Thứ Bảy, 3 tháng 2, 2018
Lời
tòa soạn DĐTK: Bài dưới đây là một chương (từ
trang 251 đến trang 259) trong cuốn Rồng Xanh Ngục Đỏ của Linh mục Vũ Đình Trác do Hội Hữu xuất bản
tại Hoa Kỳ năm 1986. Đây là một cuốn hồi ký kể lại quãng đời của tác giả từ sau
ngày 30 tháng 4, 1975 cho đến lúc vượt biên thành công vào tháng Năm,
1980.
Chương nói về cái chết của Giáo sư Nghiêm Thẩm mà
chúng tôi xin phép đăng lại hôm nay là một tài liệu quan trọng, khẳng định
chính quyền cộng sản VN đã thủ tiêu Giáo sư với chính “chiếc búa khảo cổ” của
ông, để trừng trị ông đã không chịu cộng tác với họ rêu rao một cách phản khoa
học rằng Việt Nam là thủy tổ của các dân tộc Đông Nam Á Châu.
*
Nghiêm-Thẩm được XHCN Việt-Nam cho là nhà khảo-cổ và
nhân-chủng học xuất-sắc. Chính sự xuất sắc lỗi lạc đã đưa ông đến cái chết bi
thảm vô cùng.
Tôi quen Nghiêm-Thẩm từ 1978, khi tôi được mời vào
làm việc trong nhóm ngữ-học của Thanh-Lãng nhân một hôm có cuộc hội-thảo về
tài-liệu cổ. Khi tôi trình-bày một tài-liệu cổ văn-học Việt qua cuốn Bách Việt
Tiên-Hiền chí rút trong Đại Bộ Dã-sử Trung Hoa Lĩnh-Nam di thư. Như thoáng ngửi
thấy mùi cổ kính quen thuộc, Nghiêm-Thẩm ngậm dọc tẩu đúng điệu “đế- quốc” đến
bên cạnh tôi. Ông chỉ hỏi tôi một câu:
Linh-mục được biết tới tài-liệu đó hay hiện đã nằm trong tay?
Tôi bảo ông:
Hiện tài-liệu đó đang nằm trong tủ sách của tôi.
Ông nhắp nhắp dọc tẩu hai ba cái, quay về chỗ cũ, có
vẻ đắc ý.
Ngay sau khi tan hội, ông tới phòng tôi để nhìn tận
mắt tập tài-liệu cổ đó.
Ông bảo tôi:
Tài-liệu này rất quý, tụi Pháp mà vớ được tài-liệu này, nó có thể làm
truyện lớn. Tụi cộng-sản Bắc-Việt cũng chưa có. Linh-mục đừng để tụi nó đánh
hơi thấy mà rầy-rà đấy. Riêng tôi có một tượng đồng đen nhỏ, một cái búa khảo cổ
rất quý và một ít sách hiện nay không tìm đâu ra, mà tụi nó săn như săn vàng ấy.
Chúng tôi uống với nhau vài ly rượu thuốc, rồi ông
ra về.
Mối
duyên khảo cổ
Sau buổi sơ-giao ấy, Nghiêm-Thẩm luôn luôn có dịp gặp
tôi, lúc thì ở phòng họp, khi thì ở nhà riêng. Tôi cho ông xem những tài-liệu cổ
về văn-học Bách-Việt và những tài-liệu liên-quan đến văn học cổ Việt-Nam, hiện
nay được tàng-trữ tại thư-viện Quốc-hội Nhật-Bản.
Có lần ông bảo tôi:
Tôi say mê mấy cái đồ cổ này còn hơn mê gái nữa, linh-mục ạ.
Ông cũng mời tôi đến nhà riêng tại vùng Trương-
minh-Giảng, để nhìn chiếc búa khảo cổ và những sách quý của ông.
Ông nói:
Chiếc búa khảo cổ này, bao nhiêu người đòi mua, nhất là người ngoại quốc,
mà tôi không bán. Có người dám trả tới 200 dola. Tôi còn một tượng đồng đen nhỏ,
mà tụi nó quý hơn vàng. Nghe nói tụi nó có thể bán cho Nga-Xô bằng một giá rất
đắt. Tụi Nga dùng đồng đen trong kỹ-nghệ nguyên-tử. Tôi sợ tụi nó “chớp”, nên
trao cho một người bạn giữ hộ.
Lần khác tôi tới nhà ông, gặp luôn cả người bạn quen
từ hồi còn lưu học tại Tokyo, là chị NTD hiện giờ là bạn đồng nghiệp của ông.
Nghiêm-Thẩm không ngại nói thẳng với tôi:
Bà NTD mới làm hôn-thú với tôi, để cùng đứng đơn xin đoàn-tụ với ba má ở
Canada. Hiện giờ bà NTD và một cô cháu gái ở với tôi. Còn nhà tôi và mấy cháu
đang ở Hoa-Kỳ.
Chị NTD cũng hay nói lại nhiều truyện cũ tại Tokyo;
hiện nay chị dạy Nhật-ngữ cho đại-học Văn- khoa và xung vào nhóm Từ-điển Nhật-Việt.
Vì thế tôi quen với cả hai người. Từ đó mỗi lần đến thăm tôi, Nghiêm-Thẩm đều dắt
chị NTD đi theo.
Có lần chị NTD nói vói tôi:
Anh Nghiêm-Thẩm là một nhà khoa-học thuần- túy, nên anh thiếu sự đưa-đẩy
uyền-chuyển, khi giao tiếp với công-an cán-bộ.
Nghiêm-Thẩm tính ít nói - hay đúng ra ít nói những
truyện không thuộc khoa khảo-cổ của ông - Ông thường bảo tôi:
Linh-mục phải giữ bí-mật những tài-liệu cổ này, kẻo tụi nó đánh hơi được
thì phiền to; chiếc búa khảo cổ của tôi, tụi nó cũng biết rồi, mà cứ nay đứa
này, mai đứa khác đến hỏi thăm và đòi xem.
Mỗi lần gặp nhau, ông lại cho tôi xem ít tài liệu cổ
của ông - phải chăng ai thích đồ cổ, mới được Nghiêm- Thẩm đãi-thị như vậy.
Chị NDT vẫn bảo tôi:
Anh Thẩm quý cha lắm, mới tiết-lộ những bí-mật của anh như thế.
Riêng tôi cũng cảm thấy Nghiêm-Thẩm quý tôi, mà tôi
cũng quý Nghiêm-Thẩm. Hai chúng tôi mới quen nhau, mà thân nhau rất mau, chỉ vì
mối duyên khảo cổ.
Có lần Ông xác nhận:
Tôi, một người ngoại giáo, quen thân với một linh-mục công-giáo, vì tôi mến
chân tình của Cha và chí- hướng của cha.
Lần lần đi tới chỗ thân mật, anh đã bỏ được hai chữ
linh-mục, để gọi tôi là anh.
Một
biến-cố trong đời Nghiêm- Thẩm
Bỗng một hôm tôi được mấy chữ của Nghiêm-Thẩm do một
sinh-viên đem tới.
Anh viết:
“Chiều nay tôi muốn gặp anh nói vài truyện quan- trọng lúc 4 giờ. Nếu anh
không ngăn-trở gì, xin cho biết". Thẩm.
Tôi nhận lời. Anh đến đúng giờ với chiếc xe đạp cũ-
kỹ. Như mọi lần, sau một ly rượu bổ “Tam-Tài”, anh tiêm thuốc vào dọc tẩu, hít
vài hơi, rồi vào truyện ngay:
Hôm nay tôi có truyện cần bàn với anh, vì ngoài anh ra chả biết nói với
ai. Năm ngoái, thằng Lê-Duẩn từ Bắc vào, đi với Nguyễn-Tuân, nó gặp tôi ở
khách-sạn Majestic, cho ăn uống thật ngon lành đúng điệu, rồi nó ca-tụng. Sau
cùng nó bảo:
Anh là một nhà khảo-cổ danh tiếng, cả người Pháp người Việt đều biết và
ca-tụng. Bây giờ vì quốc- gia đại sự, tôi yêu-cầu anh tận dùng tài-năng để phụng-
sự Tổ-quốc.
Tôi không biết truyện gì mà Lê-Duẩn nói lời trịnh-
trọng quá vậy. Tôi bảo hắn:
Xin tổng Bí-thư cứ cho biết ý-kiến, tôi sẽ cố-gắng, nếu có thể.
Hắn liền nói ngay một cách trôi chảy:
Anh Nghiêm-Thẩm, chắc anh biết: cả thế giới đang coi Việt-Nam mình như “đỉnh
cao trí-tuệ loài người”, mà anh cũng được vinh-dự ấy. Việt-Nam chúng ta phải
làm chủ miền Đông-Nam-Á này. Mọi yếu tố làm chủ hầu như đã đầy đủ, chỉ còn thiếu
một điều...
Từ trước tới nay, mấy thằng chép sử “nhãi-ranh” vẫn cho rằng: nguồn-gốc
các sắc-tộc miền Đông-Nam-Á- Châu này là Mã-Lai hay Indonesien. Đại Nga-xô mới
tìm được ít dấu vết chứng tỏ rằng Việt-Nam chúng mình mới là thủy-tổ. Chúng ta đang
làm lại lịch-sử Đông-Nam Á-Châu. Khoa nhân-chủng-học và khảo-cổ của ta lúc này
đang phát-đạt vô-biên, nên anh phải nắm lấy cơ-hội này, với uy-tín sẵn có của
anh, anh phải viết một bài lớn, thẩm-định lại: Dân Việt-Nam là thủy-tổ các
dân-tộc Đông-Nam Á-Châu. Như thế mới đúng ý-nghĩa của “Đỉnh cao trí tuệ loài
người” và mới xứng-đáng tài-năng hiếm có của anh.
Tôi im-lặng một phút... trả lời hắn:
Uy-tín của tôi lúc này là nói đúng và nói thật. Theo các tài-liệu khoa-học
hiển-nhiên, nhất là khoa khảo-cổ học và nhân-chủng học quá rõ-ràng, tôi không
thể viết thế khác được. Viết như đồng-chí nói là phản khoa-học.
Hắn mỉm cười, bảo tôi:
Anh nói thế tức là còn đang ở trong vòng gò-bó của sách vở, của óc đế-quốc,
của hủ-hậu, chứ không theo sử-quan một tí nào cả.
Tôi cảm thấy tức đầy ruột, và thực-sự lúc ấy tôi
nhìn thằng Lê-Duẩn như một con chó chết đê hèn, nên tôi hơi bạo lời:
Nếu tôi viết như thế, thì các nhà khảo-cổ và nhân- chủng-học trên thế-giới
sẽ cho tôi và cả chế-độ tôi phục- vụ là con chó chết. Tôi không bao giờ làm
truyện sa-đoạ ấy.
Lê-Duẩn vẫn không lộ vẻ tức-giận. Hắn hỏi tôi vắn- tắt:
Anh nhất định không làm truyện đó?
Tôi bỗng tìm được một danh-từ xưng-hô, trả lời hắn:
Tôi không thể đáp-ứng yêu-cầu của đàn-anh trong việc này.
Lê-Duẩn ném cho tôi một cái nhìn có vẻ dữ tợn với
câu nói cộc-lốc:
Anh nhất định thế... Mong anh đổi ý.
Tôi cũng nhìn thẳng vào mặt hắn, trả lời cương- quyết:
Tôi không bao giờ đổi ý.
Hắn ra đi, không nói thêm nửa lời.
Tôi coi đó như một biến-cố đổ-vỡ trong đời tôi, dưới chế-độ khốn-nạn này.
Nhưng tôi thà tan vỡ cả tấm thân với cả chế-độ này, còn hơn đổ vỡ cho đất nước
tôi, cho chí-hướng và danh-dự học thức của tôi.
Và
một vinh-dự rẻ tiền
Nghiêm-Thẩm trầm ngâm một vài phút, kể tiếp:
Sau lần gặp Lê-Duẩn ấy, tôi đinh-ninh tụi nó sẽ tìm cách hủy-diệt tôi.
Nhưng lạ lùng: cách đây hai tháng, Bộ-trưởng Thông-tin cùng với Phạm-huy-
Thông, giám-đốc khảo-cổ Bắc-Việt và mấy thằng Bộ- trưởng khác, mà tôi không cần
biết mặt biết tên, mời tôi đi họp tại một khách-sạn ở Saigon, chúng đổi tên là
Hữu-Nghị. Chúng nó đưa đón tôi bằng xe Mercedes và tiếp-đãi ăn uống rất sang.
Tôi đã ngán tụi nó, nên khi đồng bọn đề-cập vấn đề khảo-cổ và nhân-chủng-học,
tôi chỉ ư hự, không góp ý kiến nào, cũng không tiết lộ bất cứ một tài-liệu nào.
Tôi chỉ hứa viết cho Phạm-huy-Thông một bài trong tạo-chí khảo-cổ của anh.2F
Bộ-trưởng Thông-tin bảo tôi:
Mong anh Nghiêm-Thẩm tích-cực đóng góp tài liệu và kiến-thức, để chúng ta
tham-dự Đại-Hội khảo- cổ tại Mắc-cơ-va kỳ tới. Và nếu có thể, chúng tôi cũng cần
sự góp mặt của anh trong phái-đoàn đi dự hội.
Tôi trả lời thẳng thắn:
Trước đây tổng bí-thư có nói với tôi nhiều về khảo cổ và nhân-chủng-học,
nhưng tôi không có một chiều- hướng nào khác với sự cố-định của tài-liệu khảo cổ.
Cũng xin miễn đi hội-họp, vì tôi có nhiều ý-kiến đối- nghịch, sẽ bất lợi cho Đại-Hội.
Ông ta chỉ nói một câu:
Cái đó tùy anh.
Sau ba bốn ngày đưa đón, đãi-ngộ tôi, không đem lại
kết quả nào, Bộ-trưởng Thông-tin bảo tôi:
Anh chưa đủ thành-thực.
Tôi nghe câu đó như một bản án kết tội; từ đó tôi bắt đầu chán sống. Bà
NTD bảo tôi: thái độ như vậy không hay. Coi chừng tụi nó cho mình là phản chế-độ,
là bất hợp-tác. Anh nên mềm dẻo với tụi nó thì hơn.
Nhưng tôi không thể làm khác được.
Tôi chỉ biết thông-cảm nỗi lòng của anh: nghe theo không được, mà không
nghe theo cũng không xong.
Những
điềm gở của tan vỡ
Vào thượng tuần tháng 11, 1979, sau khi tham dự hội-thảo
ngữ-học với phái-đoàn Nga-Xô, Nghiêm- Thẩm tới phòng tôi nói truyện. Hôm ấy con
người anh có dáng điệu chán-nản và bi-quan lạ thường. Câu truyện anh nói hôm
nay cũng đượm màu kỳ-bí không vui. Thái-độ của anh hôm nay cũng khác lạ. Anh
nói với tôi đúng giọng một “con chiên”:
Có lẽ tôi phải xin anh rửa tội, để vào đạo, nấp bóng từ-bi của Đức Chúa,
mong niềm an-ủi phù-trợ của Ngài. Lúc này tôi chán-nản hết rồi, mấy hôm nay nhiều
điềm gở lạ xảy đến, làm tôi hết sức hoang-mang e-ngại, anh ạ... Hôm thứ Hai vừa
qua tôi đang đọc sách trước sân bên cạnh giàn hoa, đột nhiên có hai con chim
đánh nhau trên trời rơi xuống chết ngay trước mặt dưới chân tôi. Tự nhiên tôi cảm
thấy như có gì rợn rùng sắp tới.
Rồi hôm qua, bể cá của tôi có ba con cá rất đẹp tôi vốn ưa thích, bỗng
dưng ba con cá ấy cũng lăn ra chết.
Vì thế, mấy hôm nay hình ảnh của cái chết-chóc ám- ảnh tôi hoài. Bà NTD
cho đó là những điềm rất gở. Có lẽ tụi nó sắp hại tôi.
Không biết an-ủi anh thế nào, tôi chỉ trấn an anh:
Nếu anh coi đó là điềm dữ, thì nên giữ mình thận- trọng hơn. Tôi cầu mong
anh thoát ly mọi tai-biến.
Chúng tôi chia tay nhau một cách buồn thảm, chỉ nói
với nhau một câu đồng vọng:
— Số phận chúng mình dưới chế-độ cộng-sản chỉ có thế.
*
Sau đó tôi được cấp giấy phép đi giảng dạy Đông-y tại
Cần-Thơ. Sau mấy tuần lễ, trở lại Chí-Hòa, đến thăm LTN, thì anh cho biết:
Nghiêm-Thẩm đã chết cách đây hai tuần, tức vào cuối tháng 11,1979...
Vào lúc 11 giờ trưa, có hai kẻ lạ mặt tông cửa vào
nhà anh, lúc ấy chị NTD vắng nhà, chỉ có người cháu gái ở nhà trong. Tụi nó giơ
súng áp đảo Nghiêm-Thẩm, bắt anh đưa nộp chiếc búa khảo cổ. Nhận được chiếc
búa, chúng đập vào đầu anh ba búa. Anh nằm chết trên vũng máu. Hai tên sát nhân
lấy chiếc búa bỏ chạy, trước sự chứng-kiến trộm của người cháu.
Cô này vội đi tìm chị NTD về. Công-an Thành đến điều-tra,
lập biên-bản và tức khắc niêm-phong tủ sách của Nghiêm-Thẩm. Chị NTD đứng lo
mai-táng cho anh. Có ít bạn đồng nghiệp tiễn đưa anh về nghĩa-địa...
Bạn bè ngồi lại kể truyện Nghiêm-Thẩm, mới biết anh
đã tiết-lộ những điềm gở trên đây cho sáu người, trước khi chết mười ngày.
Lúc này mọi người chỉ còn biết ngồi lại, âm-thầm tưởng-niệm
một người bạn đáng kính, đã ra đi tức- tưởi, không bao giờ trở lại.
Anh LTN và NTN mời anh em nâng ly rượu, chiêu hồn
Nghiêm-Thẩm về, để chứng-kiến mối hận ngàn trùng của anh chị em trí-thức Việt-Nam
dưới bàn tay đẫm máu của cộng-sản.
Anh NTN đại-diện anh chị em ngâm lên mấy vần thơ thâm
niệm:
Nghiêm-Thẩm ! Nghiêm-Thẩm !
Anh là đỉnh cao của hoa gấm Giang-Sơn,
Anh ra đi mang nặng những oán-hờn.
Có khôn thiêng, xin hãy về chứng-giám
Vạn lòng thành, vạn niềm tin tưởng niệm
Của anh em trí-thức dưới trời Nam.
Nguyện làm gió quét sạch lũ sài-lang,
Nguyện làm mưa cho quê-hương mát-mẻ,
Nguyện làm nắng cho rực màu đất Mẹ,
Nguyện làm trăng gieo rắc ánh thanh-bình.
Anh là đỉnh cao của hoa gấm Giang-Sơn,
Anh ra đi mang nặng những oán-hờn.
Có khôn thiêng, xin hãy về chứng-giám
Vạn lòng thành, vạn niềm tin tưởng niệm
Của anh em trí-thức dưới trời Nam.
Nguyện làm gió quét sạch lũ sài-lang,
Nguyện làm mưa cho quê-hương mát-mẻ,
Nguyện làm nắng cho rực màu đất Mẹ,
Nguyện làm trăng gieo rắc ánh thanh-bình.
-------
Đôi
nét về Linh mục Phêrô Vũ Đình Trác
Linh Mục Phêrô Vũ Đình Trác là một người đa tài -
bút hiệu là Hán Chương, giáo sư tiến sĩ triết học Đông phương tại nhiều trường
trung học và đại học trước năm 1975, đông y sĩ, nhạc sĩ thánh ca, tác giả của
ca khúc hợp xướng nổi tiếng "Tình Chúa Yêu Tôi" - đã qua đời bình yên
tại tư gia trong đêm 29 rạng 30 Tháng Chín, năm 2003, thọ 77 tuổi.
Linh mục Vũ Đình Trác cũng là nguyên chủ tịch Liên
Đoàn Công Giáo VN tại Hoa Kỳ và chủ tịch Cộng Đồng Giáo sĩ và Tu Sĩ Việt Nam tại
Hoa Kỳ. Linh mục đã chứng tỏ có một nhãn quan độc đáo với một viễn kiến rất bao
dung về tương lai dân tộc Việt Nam, vượt trên mọi tranh chấp đương thời.
Thụ phong linh mục năm 26 tuổi tại Vương Cung Thánh
Đường Saigon ngay trong năm đầu tiên sau khi chạy cộng sản từ Bắc vào Nam, Lm.
Trác đã phụ trách rất nhiều công việc, từ tôn giáo tới xã hội, từ văn hóa tới
chính trị...
Năm 1956, Ngài làm chủ nhiệm Tuần Báo Đường Sống, viết
về các vấn đề của người tỵ nạn miền Bắc vào Nam lánh nạn cộng sản.
Ngài từng ủng hộ chính quyền của nguyên Tổng Thống
Ngô Đình Diệm, nhưng ngài cũng đã thẳng thắn thừa nhận sự kiện vị lãnh đạo miền
Nam đang mất uy tín với dân chúng qua bài viết kêu gọi mọi người "hãy cầu
nguyện cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm lấy lại được uy tín" với quốc dân.
Chính vì bài viết này, ngài đã bị đưa ra tòa với tội chống chính quyền và bị
kêu án 18 tháng tù. Theo chính Lm. Trác tiết lộ, diễn tiến này xảy ra dưới sự
điều động của bà Ngô Đình Nhu, em dâu tổng thống, trong lúc Tổng Thống Diệm
công du Hoa Kỳ. Hay biết được chuyện này, Tổng Thống Diệm đã đích thân can thiệp,
ân xá và xóa án cho ngài.
Là một học giả cực kỳ uyên bác, ngài tinh thông nhiều
ngoại ngữ, như tiếng Hoa, tiếng Nhật, Anh, Pháp, La Tinh... Lm. Trác đậu Cử
Nhân Văn Chương Việt Hán tại Đại Học Sài Gòn, đậu Tiến Sĩ Triết Học Đông Phương
tại Đại Học Fujen, Đài Loan với luận án "Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ",
Tiến Sĩ Triết Học Đông Phương tại Đại Học Sophia, Nhật Bản, với luận án
"Triết Lý Nhân Bản Nguyễn Du". Luận án sau này đã được dịch ra Anh ngữ,
và xuất hiện tại nhiều thư viện của Hoa Kỳ.
Ngoài các luận án kể trên, Lm. Trác còn là tác giả
nhiều công trình nghiên cứu văn học, y học và triết học, như "Việt Nam
trong quĩ đạo thế giới" (xuất bản 1985 tại Hoa Kỳ), "Công Giáo Việt
Nam trong truyền thống văn hóa dân tộc" (xuất bản 1996 tại Hoa Kỳ),
"Một trăm cây thuốc vạn linh", các sách giáo khoa Anh ngữ, Pháp ngữ...
Đặc biệt, hai lần là nạn nhân của chế độ cộng sản, lần
thứ nhất ở miền Bắc trước năm 1954, và lần thứ hai tại miền Nam sau năm 1975
cho mãi tới năm 1980, ngài đã chứng kiến nhiều trang sử đau khổ của đất nước dưới
chế độ cộng sản. Với tự truyện "Rồng Xanh Ngục Đỏ", Lm. Trác đã vạch
trần nhiều sự thật đắng cay của đất nước trong những năm đầu cộng sản mới chiếm
miền Nam.
(Theo VietCatholic News ngày 2 tháng 10, 2003)
No comments:
Post a Comment