng giấu được trong túi sau bộ đồ ngủ
đen trên người một hộp mắt kính trong đó có ba bức thư tiếng Việt. Một trong ba
lá thư này, có bản chụp trưng bày ở nhà thờ chính tòa Huế, ông viết cho bổn đạo
mình (thư tìm thấy trên thi thể ngày 8.11.69).
Các con cái yêu dấu:
Đây là bút tích cuối
cùng để nhắc cho các con ghi nhớ bài phúc âm thánh Phêrô trên thuyền bão táp…
(3 chữ đọc không ra) đức tin. Lời cầu chúc của Cha ngày đầu xuân cho mọi công
việc Tông đồ của Cha giữa chúng con, nhớ.. (hai chữ đọc không ra) khi sự sống của
Cha sắp kết liễu theo ý chúa.
Hãy mến Mẹ sốt sắng lần
hột, tha mọi lỗi lầm của Cha, xin cám ơn Chúa với Cha, xin Chúa tha tội cho Cha
và tận tình thương nhớ cầu nguyện cho Cha được sống trong tin tưởng, kiên nhẫn,
trong khắc khổ để kiến tạo hòa bình của Chúa Kitô và phục vụ tinh thần Chúa và
mọi người trong Mẹ Maria. Xin cầu nguyện cho Cha bình an sáng suốt và can đảm
cùng mọi sự đau khổ tinh thần, thể xác và gởi mạng sống cho Chúa qua tay Đức Mẹ.
Hẹn ngày tái ngộ trên
nước Trời.
Chúc lành cho chúng con.
(Chữ ký Cha Đồng)
Chúc lành cho chúng con.
(Chữ ký Cha Đồng)
Điểm chôn thứ mười bảy ở làng Thượng Hòa,
quận Nam Hòa, bên bờ sông Tả Trạch, một phụ lưu sông Hương phía Nam lăng Gia
Long. 11 xác được tìm thấy giữa các lùm cây trong tháng 07.69. Chỉ có ba xác nhận
diện được là người của làng bên cạnh. Tất cả đều mang vết thương cổ và đầu, dấu
chỉ của sự hành quyết.
Điểm thứ mười tám ở Thúy Thạnh, quận
Hương Thủy, tìm thấy tháng 04.69, và ở làng Vinh Hưng, quận Vinh Lộc, tìm thấy
tháng 07.69. Cả hai làng nằm trong vùng bị cộng sản chiếm từ lâu… Trên 70 xác,
nhiều xác không còn nhận diện được nữa, đa số là đàn ông, vài đàn bà và trẻ
con. Họ được nhận diện là người của các làng lân cận và vài người có thể bị chết
vì chiến cuộc bởi mình họ mang nhiều vết thương và xác không toàn vẹn. Các nạn
nhân khác bị bắn ở cổ và đầu.
Điểm thứ mười chín tìm thấy vào tháng
09.69 ở Khe Đá Mài, quận Nam Hòa, một con suối nhỏ chảy vào Khe Đại, phụ lưu
sông Hương. Khe chứa đầy xương người, có xương đủ bộ, có chỗ xương nằm riêng, sọ
nằm riêng; tất cả được nước suối mài trắng tinh. Dân đi cưa gỗ tìm thấy địa điểm
này. Nạn nhân có lẽ đã được chôn bên bờ suối trong mùa mưa và nước suối đã dần
soi mòn đất để lộ xác ra, cũng có thể là nạn nhân bị vứt xuống suối, chứng cớ
là các mảnh quần áo được tìm thấy dọc bờ hoặc ngay dưới khe, thì việc chôn lấp
nạn nhân có lẽ xảy ra trong các tháng mùa mưa (tháng hai, ba, tư). Và điều này
có nghĩa là nạn nhân đã được dẫn thẳng tới đây hoặc được mang tới đây sau khi bị
bắt một thời gian ngắn. Nếu chôn trong mùa suối khô, thì sự kiện xảy ra trong
khoảng từ tháng 06 tới 10.
Có
lẽ để giữ bí mật khi rút lui Việt cộng đã thanh toán vội vàng các nạn nhân tại
đây. Theo luật thông thường, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, kẻ thù thường
chôn cất xác đồng đội đàng hoàng. Tuy nhiên cũng có thể đây là xương và sọ của
lính Mặt Trận và Bắc Việt. Như vậy thì số phận nào cho những người Phú Cam bị mất
tích?
Nghiên
cứu các phúc trình quân sự Mỹ thì không thấy có một cuộc không tạc lớn hoặc của
máy bay B 52 nào ở vùng trên, ngoại trừ trận chiến gần Lộc Sơn vào hạ tuần
tháng 04.68, một địa điểm cách xa nơi đó chừng 10 cây số. Vả lại lập luận mang
người bị chết vì bom B 52 băng qua vùng đất gập ghềnh để đưa về chôn ở suối này
quả không vững. Đường lên núi dễ dàng hơn nhiều. Cũng vậy, nếu kẻ thù bị thiệt
hại nặng ở trận Lộc Sơn và, theo thói quen sẵn có, đã mang xác 500 đồng đội đi
thì hẳn lộ trình phải là hướng núi, gần và dễ di chuyển hơn nhiều, chứ làm sao
mà chọn băng qua cánh rừng dày đặc khó xuyên qua được này.
Trong
thời gian cuộc tấn công của cộng sản có xảy ra giao tranh lớn kéo dài từ Huế
qua Bến Ngự, cầu Nam Giao tới gần và trong Nhà dòng Thiên An. Nhưng đã không có
tiếp tục đánh nhau lớn về mạn Nam, khi quân thù chọn đường rút lui lên núi, hướng
trái với Đá Mài. Khe Đá Mài nằm cách thành phố 40 cây số về hướng Nam, bên
ngoài vùng lăng tẩm; nơi nầy được coi là vùng không người, chỉ có cộng quân lai
vãng. Khe chứa 500 sọ. Địa thế cách trở, cách xa mọi văn minh bởi rừng đồi vách
đá cho thấy người ta không muốn để số xác kia (xác của những người mang từ Huế
ra) bị phát hiện, mà nếu có phát hiện thì cũng không nhận diện được. Nằm lẫn với
xương là các mảnh quần áo thường, không phải kaki hay vải màu xanh bộ đội miền
Bắc hoặc quân phục Mặt Trận. Các sọ vỡ xương trán, tất thảy cho thấy bị đánh bởi
một vật gì nặng. Một số sọ khác không thấy vết tích gì ở xương, đây có thể là nạn
nhân chết trong lúc giao tranh. Lần lượt tất cả hài cốt được chuyển về thành phố,
nơi họ ra đi và tống táng trong an bình…
Sau
khi Đá Mài được khám phá, vẫn còn vài trăm người mất tích. Trong số đó có một số
sinh viên, điển hình là các anh Ngô Anh Vũ, Nguyễn Văn Bích. Cả hai bị bắt ở
nhà thờ Phủ Cam. Những người khác, viên chức hành chánh, thành viên chính đảng,
thanh niên công giáo, Phật giáo, tu sinh, giáo chức và quân nhân. Họ bị bắt đi,
biệt tăm tin tức.
Bên
cạnh các hầm chôn tập thể, còn có các nạn nhân lẻ tẻ, bị giết tức tưởi. Có khi
cả gia đình bị tiêu diệt như gia đình ông Nam Long, thợ buôn, bị bắn cùng vợ và
5 con tại nhà. Ông Ngô Bá Nhuận bị bắn dã man trước rạp chiếu bóng địa phương
và ông Phan Văn Tường, lao công, bị giết ngoài nhà ông cùng với bốn đứa con…
Alje
Vannema
The
Vietcong Massacre at Hue. Vintage Press, New York, 1976
Video thảm sát Mậu Thân
Video thảm sát Mậu Thân
AMAZON.COM
-----------------------------
Nhân
Tuấn Trương is
with Nguyễn
Quang Lập.
Tội ác Mậu Thân
Thảm
sát Mậu Thân 1968 tại Huế là chứng cớ ghê tởm về “tội ác chiến tranh” do phía
CSVN gây ra. Cuộc “tổng tấn công và nổi dậy” diễn ra trong các thành phố, thị
xã, quận huyện, khắp lãnh thổ của VNCH, đúng vào thời điểm thiêng liêng mọi người
đang cúng quải ông bà. Bất chấp giao ước “ngưng chiến” 48 giờ để quân lính hai
bên cùng “ăn tết”.
Chiến
trường Huế là một chiến trường khó khăn cho phía VNCH. Bởi vì lăng tẩm, miếu đền,
di tích lịch sử, di sản văn hóa cấp...
-------------------------
XEM THÊM :
Hoàng Phủ Ngọc Tường, kẻ hái phù du sau
thảm sát Tết Mậu Thân 1968 tại Huế
Hồ
Đinh
Posted
on January
13, 2018 by dongsongcu
No comments:
Post a Comment