1-2-2013
Từ bao nhiêu năm qua, người dân ở
Huế đã cố quên đi nỗi đau buồn khi mỗi dịp Xuân về, nhưng năm nay thì bà Lê
Phong Lan thay vì đem đến cho họ món quà Tết thì bà lại cố tình lấy dao cắt vào
thớ thịt của mỗi người bằng bộ phim “Mậu Thân 1968” để nhắc cho dân Cố
Đô biết rằng máu vẫn chưa khô trên thành phố Huế...
“Những dẫn chứng lịch sử cho thấy
thông tin bị làm méo mó. Vào thời điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và
các nhà báo độc lập đã tìm hiểu và xác định không tìm thấy hố chôn người tập
thể như phía Việt Nam Cộng hòa đưa ra. Câu chuyện của những nhân chứng có thẩm
quyền đã làm sáng rõ: cái gọi là "cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là đòn tâm lý
chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm nhiều thường dân
chết cùng với quân giải phóng và lính Mỹ.” - Đạo diễn Lê Phong Lan.
*
“Không ai ảo tưởng sử học đứng
ngoài chính trị nhưng lẽ ra phải biết nhìn thẳng, nhận thức quá khứ một cách
sâu sắc mới có thể đạt tới một tương lai tốt đẹp thì dường như chúng ta lựa
chọn một cái nguyên lý hời hợt hơn là “khép lại quá khứ” gần như đồng nghĩa với
quên lãng quá khứ chỉ vì một nhận thức nông cạn nhằm đáp ứng một nhu cầu tế nhị
đương đại. Một lịch sử thiếu công bằng như thế khó có thể tạo nên một niềm tin
vào lịch sử, nhất là của giới trẻ.”
Đó là lời của Nhả sử học, Đại biểu
Quốc hội Dương Trung Quốc đã viết trên báo Lao Động và được báo Dân Trí đăng
lại này 07/08/2011.
Nếu đem quan điểm của ông ứng dụng
vào lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam và Lịch sử cuộc chiến tranh được gọi là hào
hùng của dân tộc trong sự nghiệp “chống Mỹ cứu nước” hay “giải phóng miền Nam” thì
quả thực bộ máy tuyên truyền, xuyên tạc sự thật của đảng đã “vo tròn bóp méo”
lịch sử để nhồi nhét vào đầu thanh thiếu niên Việt Nam trong nhiều thế hệ những
giả dối để đạt mục tiêu giết đi sự thật.
Nhưng sự thật thì muôn đời vẫn là
sự thật và chỉ khi nào biết nhìn nhận sự thật thì mới làm tốt cho tương lai.
Đó cũng là ý tưởng của nhà sử học
Dương Trung Quốc khi ông bảo:
“Ai đã vào thăm Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh ở thành phố Hồ Chí Minh sẽ thấy
có một số rất đông khách tham quan lại là người Mỹ, trong đó không chỉ có những
cựu chiến binh mà cả giới trẻ thế hệ “sau Việt Nam”. Những người phát hiện và
mong muốn giữ gìn chứng tích nạn đói năm Ất Dậu (1945) ở Việt Nam, trong đó có
tội ác của chủ nghĩa phát xít Nhật lại chính là những bạn Nhật, trong đó có các
nhà sử học Nhật Bản. Lẽ đơn giản vì họ coi sai lầm của những thế hệ trước,
những người gây ra chiến tranh và tội ác là những bài học sâu sắc, sự hổ thẹn
cần được tiếp thu để dân tộc Nhật Bản không lặp lại những sai lầm của quá khứ
và vươn xa hơn trong sự tôn trọng của nhân loại.” (nguồn: Báo Lao Động-Dân
Trí đăng lại)
Rất tiếc đảng và nhà nước CSVN chỉ
muốn xóa đi những quá khứ xấu xa của mình để giữ lại những cái tốt đã được thổi
phồng khiến cho lịch sử cận đại không còn là môn học hấp dẫn cho thanh thiếu
niên Việt Nam.
Sử học bị khôi hài?
Bằng chứng này đã xảy ra trong các
kỳ thi môn sử cấp trung và đại học của Việt Nam trong những năm gần đây khiến
cả nước bấn loạn, riêng giới lãnh đạo ngành giáo dục thì không!
Rất nhiều thí sinh không những chỉ
bị điểm O mà vô số em khác đã “tự biên tự diễn sai lạc và khôi hài” như sau:
Theo một bài viết trên báo Giáo dục
Việt Nam được Báo Zing News đăng lại vào ngày 21-7-2012 thì thảm kịch biết về
lịch sử của các em bây giờ như thế này:
“Câu 2 (2,0 điểm): Từ năm 1919 đến
năm 2000, lịch sử Việt Nam đã trải qua những thời kỳ nào? Khái quát nội dung
chính của thời kỳ lịch sử diễn ra sự kiện quân và dân ta đập tan toàn bộ tập
đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp.
Đây là câu mà nhiều thí sinh mắc
nhiều lỗi nhất. Nhiều thí sinh không chia được thời gian theo từng thời kỳ như
trong sách giáo khoa và đáp án. Các giám khảo cho rằng, thí sinh ôn để thi đại
học nhưng không đọc và nắm kỹ nội dung cơ bản của bài “Tổng kết lịch sử Việt
nam từ 1919 đến năm 2000” trong SGK Lịch sử 12.
Ở vế thứ 2 của câu này, rất nhiều
thí sinh đã xác định sai kiến thức nội dung cơ bản của giai đoạn lịch sử từ
1945 đến 1954. Hầu hết, các thí sinh sa vào trình bày nội dung chi tiết của
chiến thắng Điện Biên phủ 1954 (ý này chỉ có 0,25 điểm) nhưng lại không nhớ
chính xác nên cứ “ngây thơ” mà viết: “Từ năm 1945 nhân dân ta vật lộn với Pháp
vì Pháp nổ súng chiếm nước ta làm thuộc địa”; “Năm 1945 chúng ta đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược”; “Đảng cộng sản Việt Nam ra đời năm 1975 đã cùng Hồ Chí Minh
lãnh đạo nhân dân chiến thắng Điện Biên Phủ”...
Giáo dục Việt Nam viết tiếp: “Câu
3 (3,0 điểm): “Cuối tháng 3.1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã có quyết định
gì để hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam? Quyết định đó được đề ra dựa
trên những cơ sở nào? Tóm tắt diễn biến của chiến dịch Hồ Chí Minh”.
Một trong những sự nhầm lẫn gây
“choáng” nhất của thí sinh đối với nhiều giám khảo là khi viết về Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Nói về sự kiện chiến dịch Hồ Chí Minh, nhiều thí sinh đã nhầm lẫn vô
cùng tai hại về thời gian, không gian và bản chất của sự kiện: “Hồ Chí Minh về
nước năm 1975 trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam”; “Năm 1975 nhân dân ta bầu
Nguyễn Ái Quốc lên là Chủ tịch nước”; “Hồ Chí Minh đã chọn cách đánh Mỹ và lấy
tên mình đặt tên cho chiến dịch Hồ Chí Minh”;
Hay là: “Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt
và nhận thấy thời cơ đánh Pháp nên Hồ Chí Minh ra lệnh mở chiến dịch mang tên
mình để kết thúc chiến tranh với Pháp năm 1975”; “Năm 1975 nhờ sự kêu gọi trực
tiếp của Hồ Chí Minh nên bà già, em bé, phụ nữ đã xông lên đánh Pháp giải phóng
miền Nam, hóa ra Việt Nam vi phạm công ước chiến tranh của Liên Hiệp quốc”...
Chuyện phim Mậu Thân
Như thế thì rõ ràng là học sinh
Việt Nam ngày nay không muốn học sử đảng hay vì các em biết nhà nước đã nói dối
nên đồng tình bịa những huyền thoại để nhạo báng, hay các em ngây thơ thật sự?
Khó ai biết được trong đầu các em
nghĩ gì mà có thể “sáng tác” ra những “tuyệt phẩm lịch sử đảng” và “vai trò
lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh, một người đã chết từ năm 1969”, bỗng dưng được
lôi sống lại cho cầm quyền đến tận năm 1975?
Nếu đem những mẩu chuyện “lịch sử”
này lồng vào câu chuyện Cuốn phim tài liệu dài 12 tập “Mậu Thân 1968”
của Nhà Đạo diễn (bà) Lê Phong Lan, chủ Hãng phim Bản sắc Việt, bắt đầu chiếu
trên đài Truyền hình Việt Nam từ ngày 25 tháng 01 năm 2013 thì không hiểu sự
thật của lịch sử có được tôn trọng như nhà sử học Dương Trung Quốc trông đợi
không?
Bởi lẽ khi viết sử đã khó mà dựng
phim dựa theo lịch sử lại càng khó hơn gấp bội phần, dù là phim tài liệu như
câu chuyện Tết Mậu Thân 1968 cách nay 45 năm.
Nếu người biên tập và nhà đạo diễn
chỉ làm phim “theo cảm tính” nhằm thỏa mãn cho nhu cầu một phía trong trận
chiến Tết Mậu Thân, nhất là khi phải nói đến những chuyện mà bà gọi là “nhạy
cảm” đã xảy ra ở mặt trận cố đô Huế trong 26 ngày thì những giả dối, thiên vị
chỉ đồng nghĩa với xuyên tạc và bôi nhọ lịch sử.
Theo loan báo của bà Lê Phong Lan
thì bộ phim đang gây chú ý trong vào ngoài nước gồm 12 tập đã mất 10 năm để
thực hiện bằng tiền túi của bà, nhưng sau khi làm xong thì Đài Truyền Hình Việt
Nam đã mua ngay để chiếu ngay trong dịp Tết Quý Tỵ (2013).
Bà chia bộ phim này ra như sau:
Tập 1: Cuộc đối đầu lịch sử
Tập 2: Bí mật kế hoạch X
Tập 3: Trước giờ G
Tập 4: Nghi binh Khe Sanh
Tập 5: Tết Mậu Thân 1968
Tập 6: Mục tiêu chiến lược
Tập 7: Huế - 26 ngày đêm
Tập 8: Khúc ca bi tráng
Tập 9: Quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh,
Tập 10: Không có gì quý hơn độc lập
tự do
Tập 11: Mậu Thân trong lòng nước Mỹ
Tập 12: Tượng đồng bia đá.
Tuy nhiên đây không phải là phim
tài liệu đầu tiên thuộc về chiến tranh do bà sản xuất mà tất cả các phim tài
liệu của bà đều được Truyền hình Việt Nam đặt hàng và chiếu trên màn ảnh gồm: “Huyền
thoại về tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn”, “Người thanh niên đến từ nước Mỹ”, “Đi
giữa kẻ thù“, “Con đường bí ẩn” nói về tướng tình báo cộng sản Đặng Trần
Đức (bí danh Ba Quốc).
Ngoài ra cuốn phim “Hiệp định
Paris 1973” của bà cũng đã lên Truyền hình Việt Nam vào dịp kỷ niệm 40 năm
ngày ký kết hiệp định (27-1-1973 - 27/01/2013).
Các nhận vật tình báo cộng sản từng
“ăn cơm quốc gia” của Việt nam Cộng hòa như Nhà báo (Thiếu tướng) Phạm Xuân Ẩn
(bí danh Hai Trung), Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ (bí danh Hai Nhạ), một thời từng
cố vấn trong Dinh Độc Lập và Đại tá Quân đội Việt Nam Cộng hòa (chuyên viên đảo
chính) Phạm Ngọc Thảo cũng đã được đạo diễn Lê Phong Lan đề cao trong các phim
do bà thực hiện theo đơn đặt hàng của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) từ sau năm
1975.
Ông Nguyễn Hà Nam - Trưởng Ban thư
ký biên tập của VTV cho biết: “Hướng ưu tiên tới đây của VTV là sẽ đầu tư
cho những bộ phim tài liệu truyền hình dài tập, với dạng phim này, chúng tôi
không đặt nặng doanh thu trong khi đầu tư là rất tốn kém. Nguồn kinh phí sẽ lấy
từ doanh thu quảng cáo trong các chương trình giải trí để đưa sang, vì vậy rất
mong khán giả thông cảm cho việc có những chương trình ăn khách thì sao phải
xem quảng cáo nhiều thế. Tôi xin phép được bí mật về con số đầu tư cho mỗi tập
phim “Mậu Thân 1968”, mặc dù rất cao, cao hơn một tập phim truyện nhưng cũng
chưa đủ bù đắp chi phí cho nhà sản xuất. Cá nhân tôi thấy, đây là bộ phim tài
liệu mà khi đã xem, tôi bị cuốn hút tới mức không thể dứt ra được” (Truyền
hình Việt Nam)
Tất nhiên là phải “cuốn hút” vì nó
đáp đúng nhu cầu của đảng và nhà nước trong mặt trận tuyên truyền để xóa đi mặc
cảm mà suốt 45 năm qua nhà nước Việt Nam vẫn bị ám ảnh.
Vì vậy nhà đạo diễn đã tiết lộ lý
do tại sao đã thực hiện phim “Mậu Thân 1968”: “Khi tôi làm phim về tướng
tình báo Phạm Xuân Ẩn, ông đã bảo tôi: “Cháu phải làm phim về Mậu Thân 1968 vì
đó là sự hy sinh vô cùng lớn lao để giành thắng lợi năm 1975, không hiểu tại
sao mọi người có nói đó là vấn đề nhạy cảm của lịch sử, nhưng thực ra không có
một chút gì nhạy cảm hết”.
Nhưng tại sao lại cho là “nhạy
cảm”, Lê Phong Lan nói: “Vì sao mọi người phía ta tránh nhắc đến Mậu Thân,
đó là vì sự tổn thất của quân đội nhân dân Việt Nam ở sự kiện này quá nhiều.
Tâm sự với tôi khi trả lời phỏng vấn, nhiều chỉ huy các sư đoàn dạn dày chiến
trận còn khóc nức lên vì thương lính. Đó là lý do duy nhất”.
Quả nhiên về phương diện quân sự
thì cả quân miền Bắc và du kích trong Nam đã thiệt hại rất nặng. Theo các ước
tính quân sự thì trong cuộc tấn công Mậu Thân, CSVN đã vận động từ 323,000 đến
595,000 quân chính quy và địa phương trong Nam để thực hiện kế họach chống lại
khoảng 1 triệu 200 quân VNCH và Hoa Kỳ với dự kiến chiếm đóng nhiều vùng lãnh
thổ của VNCH.
Tuy nhiên kế họach hồ hởi của Hà
Nội đã bị quân và dân VNCH được sự yểm trợ của quân đội Hoa Kỳ đánh bại. Khoảng
từ 85,000 đến 100,000 quân Cộng sản bị loai khỏi vòng chiến, so với thiệt hại
của đồng minh có trên 6,000 tử thương, ngót 30,000 bị thương và trên 1,000 quân
bị mất tích.
Thương vong thường dân, tính riêng
tại Huế cũng đã có từ 5,000 đến 6,000 người chết và mất tích, đa số bị quân
Cộng sản thảm sát bằng nhiều hình thức, kể cả chôn sống hay đập đầu cho chết vì
muốn tiết kiệm đạn để chiến đấu.
Nhưng phía Cộng sàn đã liên tiếp
phủ nhận trách nhiệm và đổ lỗi cho bom đạn của Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa
gây ra.
Vì vậy, theo tường thuật của báo
chí Việt Nam thì bà Lê Phong Lan cho rằng: “Thấy trên mạng có quá nhiều
thông tin sai lệch về sự kiện lịch sử này, tới nỗi các thế hệ sinh sau 1975
không còn biết đâu là thông tin sai, đâu là thông tin đúng vì vậy lại càng
quyết tâm để làm phim.”
Báo Công an TP HCM ngày 25-01-013
cho biết: “Để hoàn tất bộ phim có đề tài khó này, đạo diễn đã gặp, phỏng vấn
tại VN và Mỹ đến 200 nhân chứng cả ba phía Quân đội nhân dân VN, quân đội Mỹ và
những người trong bộ máy chính quyền Việt Nam Cộng hòa để tìm ra sự thật. Ra mắt
đúng vào dịp kỷ niệm 45 năm cuộc tổng tấn công Mậu Thân.”
Rồi bà Lê Phong Lan còn lý giải
thêm rằng: “12 tập phim, tôi chỉ muốn tập trung đi tìm câu trả lời cho câu
hỏi tại sao Mỹ - một cường quốc, lại can dự vào công việc của một nước nhỏ bé
bằng cách phân tích bối cảnh, tình hình, lật lại hồ sơ tư liệu, tìm hiểu ý
nghĩa thật sự của Mậu Thân 1968.” (Đài Truyền hình Việt Nam)
“Tôi đã gặp những nhà báo Mỹ,
những người lính bên kia chiến tuyến, họ đã nói, tất cả những thông tin về vụ
thảm sát năm 1968 tại Huế chỉ là sự vu cáo của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng
hòa đổ lên đầu Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Để khỏa lấp cho sự thất bại nặng
nề, phía Mỹ và Việt Nam cộng hòa đã phát động những tin đồn nhảm gây nhiễu loạn
như một cuộc chiến tranh tâm lý, và nó đã kéo dài trong một thời gian. Nhưng sự
thật là sự thật. Chiến dịch Mậu Thân trải qua thời gian càng khẳng định là bản
anh hùng ca vĩ đại của quân dân Việt Nam.”
Vẫn theo người đạo diễn này thì: “Nhiều
câu chuyện lịch sử ít người biết được lật lại. Một trong số đó là sự kiện 26
ngày đêm tại Huế từng bị cho là "cuộc thảm sát đẫm máu” được mô tả trong
cuốn sách Dải khăn sô cho Huế của nhà văn chế độ cũ - Nhã Ca.”
Báo Dân Việt (23-01-2013) trích lời
bà này viết rằng: “Chị nói, nhiều người đã dựa vào cuốn sách “Vành khăn xô
cho Huế” của tác giả Nhã Ca để dựng nên những chuyện vô cùng sai lệch về Mậu
Thân 1968, làm oan uổng cho rất nhiều người. (Chú thích: Tên đúng là “Giải khăn sô cho Huế” - Phạm
Trần)
Trong cuốn sách đó, nhà văn Hoàng
Phủ Ngọc Tường bị vu oan là dẫn đầu một cánh quân đi thảm sát các nhân viên
công quyền và người dân Huế, thực tế, trong thời điểm ấy, ông Tường vẫn ở trên
chiến khu. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cũng chịu một nỗi oan tương tự, ông
chỉ dẫn đầu một toán học sinh, sinh viên nhưng Nhã Ca cũng viết ông dẫn quân đi
thảm sát. Tất cả các nhân chứng mà đạo diễn Phong Lan gặp, trong đó có nguyên
Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã khẳng định không có một vụ thảm sát nào. Các nhà
báo quốc tế yêu cầu được tiếp cận với những hố chôn người tập thể như cáo buộc
của chính quyền Việt Nam cộng hòa nhưng họ cũng bị từ chối. Một nhân chứng đạo
diễn Phong Lan đã gặp và phỏng vấn là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cho biết, quân đội
Bắc Việt Nam vô cùng nghiêm túc, kỷ luật, không hề có chuyện thảm sát.”
Tuy nhiên cũng chính Hoàng Phủ Ngọc
Tường lại nói với Nhà văn Thụy Khuê trong cuộc phỏng vấn cho chương trình tiếng
Việt đài Phát thanh Quốc tế Pháp (Radio France International, RFI) ngày
12/07/1977 rằng:
“Trong cuốn Giải Khăn Sô Cho Huế,
của Nhã Ca in sau biến cố Mậu Thân, tác giả cũng nói rằng: Phủ (tức là tôi),
không về Huế, và nếu có về thì chắc cũng không giết người. Tôi thành thật cảm
ơn chị Nhã Ca đã dành cho tôi điều nhìn nhận khách quan rất quan trọng này, dù
trong cảnh tượng máu lửa hỗn quan hỗn quân của Huế Mậu Thân. Đã không có mặt ở
Huế thì làm sao tôi -Hoàng Phủ Ngọc Tường- lại có thể làm cái việc ghê gớm gọi
là "đồ tể" Mậu Thân ở Huế được?”
Như vậy thì bà đạo diễn Lê Phong
Lan có nói và làm phim đúng không?
Cũng trong cuộc phỏng vấn này, Nhà
văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, thành viên của Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân
Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế đi theo Cộng sản trong vụ Mậu Thân, còn đối đáp
như sau:
“Thụy Khuê: Nhìn từ phía những dữ
kiện lịch sử mà anh nắm bắt được, diễn biến Mậu Thân đã xảy ra trong một trình
tự như thế nào?
HPNT: Huế Mậu Thân đã xảy ra cách
đây gần 30 năm. Sách vở, tài liệu đã được công bố từ nhiều phía của cuộc chiến,
khá đầy đủ, có thể làm cơ sở cho những phân tích khoa học để giải phẫu một cuộc
chiến mà thật ra, không thể đơn giản tách riêng ra trong biến cố Mậu Thân. Điều
quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế,
đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những
tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động
giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm
không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm
chiến tranh cách mạng.
Nhưng tôi tin rằng đây là một sai
lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế,
chứ không phải một chính sách toàn cục của cách mạng. Bởi vì tình trạng giết
chóc bừa bãi như vậy, đã không xảy ra ở những địa phương khác trong Mậu Thân,
ngay cả trên một địa bàn rộng lớn với tình trạng xen kẽ giữa những lực lượng
đối địch rất phức tạp như ở Sài Gòn thời ấy.
Thụy Khuê: Vậy, theo anh, ai
trách nhiệm những thảm sát ở Huế?
HPNT: “Tôi không đủ thẩm quyền để
phán xét bất cứ cá nhân nào. Xin trích dẫn theo trí nhớ một ý tưởng trong hồi
ký của chính ông Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân: Dù bởi lý do nào đi
nữa, thì trách nhiệm vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước
hết là trách nhiệm của tôi. Qua bài hồi ký tâm huyết này, đã được công bố trên
tạp chí Sông Hương, Huế, và sau đó, nếu tôi không nhớ lầm, đã được dịch và in
toàn bộ trên báo Mỹ Newsweek, tác giả, Lê Minh (lúc đó đã nghỉ hưu), còn nhắc
nhở rằng, điều quan trọng có thể làm, và phải làm bây giờ, là những người lãnh
đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn
nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng
cho thân nhân của họ.”
Những tiếng nói khác
Ông Đinh Lâm Thanh, trong Bài thuyết trình trong dịp tưởng Niệm 40 năm biến cố Mậu
Thân tổ chức tại Paris ngày 02.03.2008, nói:
“Tại Huế, CS lùng bắt thành phần
quân-cán-chính, tập trung dân để tổ chức đấu tố, bắn giết, chôn sống tại chỗ
một số và dẫn những người còn lại theo làm tù dân - tôi nói tù dân, vì tù là
những người dân vô tội - trước rút lui tháo chạy trước sức tấn công mãnh liệt
của QLVNCH và Đồng Minh.
Nếu tính nạn nhân tại Huế, ngoài số
quân nhân, cảnh sát, nhân viên cán bộ hành chánh về nghỉ Tết cũng như những
người sống tại địa phương làm việc cho chính quyền Sài Gòn bị Cộng sản bắn ngay
tại chỗ là 1.892 người. Ngoài ra người ta còn tìm được 2326 tử thi thường dân
trong 22 hố chôn tập thể tại những địa điểm như Trường Gia Hội, Chùa Theravada,
Bãi Dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng viện, Quận tả ngạn, Phía đông Huế, Lăng Tự Đức,
Lăng Đồng Khánh, Cầu An Ninh, Cửa Đông Ba, Trường An, Ninh Hạ, Trường Vân Chí,
Chợ Thông, Chùa Từ Quang, Chùa Từ Đàm, Lăng Gia Long, Đồng Di, Vịnh Thái, Phú
Lương, Phú Xuân, Thượng Hòa, Thủy Thanh, Vĩnh Hưng và Khe Đá Mài.
Mỗi hố chôn tập thể từ 5, 7 người
đến trên 400 nạn nhân như ở Khe Đá Mài. Những nạn nhân nầy bị thảm sát một cách
dã man như: Cột chùm nạn nhân lại với nhau và đốt cháy bằng xăng, bắt ngồi trên
mìn rồi cho nổ tan xác, chặt đầu, bắn vào ót, đập chết bằng bá súng, đóng cọc
từ dưới bàn tọa lên đến cổ, trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn
sống. Nạn nhân là thường dân vô tội tuổi từ 15 trở lên, gồm có sinh viên học
sinh, 6 linh mục là các cha Bửu Đồng, Hoàng Ngọc Bang, Lê Văn Hộ, cha Guy và
cha Urbain (dòng Thiên An), và cha Cressonnier (Hội Thừa sai Paris), 5 thầy
dòng gồm 3 sư huynh dòng Thánh Tâm là thầy Hec-Man, thầy Mai Thịnh và thầy Bá
Long, 2 sư huynh dòng Lasan là thầy Agribert và thầy Sylvestre. Hai thầy dòng
Lasan bị bắt và bị chôn sống chung một hố với linh mục Bửu Đồng tại Sư Lỗ, quận
Phú Thứ. Ngoài ra Cộng sản còn giết các giáo sư đại học người nước ngoài trong
lúc họ đang dạy ở đại học Y khoa Huế và thân nhân họ hàng của những người phục
vụ dưới chế độ VNCH. Người ta ước lượng tại thành phố Huế có gần 5.000 người bị
Cộng sản giết trong vòng mấy tuần lễ.
Những người lớn tuổi còn sống tại
Huế là những nhân chứng sống. Trong đó có hai thanh niên nguyên là học sinh
trung học, nay đã 56 tuổi, trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngoại quốc. Người
thứ nhất tên Tuấn cùng với những học sinh khác đã bị CSBV bắt đào lỗ chôn sống
5 người tại Gia Hội ngay trong ngày đầu tiên khi CS vừa chiếm Huế. Học sinh thứ
hai, xin giấu tên, ở Phủ Cam bị bắt đi theo đoàn tù dân đưa chôn sống ở Khe Đá
Mài. Cả hai học sinh nầy nhờ một phép nhiệm mầu nào đó họ đã thoát được và sống
sót đến ngày hôm nay.” (Khối 8406Tự do Dân chủ cho Việt
Nam, 01-2009)
Hai Linh mục Phan Văn Lợi và Nguyễn Hữu Giải hiện còn
sống ở Việt Nam kể lại như sau:
“…tại núi Ba Tầng (núi Bân), phía
Nam thành phố Huế. Ngôi mộ này lưu giữ hơn 400 bộ hài cốt chủ yếu bốc từ Khe Đá
Mài nhưng đã bị chính quyền cộng sản phá đổ trụ bia và để cho hoang phế suốt 32
năm trời...
“Trong toàn bộ biến cố Tết Mậu
Thân, có lẽ những gì xảy ra tại Huế là đau thương và đánh động hơn cả, có lẽ
cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài là rùng rợn, dã man và thê thảm nhất. Tiếc thay,
theo sự am hiểu của chúng tôi, hình như người ta chỉ biết đến kết cục của nó là
hàng trăm bộ hài cốt dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt thối rữa bị nước
cuốn đi lâu ngày, từ đó suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ diễn tiến của toàn
bộ sự việc kể từ lúc nạn nhân bắt đầu bị dẫn đi đến chỗ hành quyết”. (Đối Thoại online, 17-01-2008)
Hai linh mục Lợi và Giải cho biết
họ họ gặp một nhân chứng sống lúc bấy giờ ông ta mới 17 tuổi cũng bị bắt theo
đoàn người bị đưa đi giết ở Khe Đá Mài nhưng may mắn lợi dụng lúc đêm tối nên ông đã
trốn thoát và hiện còn sống ở trong nước đã kể lại:
“Hồi ấy, tôi mới 17 tuổi, đang là
học sinh trung học đệ nhị cấp. Vì tình hình bất an, gia đình tôi đã từ quê chạy
về thành phố, cư ngụ tại giáo xứ Phủ Cam, thôn Phước Quả, xã Thủy Phước, tỉnh
Thừa Thiên (nay gọi là phường Phước Vĩnh, thành phố Huế) từ mấy năm trước...
Khuya mùng Một rạng mùng Hai Tết, tôi nghe tiếng súng nổ khắp nơi và được tin
Việt Cộng đã chiếm nhiều nơi trong thành phố Huế... Cả gia đình tôi cũng như
nhiều giáo dân ở Phủ Cam đều chạy đến ẩn núp trong nhà thờ để tránh bom đạn.
Lính Nghĩa quân của xã và một số quân nhân về phép chiến đấu bên ngoài để bảo
vệ đồng bào. Sau mấy ngày, không có tiếp viện nên chiều mùng 5 Tết (3 tháng 2 /
1968) phải rút chạy... Khuya mùng 5 Tết, Việt Cộng tràn vào nhà thờ bắt những
người từ 15 tuổi đến ngoài 50 tuổi bất kể là học sinh hay thường dân... và
tuyên bố ‘cho đi học tập trong vòng 3 ngày sẽ trở về’ trong đó có tôi... Sáng
hôm sau, chúng tôi bị dẫn đi theo đường xe lửa từ Phủ Cam ra Bến Ngự và đến
chùa Từ Đàm... Tại đây tôi thấy Việt Cộng rất đông vừa du kích địa phương vừa
bộ đội miền Bắc... Ngôi nhà 5 gian thì 4 gian đã đầy người bị bắt từ mấy ngày
trước, còn một gian để giam giữ những người mới bị bắt... Tôi gặp những người
quen như ông Tín (thợ chụp ảnh), ông Hồ (thợ hớt tóc), anh Trị (con ông Ngọc
người đánh đàn trong nhà thờ), ông Hoàng (Đông y sĩ ở Chợ Xép), hai người con
trai ông Thắng (làm nghề nấu rượu nuôi heo), hai người con trai ông Vang (nhạc
sĩ thổi kèn đồng), anh Thịnh (con ông Năm), hai anh em Bình và Minh (con ông
Thục), anh Minh (16 tuổi, con ông Danh nhân viên Công Ty Thủy Điện Huế) đều là
học sinh... Chúng tôi ngồi tại chùa Từ Đàm suốt cả một ngày từ sáng tới tối
không được ăn uống gì cả... Họ đưa cho chúng tôi mỗi người một tờ giấy để viết
bản ‘khai lý lịch’ tên, nghề nghiệp, tên cha mẹ, sinh quán ở đâu... Ai khai
gian sẽ bị đem ra bắn... Tôi thấy một số người bị trói vào gốc cây bồ đề và bị
đem ra bắn chôn ngay trong sân chùa, trong đó có anh Hoàng Sự (Cảnh Sát) mà tôi
biết tên. Họ cho một vài người về nhắn với gia đình tiếp thế lương thực và quần
áo, thuốc men cho những người đang bị giam giữ... Khi trời xẩm tối, họ bắt
chúng tôi ra ngồi xếp hàng giữa sân chùa. Một anh cán bộ tuyên bố:
- Anh em yên tâm, Cách Mạng sẽ đưa
anh em đi học tập trong 3 ngày rồi sẽ cho về với gia đình! Bây giờ chúng ta lên
đường!.
Rồi họ dùng dây điện thoại trói tay
chúng tôi ra phía sau lưng từng người một, rồi dùng dây kẽm gai nối 20 người
làm một toán. Tôi đếm được trên 25 toán như thế (tất cả 500 người). Một người
địa phương đi nhìn mặt anh em chúng tôi và nói với nhau:
- Không thấy Trọng Hê và Phú Rỗ
trong số giáo dân Phủ Cam ở đây.
(Anh Trọng con ông Hê và anh Phú là
hai thanh niên ở Phủ Cam có võ nghệ mà giới du đãng ở Huế biết tiếng. Hai anh
đã chạy theo lính Nghĩa Quân xã rút lui khi Việt Cộng vào nhà thờ! Những người
bị bắt đến đây đều là dân lành vô tội).
Họ dẫn chúng tôi đi vào đường bên
trái Đàn Nam Giao, vòng qua Dòng Thiên An, đến lăng Khải Định, vòng phía sau
trụ sở Quận Nam Hòa, ra đến bờ sông Tả Trạch (Thượng nguồn sông Hương)... Đến
bờ sông, Việt Cộng cho chặt cây lồ ô (nứa) làm bè để tất cả đoàn người vượt qua
sông (khu vực lăng Gia Long), thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc (vùng núi
tranh). Từ đó, chúng tôi bắt đầu đi sâu vào rừng, ban đêm, trời lạnh lắm, khi
lên đồi, lúc xuống lũng, lúc lội qua khe... Khoảng 30 bộ đội miền Bắc dẫn chúng
tôi đi, họ dùng đèn pin hay đuốc để soi đường, chúng tôi đi trong rừng tre nứa
và cây cổ thụ dày đặc... Khoảng nửa đêm, chúng tôi được dừng lại để nghỉ và mỗi
người nhận được một vắt cơm. Chúng tôi đoán đã đi được trên 10 cây số rồi!
Chúng tôi ngồi gục đầu dưới cơn mưa, cố gắng ngủ một chút để lấy sức còn phải
đi tiếp... Bỗng như có linh tính báo trước, người tôi run lên bần bật... Tôi
nghe hai tên bộ đội nói nhỏ với nhau:
- Trong vòng 15-20 phút nữa sẽ thủ
tiêu hết bọn nầy!
Tôi liền ghé miệng vào tai thằng
bạn bị trói ngay trước mặt:
- Tụi mình ráng mở dây trốn đi!
Mười lăm phút nữa là bị bắn chết hết đó!
Trời mưa, dây điện trơn trợt, lát
sau, chúng tôi mở được giây nhưng vẫn ngồi yên sợ chúng biết. Tôi nói nhỏ:
- Hễ tao vỗ nhẹ sau lưng là tụi
mình chạy nghe!
Bọn Việt Cộng đánh thức chúng tôi
dậy, một tên nói lớn cho mọi người nghe:
- Chúng ta sắp đến trại học tập
rồi. Ai có vàng, tiền, đồng hồ, bật lửa... thì đem nộp, không được giữ trong
người... Học tập xong sẽ được trả lại...”
Thế là bọn chúng lột sạch và cho
tất cả vào mấy cái ba lô vải. Tên bộ đội đứng gần chúng tôi còn mang trên vai
cả chục cái radio mà chúng đã cướp được của dân ở thành phố... Một tay mang
súng, một tay mang các thứ vừa cướp được, hắn đi chậm lại cách xa mấy tên kia
một quãng... Chúng tôi bắt đầu xuống dốc, nghe tiếng nước chảy róc rách... Tôi
vỗ nhẹ vai thằng bạn và cả hai chúng tôi vung tay và nhanh nhẹn phóng ra khỏi
hàng. Tôi đá mạnh và tên bộ đội mang nhiều radio... Hắn ngã nhào! Hai chúng tôi
lao vào rừng...
Trời tối, rừng già chúng không giám
đuổi theo... Khi nghe tiếng đoàn người đi khá xa, chúng tôi mới bò ra khỏi chỗ
ẩn núp và đi ngược trở lại... Chừng 15-20 phút sau, chúng tôi bỗng nghe từ phía
dưới vọng lên tiếng súng AK, rồi lựu đạn nổ vang rền... Một góc rừng rực sáng!
Chen vào đó tiếng khóc la khủng khiếp... không hiểu sao lúc đó, tai tôi nghe
rất rõ ràng... Lúc đó khoảng 12-12 giờ 30 khuya... đầu ngày 8 Tết(6/2/1968). Về
sau tôi mới biết chỗ đó là Khe Đá Mài...” (Bài thuyết trình của cựu Dân biểu VNCH Nguyễn Lý Tưởng tại cuộc
hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Việt Nam Center (Lubbock, Texas)
từ ngày 13 đến 15/3/2008)
Đối diện sự thật
Ông Võ Văn Bằng, Trưởng Ban Cải
táng Nạn nhân Cộng sản Tết Mậu Thân nói với đài Á Châu Tự Do (RFA) năm 2008:
“Các hố cách khoảng nhau. Một hố
vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là
ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn
thấy những dây lạc trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau.
Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng.
Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng...”
Vẫn
theo RFA thì Nhà báo Vũ Ánh, nguyên phóng viên mặt trận hệ thống Truyền
thanh quốc gia VNCH, đã có mặt tại Huế từ ngày 5 đến 29 Mậu Thân và đi theo
nhiều nhóm tìm hầm chôn tập thể kể lại cảm giác của ông:
“Vùng
nhiều nhất là quận Phú Thứ và Dạ Lê Thượng có nhiều hầm chôn xác tập thể. Cảm
giác của tôi lúc ấy rất lạ, như là bị tê liệt khi nhìn các hình ảnh đó…
“Ngay
ở hầm Phú Thứ, chắc khoảng gần 1.000 người. Khui lên, đầu của họ phía sau sọ bị
bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây điện thoại. Có những người không có
vết thương, chứng tỏ bị chôn sống”. (RFA online ngày 1-2-2008)
Trong
bài nói chuyện tại buổi 40 năm Tưởng niệm Tết Mậu Thân, Việt Báo Gallery, thứ
Bảy 29-3-2008, Nhà văn Nhã Ca tác giả “Giải Khăn Sô Cho Huế” nói:
“Bốn
mươi năm trước đây, đúng vào giờ trưa mùng Hai Tết, tại Cửa Đông Ba Huế, chỉ
mấy tiếng đồng hồ sau khi đột nhập, cộng sản khai diễn cuộc tàn sát. Toán nạn
nhân đầu tiên gồm 5 thường dân-không hề có người lính Cộng Hòa nào. Tất cả bị
trói, bắt đứng quay lưng vào tường thành. Dân chúng đứng coi. Súng AK nổ. Từng
người gục chết. Sau cuộc hành hình, thân nhân những người bị bắn nhào ra muốn
ôm xác. Họ bị đánh, bị đá, bị đuổi. Xác người bị phơi ngày phơi đêm. Nắng. Máu.
Ròi bọ...
“Và
cuộc tàn sát tiếp tục. Không bằng súng đạn mà bằng cách chôn sống. Những nạn
nhân bị cột trói bằng dây điện dính chùm xếp hàng bên hố. Một vài người bị đập
đầu. Cả dây người đang sống bị đạp xuống hố đè lên nhau. Cái đầu nào ngóc lên
bị đập bằng cuốc. Cứ thế mà chôn hàng ngàn người. Bạn tôi, chị Tâm Túy cũng đã
bị chôn sống. Khi xác đào lên, thấy hai tay chị vói lên như đang cố cào bới
đất. Móng tay, móng chân mọc dài hơn. Tóc mọc dài hơn... Bạn tôi bị chôn sống
khi còn đầy sức sống..”
“Huế
Tết Mậu Thân. Hàng ngàn người đã bị chôn sống như thế”. (Việt Báo ngày
31-3-2008)
Cư
sĩ Trí Lực,
người đã chôn cất những xác chết nằm lại sau biến cố Mậu Thân kể lại với RFA về
nỗi kinh hoàng của ông:
“Hai
mươi sáu ngày sau, sau khi Cố đô Huế bình định trở lại thì tôi tận mắt chứng
kiến những hầm chôn tập thể được khai quật lên từ vùng Bãi Dâu Gia Hội, những
người xấu số đã bị trói quật lại sau lưng và có những mảnh xương sọ bị vỡ nát.
Cảnh kinh hoàng là cộng sản đã chon sống bao nhiêu người dân vô tội.
“Nhà
văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống ở Pháp, cũng là chứng nhân của biến cố Mậu
Thân kể:
“Gia
đình của tôi vùng Phủ Cam là một, vùng An Vân Thượng là hai, Gia Hội là ba. Bà
con xa bà con gần của bên họ ngoại của tôi gồm cả thảy 12 người. Trong 12 người
đó, có người bị chôn sống, có người bị bắn tại chỗ, có người bị chặt đầu, có
người bị mổ bụng”.
(RFA online ngày 7-2-2012)
Ông
Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên Huế kể lại trong Cuộc
hội thảo về chiến tranh Việt Nam tổ chức tại Việt Nam Center (Lubbock, Texas)
từ ngày 13 đến 15/3/2008:
“Mồ
chôn tập thể: Các nạn nhân bị thảm sát tại Huế và Thừa Thiên được tìm thấy tại
trường tiểu học Gia Hội, chùa Therevada, Bãi dâu, Cồn Hến, Tiểu Chủng Viện, khu
vực phía Tây Huế gần lăng Tự Đức và lăng Đồng Khánh, cầu An Ninh Thượng, cửa
Đông Ba, trường An Ninh Hạ, trường Văn Chí, Chợ Thông, Lang Xá Cồn, gần lăng
Gia Long, gần chùa Tường Vân, Đông Gi (Di), Vinh Thái, Thủy Thanh, Lương Viện,
Phù Lương, Phú Xuân (Phú Thứ), Thượng Hòa, Vinh Hưng, Khe Đá Mài... tất cả 23
địa điểm tại tổng cộng 2326 xác chết (sọ người). Còn khoảng trên 3,000 nạn nhân
thuộc tỉnh Thừa Thiên và Huế đã được thân nhân xác nhận là chết hoặc bị bắt đi
thủ tiêu, mất tích... không biết họ đã bị giết chết và chôn xác ở đâu?!
Dã
man nhất là tại Khe Đá Mài (thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc, quận Nam Hòa,
tỉnh Thừa Thiên) Việt Cộng đã dùng súng trung liên, đại liên, lựu đạn và mìn
giết tập thể các nạn nhân, vất xác xuống dưới khe, lâu ngày thịt thối rữa bị
nước cuốn đi, chỉ còn 428 sọ người, xương người dồn lại một đống. Người ta đã
dựa vào các dấu vết còn lại của nạn nhân như áo len, tượng ảnh, giấy căn cước
bọc nhựa(ID)... để biết được thân nhân của mình đã chết ở trong đống sọ và
xương lẫn lộn đó. Đa số những nạn nhân nầy là giáo dân bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam
vào đêm mùng 5 Tết (3 tháng 2/1968) Người ta cũng tìm thấy vết tích của hai ông
Lê Hữu Bôi (chủ tịch sinh viên Phật tử năm 1963) và Lê Hữu Bá (sĩ quan Quân
Cảnh) tại Khe Đá Mài. Các em học sinh như Bùi Kha (16 tuổi), Phan Minh (16
tuổi), Nguyễn Duyệt(17 tuổi) và nhiều bạn trẻ khác thuộc giáo xứ Phủ Cam cũng
bị VC giết hại tại đây...”
Lê Phong Lan có nói thật?
Trái
với những lời kể này, Bà Lê Phong Lan cho biết bà đã phỏng vấn ông Lê Khả Phiêu
- người chỉ huy một trung đội trong sự kiện Mậu Thân 1968 tại Huế; lãnh đạo
Thanh niên phật tử tranh đấu ở Huế theo Cộng sản nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc
Xuân; nhà báo Mỹ Stanley Karnow, cựu
phóng viên tờ Washington Post Don Lux; GS sử học Larry Berman, và cả những người lính từ hai phía.
Bà
nói: “Những dẫn chứng lịch sử cho thấy thông tin bị làm méo mó. Vào thời
điểm đó, một số hãng thông tấn nước ngoài và các nhà báo độc lập đã tìm hiểu và
xác định không tìm thấy hố chôn người tập thể như phía Việt Nam Cộng hòa đưa
ra. Câu chuyện của những nhân chứng có thẩm quyền đã làm sáng rõ: cái gọi là
"cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế
Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm nhiều thường dân chết cùng với quân giải phóng và
lính Mỹ.”
Nhưng,
“ông Trương Như Tảng (cựu Bộ trưởng Tư pháp Cộng hòa miền Nam Việt
Nam, về sau ly khai chính phủ và vượt biên sang sống lưu vong ở Pháp), thì
trong cuộc chiếm đóng Huế, một số lớn người đã bị xử tử vì thuộc thành phần
phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa (viên chức, cảnh sát, sĩ quan, chính
trị gia, địa phương quân...) nhưng cũng có người bị giết mặc dù không tham gia
chiến trận. Ông dẫn lời một người bạn rằng do kỷ luật kém ở một số đơn vị, một
số thường dân cũng nhân dịp hỗn loạn để trả thù nhau nên đã có những vụ giết
hại vô cớ. Một bản báo cáo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bắt được ngày 25
tháng 4 năm 1968 ghi nhận, họ đã "diệt 1.892 nhân viên hành chánh, 38 cảnh
sát, 790 tên ác ôn, sáu đại úy, 1 trung úy, 20 thiếu úy và nhiều sĩ quan trừ
bị…" trong cuộc chiếm đóng Huế.” (Tài liệu trích theo Hồi ký của ông
Trương Như Tảng trên Internet)
Ngoài
ra, báo cáo chính thức sau Mậu Thân ở Huế còn cho biết: “Một vụ thảm sát gây
phẫn nộ dư luận quốc tế là vụ giết 4 bác sĩ người Đức sang giảng dạy và làm việc
tại trường Đại Học Y Khoa Huế. Trong bài viết “The Vietcong Massacre at
Hue,” xuất bản năm 1976, một bác sĩ có tên Elje Vannema, kể rằng ông
bà bác sĩ Horst Gunther Krainick và hai bác sĩ Raymund Discher cùng Alterkoster
đã bị giết trong tháng Hai năm 1968 tại chùa Tường Vân hoặc một vùng đất nhiều
cây cối cách chùa chừng nửa dặm, nơi người ta tìm thấy thi hài của các nạn
nhân. Bác sĩ người Pháp, có tên Le Hir khám nghiệm tử thi các nạn nhân cho biết
có dấu vết đạn xuyên qua đầu và ót.”
Như
vậy thì người ta nên tin ai?
Chẳng
nhẽ những người sống sót và nhân chứng đã bịa đặt ra chuyện thảm sát để vu oan
cho quân Cộng sản hay bà Lê Phong Lan đã cố tình làm phim để chạy tội cho quân
Cộng sản?
Dù
cho thế nào thì cũng sẽ có ngày vụ giết thường dân vô tội ở Huế trong vụ Mậu
Thân 1968 sẽ được bạch hóa vì lịch sử và những nạn nhân, hay con cháu của những
người bị lính Cộng sản tàn sát ở Huế vẫn còn đó. Ngay cả những oan hồn do họng
súng, dao găm, búa rìu hay dây nhợ cột vào thân nối nhau bị đẩy xuống hố vẫn còn
vất vưởng ở khắp thành phố Huế và vùng phụ cận.
Từ
bao nhiêu năm qua, người dân ở Huế đã cố quên đi nỗi đau buồn khi mỗi dịp Xuân
về, nhưng năm nay thì bà Lê Phong Lan thay vì đem đến cho họ món quà Tết thì bà
lại cố tình lấy dao cắt vào thớ thịt của mỗi người bằng bộ phim “Mậu Thân
1968” để nhắc cho dân Cố Đô biết rằng máu vẫn chưa khô trên thành phố
Huế.