Chiến
tranh được định nghĩa như một cuộc tranh giành hơn thua, xung đột vũ trang vì
quyền lực, chiếm đoạt lãnh thổ, áp đặt chủ nghĩa hay để trả thù, rửa hận. Nhiều
nhóm người và dân tộc đã nhân danh nhiều thứ như tự do, độc lập, giải phóng… để
mở cuộc chiến tranh. Dù với nhân danh nào, mục đích nào, giải phóng, áp đặt hay
tự vệ hay bảo toàn lãnh thổ thì chiến tranh cũng đem lại chết chóc, tang tóc
cho cả hai bên. Chúng ta đã thấy hàng trăm nghìn bia mộ, những vành khăn tang của
cô nhi quả phụ, những nạng chống, những chiếc xe lăn của người thương tật, cùng
với xóm làng điêu tàn, và những hậu quả để lại cho đời sống cả chục năm sau
trên mặt địa cầu cũng như những dấu ấn sâu đậm trong tâm hồn con người.
“Túy
ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ
lai chinh chiến kỷ nhân hồi?”
“Say
chốn sa trường xin chớ mỉa
Xưa
nay chinh chiến mấy ai về?”
Hai
câu Ðường của Vương Hàn đã cho ta thấy nỗi xót xa của người chiến sĩ một lần đi
không trở lại. Sau những khải hoàn môn kia, sau những vòng hoa chiến thắng, sau
những ngày lễ khao quân, sau những ”tướng công thành” là những đống xương Vô Ðịnh,
như hai câu sau đây của Bùi Hữu Nghĩa:
“Ðống
xương vô định sương phơi trắng
Vũng
máu phi thường nhuộm cỏ cây!”
Chúng
tôi xin lấy thời điểm 1954 – sau khi đất nước chia cắt và sau đó vài năm chiến
tranh giữa hai miền Nam Bắc bộc phát khốc liệt. Trong thời gian này chúng ta đã
đọc được nhiều bài thơ viết về chiến tranh, phần lớn là của những người cầm
súng. Ở đây chúng tôi chưa có dịp để trình bày với các bạn những bài thơ trong
thời gian gọi là chống Mỹ cứu nước với lòng căm thù hung hãn của những người
làm thơ để “biểu diễn lập trường.”
Với
cái nhìn tổng quát, tôi xin nói về thơ chiến tranh của những thi sĩ, trong cuộc
chiến tranh để bảo vệ miền Nam trong hơn hai mươi năm. Cũng xin nói thêm về
danh từ phản chiến. Chỉ có những kẻ buôn súng mới thích chiến tranh, còn ngoài
ra không ai yêu chiến tranh, ai cũng chống lại chiến tranh, mà người ta gọi bằng
danh từ “Sợ phản chiến.” Nhưng phản chiến không chỉ là đào ngũ, trốn lính, để
trở thành hippy, bụi đời… mà phản chiến cũng có thể vẫn cầm súng và làm hết bổn
phận công dân của mình.
Chúng
ta có những nhà thơ phản chiến không mang danh nghĩa “bất phục tòng,” hiện diện
trong quân đội, có mặt trên chiến trường và vẫn làm thơ lên án chiến tranh. Ðó
là ưu điểm của nền văn nghệ miền Nam.
Trong
những tác giả có thơ chiến tranh mà tôi trích dẫn nơi đây đã có người nằm xuống
trong cuộc chiến, vì người thơ không sống nổi qua một cuộc chiến quá dài. Hiện
nay việc sưu tập thơ trong chiến tranh đã gặp nhiều khó khăn và nhiều tài liệu
đã thất lạc, qua bao nhiêu lần khổ nạn của đánh tư sản, thiêu hủy văn hóa phẩm,
di tản, vượt biển.
Là
người làm văn hóa, nhà văn, thi sĩ, họa sĩ, điêu khắc gia… chúng ta đã chia sẻ
gì với đất nước, với con người về nỗi buồn của chiến tranh, cao hơn là nỗi đau
đớn của chiến tranh.
Ðiều
đáng ghi nhận là suốt trong những dòng thơ của những người miền Nam cầm súng,
không thấy ai căm thù, không thấy ai cao giọng hô hào cho chủ nghĩa, không thấy
ai đòi ăn gan uống máu quân thù. Họ coi chiến tranh như chuyện tất nhiên phải
làm, một bổn phận đưa đẩy, thậm chí là một thứ trò chơi lớn, do đó những người
thơ cầm súng cũng chấp nhận cái chết, sẽ đến bất ngờ, nếu có, một cách thư thái
nhẹ nhàng.
Tôi
ghi lại đây bốn cái nhìn về chiến tranh:
1.
Thảm cảnh của chiến tranh,
2.
Chiến tranh như một thứ trò chơi của số mệnh,
3.
Lòng nhân ái trong thơ của người lính miền Nam,
4.
Nỗi buồn của người lính sau chiến tranh.
Thảm
cảnh của chiến tranh:
Chiến
tranh trước hết là địa ngục. Ở đó là máu lửa, bom đạn, chết chóc, mẹ góa con
côi, què cụt… Mô tả chiến tranh thì mỗi người nhìn từ một góc cạnh, kẻ trực tiếp
cầm súng làm chiến tranh, đối diện với kẻ thù, người là nạn nhân mất chồng, mất
cha, người thấy chiến tranh hiện diện đe dọa cuộc sống bình thường trong thành
phố. Chúng ta sẽ thấy nỗi bi thảm chiến tranh hiện diện thế nào trong thơ.
Mai
Trung Tĩnh đã vẽ một bức tranh tổng thể về chiến tranh trên quê hương miền Nam,
nơi ông đã sống và phục vụ trong quân đội trong bài thơ mang nhan đề “Quê
Hương”:
“Những
bình minh rớm máu
Những
hoàng hôn nghĩa trang
Những
ruộng đồng thi thể
Những
núi đồi thịt xương
Khóc
không còn nước mắt
Ăn
không trọn bát cơm
Học
chẳng thành ra học
Chơi
không còn chỗ chơi
Tuổi
trẻ uống đạn bom
Bao
lần chưa biết đã
Bè
bạn lá mùa thu
Rụng
mỗi lần lả tả
Cái
chết như tặng vật
Tình
yêu quán nghỉ chân
Mười
lăm trông mười bảy
Ba
mươi nhìn năm mươi.”
Vào
sâu từng hoàn cảnh, từng địa phương, chúng ta sẽ thấy chiến tranh nhìn từ mọi
phía, nơi mặt trận đầy đạn bom, tại một đơn vị vừa có nhiều người cầm súng hy
sinh, hay một góc nhà vĩnh biệt quạnh hiu. Với Trần Hoài Thư, người lính thám
báo SÐ 22 BB, trực tiếp tham gia chiến tranh:
“Pháo
chụp người gào khan cổ họng
Máy
sôi tắt nghẹn chờ phi tuần
Miểng
thép đâm xiên thằng bạn gục
Hỏa
châu vàng thoi thóp triền sơn.”
Với
Tô Thùy Yên, người lính làm thơ vùng sình lầy, sông rạch của miền Nam: –
“Di
tản khó – sâu dòi lúc nhúc
Trong
vết thương người bạn nín rên
Người
chết mấy ngày chưa lấy xác
Thây
sình, mặt nát, lạch mương tanh,”
hay:
“Trời
ơi những xác thây la liệt
Con
ai, chồng ai, anh em ai?” (TTY)
Lan
Sơn Ðài, một nhà thơ trẻ, đã viết những dòng thơ buồn sau đây trên tuần báo Khởi
Hành năm 1969, khi chiến tranh tới hồi khốc liệt, lúc thoát chết mà không biết
nên khóc hay nên cười:
“Khi
tôi về theo đơn vị ở Tân Uyên,
đêm
không bóng đèn, ngày chói chang nắng phủ
từng
mùa trăng lùng địch tận chiến khu D,
những
ngày nơi đây tôi không hy vọng được về
chết
– nhất định tưởng rằng tôi sẽ chết
bao
nhiêu đói rét – ôi nhọc nhằn hết sức,
vinh
quang đâu – đời tôi đó hôm nay
bạn
bè tôi, thằng hóa đá, đứa mây bay
đứa
còn kẹt ở chiến khu một cánh tay, một bàn chân, dăm ba sợi tóc
điều
không tưởng là tôi được thoát
nên
biết cười hay nên khóc thế nào đây?”
Và
với Trần Thuật Ngữ, chiến tranh là vô nghĩa và vô định:
“lòng
theo chân bước mịt mờ
thịt
xương ủ lạnh ngọn cờ đỏ tươi
từ
đi theo vết máu người
ngủ
trong tiếng nổ quên lời chim ca
người
nằm trong đất xót xa
người
đi trên đất xương da rã rời.”
Và
đây, với Nguyễn Phúc Sông Hương, người lính đang thực sự chiến đấu trên mảnh đất
đồng bằng Nam Bộ, thấy bạn bè ngã gục trước mắt mình:
“Ngày
đầu nhảy xuống rừng An Lộc
Tuấn,
Bé, Hùng, An đã giã từ
Ðành
lấp hình hài khắc dấu đá
Quan
tài chôn bạn chiếc poncho.”
“…Chỉ
hai trăm mét mà xa lắm
Trảng
trống đã rơi mấy chục người
Trảng
trống, đời ta nhiều trảng trống
Và
nhiều cao địa núi sông ơi!”
Ðây
là câu hỏi của một người chiến binh khác, Ý Yên:
“Sau
những đợt xung phong ào thác lũ
Còn
lại gì, vườn trống cạnh nhà hoang?”
Ngy
Hữu, một người lính làm thơ khác đã viết những lời trối trăn gần như tuyệt vọng:
“em
biết không tháng ngày bom đạn phá
những
thằng con trai chết tuổi hai mươi
anh
nhìn lại bốn năm miền máu lửa
xót
xa đầy hồn du tử em ơi.
“ngày
mai anh về nghĩa trang quân đội
người
lính còn ngồi ôm súng không em
xin
đừng khóc nếu một lần em tới
vì
với đời – anh tình nguyện quên tên.”
Cũng
trong hoàn cảnh những chiếc quan tài người lính mới được đưa về hậu cứ hay ở quận
lỵ heo hút, đôi khi chẳng có khói nhang, với cái nhìn của Tô Thùy Yên:
Áo
quan phong quốc kỳ oanh liệt
Niềm
thiên thu đầm cỗ xe tang
Quê
nhà không tiện đường đưa tiễn
Nghĩa
tận sơ sài đám lạnh tanh. (thơ TTY)
Nếu
được vẽ một bức tranh về chiến tranh thì Thái Hải Ngạn sẽ vẽ như thế này:
“Vẽ
quê hương khói đạn mù
Vẽ
anh em với mắt thù bao năm
Vẽ
em thơ chết trăng rằm
Vẽ
đêm phố chợ điêu tàn gạch vôi.”
Ðối
với Ðịnh Giang, không còn cả tương lai cho thế hệ mai sau:
“Mau
lớn khôn đi con
Góp
mặt cùng bè bạn
Ðêm
nhìn nắng hỏa châu
Ngày
nhìn mưa bom đạn”
…
“Cha cuộc đời lính tráng
Mười
năm vác súng rồi
Mỗi
năm giờ sum họp
Ngắn
hơn giờ chia phôi.”
Tống
Châu An ghi lại nỗi buồn trong một đêm đi kích ở miền quê:
“Quê
hương chinh chiến mù mù
Ðêm
nghe chinh phụ à ời ru con.”
Trái
với những người làm thơ ngoài mặt trận, Lê Thị Huệ nhìn chiến tranh ở hậu
phương, trên phố phường qua những chướng ngại trên đường phố, đó là những lô cốt,
với những cái nhìn phản chiến, hờn giận:
“Tôi
lớn dậy cùng những lô cốt chắn đường,
Tử
thủ phố phường ướt những đêm kinh con gái
Máu
chảy lai láng chiến trường trong bản tin buổi sáng
Lô
cốt. Lô cốt. Những hàng rào kẽm gai!
Gai
đâm ngang mặt trời quê hương chiến tranh
Tôi
không biết được mùi hương của những nụ hoa chanh
Nở
cốm xanh trời việt Nam những trưa hè lưu tán
Họ
để lại lô cốt những cái bướu trâu
Mọc
u óc khắp tử cung tôi thời hậu chiến
Chúng
nổi tự bao giờ làm sao tôi hiểu thấu
Những
lô cốt còn lại từ một cuộc chiến tranh.”
Ðây
cũng là cái nhìn về chiến tranh qua đời sống người dân ở một quận lỵ miền Nam,
qua thơ của Thạch Nhân:
“Buổi
sáng nhìn những chuyến xe đò chạy vào quận lỵ
những
chuyến xe chạy chậm hơn rùa
những
mô đất cao, những ổ gà có thể
là
bóng tử thần đang chờ đợi chúng ta
Buổi
sáng nhìn những mái nhà, những ngôi chùa sụp đổ
ôi
quả đạn nào vừa rơi trúng đêm qua
những
xác người, những trái tim ngừng thở
đứa
bé nhà ai khát sữa kêu la”...
Không
chia sẻ, làm sao hiểu được nỗi đau của người trong cuộc, khi mất đi 1/2 phần đời
của mình như người quả phụ trong thơ Lê Thị Ý, chua xót với hình ảnh “anh lên
lon mới giữ hai hàng nến trong”:
“Ngày
mai đi nhận xác chồng
Say
đi để nhớ mình không là mình.
Ngày
mai đi nhận xác anh
Cuồng
si một thuở hiển linh bây giờ.”
và
Linh Phương, một người mà chúng ta biết rất ít, hiện ra một lần, rồi biến mất,
nhưng những âm thanh còn lại để đời qua nhạc Phạm Duy, một bài thơ với những
hình ảnh xót xa nhất của chiến tranh, được coi như một bài thơ phản chiến:
“Anh
trở về trên chiếc băng ca
Trên
trực thăng sơn màu tang trắng
Anh
trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho
buồn liệm kín đời anh
Anh
trở về bờ tóc em xanh
Chít
khăn sô trên đầu vội vã, em ơi.”
Nhà
thơ nhìn chiến tranh như một trò chơi:
Sống
chết là số mệnh
Hầu
hết những người làm thơ miền Nam là người cầm súng. Dù họ phản chiến, nghĩa là
ghét chiến tranh, chống chiến tranh, hoặc coi chiến tranh như một điều phải
làm, một điều không thể tránh. Bị động viên như một trạng thái thụ động, hay
hăng hái tình nguyện vào lính vì yêu lý tưởng, vì không hèn, họ vẫn còn khí
phách của những người trai. Ra trận, có nghĩa là cái chết đã gần kề, không nghe
ai run sợ, mà vẫn nghe sự hào sảng, khí khái như Tô Thùy Yên sau đây
-Tới
đây toàn những tay hào sảng
Sống
chết khôn làm thắt ruột gan
Cũng
không ai nhắc gì thân thế
Có
vợ con mà như độc thân.
–
Bạn hỏi thăm ta cho có lệ
Cuộc
đời binh nghiệp – Ta cười bung
Còn
mươi tháng nữa lên trung úy
Có
thể ngày mai chữa biết chừng…
Và
đây, những suy nghĩ của Trần Hoài Thư trong một đêm chuẩn bị hành quân:
“Nửa
đêm kẻng dục, quân ra trận
kinh
động cả lòng đêm tối bưng
Nhận
lấy chỉ ba ngày cơm gạo sấy
không
buồn, chỉ một chút bâng khuâng.
Ðời
ta là con số không vô tận
May
trên đầu còn chiếc mũ rừng
mũ
nhẹ nên coi đời cũng nhẹ
Chiến
tranh. Thì cũng tựa phù vân (THT)
Nguyễn
Bắc Sơn, người được coi như một nhà thơ phản chiến, cũng chỉ hơi thấy một chút
buồn ngày ra trận:
“Ðêm
nằm ngủ võng trên đồi cát
Nghe
súng rừng xa nổ cắc cù
Chợt
thấy trong lòng mình bát ngát
Nỗi
buồn sương khói của mùa thu.
Mai
ta đụng trận ta còn sống
Về
ghé song Mao phá phách chơi
Chia
sớt nỗi buồn cùng gái điếm
Ðốt
tiền mua vội một ngày vui. (Nguyễn Bắc Sơn)
Trong
bài “Tiệc Tẩy Trần của Những Thằng Sống Sót,” Nguyễn Bắc Sơn đã viết:
“Các
bạn cũ những thằng nào vô phước,
Mồ
đang xanh vì cuộc chiến hôm qua,
Hãy
về đây mà say khướt cùng ta
Này
bóng mây cao, này vòm lá thấp.”
Ðôi
lúc giận đời cũng muốn chửi thề một tiếng:
“Chửi
thề mấy tiếng trong tầm pháo
Thế
hệ sinh lầm thuở rối ren!” (NBS)
Lòng
nhân ái trong chiến tranh:
Người
lính trong chiến tranh có buồn không? Xa xa, trên đường chinh chiến gian nguy,
không biết cái chết đang rình rập đâu đây, nhưng thơ của người lính miền Nam vẫn
hào khí và đầy lòng nhân ái, như những câu thơ sau đây của Nguyễn Phúc Sông
Hương, một đêm trăng tròn trên chiến địa:
Mấy
tiếng tù và vang dưới lũng
Chắc
là địch lạc, thổi tìm quân.
…Ðỉnh
cao ta chẳng cần xin pháo
Ðể
cho người sống trọn đêm rằm.
Ai
đi đánh giặc mà không muốn tìm và diệt đối thủ, nhưng ý tưởng của Nguyễn Phúc
Sông Hương cũng gần gũi với Nguyễn Bắc Sơn, coi chiến tranh như tai trời ách nước,
chết sống đều do số mệnh an bài:
“Ta
vốn hiền khô là lính cậu
Ði
hành quân rượu đế vẫn mang theo
Mang
trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem
chiến cuộc như tai trời ách nước.
Ta
bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì
căn phần ngươi xui khiến đó thôi.”
Rõ
ràng cuộc chiến như trò chơi, không căm hờn, không thù hận.
Trần
Hoài Thư cũng đồng ý chiến tranh, chết sống là nghiệp số:
“Kẻ
bỏ ra đi người ở lại
Chiến
tranh thì cũng nghiệp oan chung.”
Tô
Thùy Yên đã nói đến điều vô lý của chiến tranh trong bài thơ dài “Chiều Trên
Phá Tam Giang”:
“Hỡi
gã Cộng quân sốt rét, đói
Xích
lời nguyền, sinh Bắc tử Nam.
Vì
sao ngươi tới đây?
Vì
sao ta tới đây?
Lòng
xót xa, thân xác mỏi mòn
Dưới
mắt ngươi làm tên lính nguy.”
hay:
“Hỏi
nhau chơi cho thỏa tính bông đùa
Ngươi
cùng ta ai thật sự hy sinh
Cho
tổ quốc Việt Nam – một tổ quốc…?
Các
việc người làm, ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm.
Các
việc ta làm,
Ta
xét thấy chẳng ra chi!”
Những
nhà thơ miền Nam, không nghe ai kêu gào giết giặc như nhà thơ Chính Hữu của bên
kia chiến tuyến, đó không phải là nỗi đau của chiến tranh, đó là hả dạ lòng căm
thù:
“Mùa
thu thây giặc chất sông núi,
Mùa
hạ thây giặc phơi đầy đồng.”
Cùng
một cái nhìn đối với những xác chết ngoài trận địa sau cơn giao tranh, Chính Hữu
làm sao có được cái nhìn nhân ái đối với những con người đã nằm xuống ngoài trận
địa, để có thể đặt câu hỏi như Trần Hoài Thư:
“Ai
bạn ai thù sao quá thảm,
Trên
một dòng cuồn cuộn oan gia”
hay
pha chút đau đớn như Tô Thùy Yên:
“Trời
ơi, những xác thây la liệt
Con
ai, chồng ai, anh em ai?”
Chiến
tranh chấm dứt: những người thơ miền Nam nghĩ gì? đó là nỗi buồn chưa hết, nỗi
buồn sau chiến tranh:
Rồi
chiến tranh đột ngột chấm dứt, người ta dùng hình ảnh người lính bị bức tử phải
buông súng, hay nói như nhà văn Cao Xuân Huy là gãy súng. Danh từ quân đội là
tan hàng, danh từ điện ảnh là đứt phim. Sáu năm trước khi chiến tranh chấm dứt,
Nguyễn Bắc Sơn đã nghĩ sẽ có một ngày:
“Cởi
áo trận và hoa mai ném tuốt,
Xin
giã từ đời vũ khí, huy chương
Xin
trở về như một kẻ hoàn lương
Xin
vứt hết, xin bắt đầu lại hết.”
và
chúng ta, ai cũng có quyền mơ ước như Bùi Nghi Trang:
“ngày
nào đó ta trả súng trở về
cha
con ta vác sách thánh hiền, vác cần câu ra bờ ruộng.”
hay:
“ngày
nào đó ta trả súng trở về,
ta
sẽ kẻ lông mày cho hiền thê như Triệu Minh-Vô Kỵ”
Nhưng
sau ngày 30 tháng 4, rõ ràng là những mơ ước đó không thành sự thật, và rất nhiều
điều bất trắc đang chờ đợi người lính thất trận. Người lính không tiếc cấp bậc
không tiếc danh vọng, nhưng có người đã tiếc một cuộc đời toan tính hy sinh cho
hai chữ tự do, họ tiếc vì sự nghiệp nửa chừng dang dở. Giờ đây sau chiến tranh
là nỗi nhớ chiến hữu, nhớ bạn, nhớ bè:
“Chiếc
chiếu rượu bây giờ thành chiếu trống
Những
người xưa giờ đã bỏ đi đâu
Còn
lại mình tôi, cách nửa địa cầu
Con
ngựa lạc đàn ngậm ngùi đất khách” (Trần Hoài Thư)
Ðẹp
hơn cả, trong sự hối tiếc sau chiến tranh, là họ không còn che chở, chiến đấu
được cho những người dân, những đồng bào trong vùng trách nhiệm, bất lực trước
thời cuộc đổi thay quá nhanh chóng.
Người
lính miền Nam “chân theo đoàn quân rút đi, nhưng tấm lòng còn ở lại” như ý thơ
của Nguyễn Phúc Sông Hương, trong bài Nửa Hồn Xuân Lộc mà tôi xin trích dẫn một
vài đoạn sau đây để kết thúc cho bài này:
…….
Hồn
ta là kiếm sao không chém
Rạp
ngã rừng xanh, bạt núi đồi.
Hỡi
ơi! chân bước qua Bình Giã
Cẩm
Mỹ nhà ai khói, ngậm ngùi!
Lửa
cháy, cả lòng ta lửa cháy
Xóm
làng Gia Kiệm nhớ khôn nguôi.
Ðêm
nay Xuân Lộc, đoàn quân rút
Ðành
biệt nhau, xin tạ lỗi người
Chao
ơi tiếng tắc kè thê thiết
Kêu
giữa đêm dài sợ lẻ loi,
Chân
bước, nửa hồn chinh chiến giục
Nửa
hồn Xuân Lộc gọi quay lui
Ta
biết dưới hầm em đang khóc
Thét
gầm pháo địch dập không thôi…
_________________________________________
Tài
liệu tham khảo:
-
Tạp Chí Khởi Hành của Viên Linh (bộ cũ trước 1975)
-
Trong dòng cảm thức văn học miền Nam (Trần Văn Nam – 2006)
-
Thơ Văn Hiện Ðại (Uyên Thao – 1969)
-
Tuyển tập thơ Trần Hoài Thư (2004)
No comments:
Post a Comment