Nguyễn
Thanh Giang
Posted by btvn03hatbaodanquyen on 26/04/2014
Cách đây 6 năm, không chỉ trong nước mà cả các cộng
đồng người Việt ở nước ngoài, không chỉ trí thức và các lão thành cách mạng mà
cả đại tướng Võ Nguyên Giáp đồng thanh phản đối rất quyết liệt chủ chương cho
Trung Quốc vào khai thác bôxit ở Tây Nguyên. Tranh thủ lúc thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đến thăm nhân kỷ niệm 55 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, đại tướng đã khẩn
khoản: “Rất mong các đồng chí lưu tâm đến chuyện khai thác bôxit Tây
Nguyên. Đây là địa điểm chiến lược quan trọng của đất nước, có ý nghĩa quan
trọng về quốc phòng an ninh không chỉ với Việt Nam mà cả với Đông Dương”.
Nhưng rồi, người ta không chỉ bỏ ngoài tai mà còn
quy kết tất cả đều là thù địch. Báo Nhân Dân ra ngày 26-4-2009 viết: “Cần
cảnh giác và có thái độ rõ ràng, kiên quyết với những mưu toan chinh trị hóa
vấn đề của các thế lực thù địch… hòng thực hiện những mưu đồ xấu xa của họ”.
Nay thì, không biết người ta đã ân hận chưa, “nhân
bảo như thần bảo”, chưa biết lúc nào cái căn cứ địa Tây Nguyên kia sẽ được đối
phương sử dụng làm trận địa quân sự, trước mắt, nó đang phát huy sức công phá
nền kinh tế của ta thật tai hại. Sáu năm vừa qua, dự án bôxit Nhân Cơ lỗ liên
tiếp với tổng số lỗ lên đến 2.900 tỷ đồng. Năm 2015, dự tính sẽ lỗ thêm khoảng
671 tỷ đồng. Năm 2016, hy vọng có tiến bộ, nhưng cũng còn sẽ lỗ 563 tỷ đồng
nữa!
Bên cạnh cái họa bôxit Tây Nguyên lại đang thấy xuất
hiện hàng loạt hiểm họa không kém phần khủng khiếp khác:
“Căn
cứ địa” Vũng Áng – Hà Tĩnh
Khu kinh tế (KKT) Vũng Áng với diện tích 227,81 km2,
tọa lạc trên địa phận huyện Kỳ Anh – Hà Tĩnh đã bị cho Trung Quốc thuê quá dài:
đến 70 năm. Tại đây Trung Quốc đã xây một bức tường cao dọc đường Quốc lộ 1 dài
hơn 20 km chiếm hoàn toàn vùng đất ven biển từ Kỳ Anh đến Cẩm Xuyên, chắn không
cho ai biết họ đang xây thành đắp lũy gì trong đó. Họ lập thành căn cứ riêng,
không chỉ đồng bào mình mà cả các cán bộ xã, huyện, tỉnh cũng không được
vào.
Một cán bộ địa phương phàn nàn: “Dân Kỳ Anh
mất đất, không việc làm. Trai thì cờ bạc, đề đóm, chích choác ma túy. Gái thanh
niên, trung niên cặp nón, ô… môi son, má phấn, mắt xanh mỏ đỏ vẫy, gọi khách đi
xe bắc Nam, công khai làm điếm vì không có việc làm. Đất ở, đất ruộng, cả mồ mả
cha ông… nay bị bán cho Tàu rồi. Trai Tàu lấy vợ Kỳ Anh, là mơ ước của gái Kỳ
Anh ngày nay, vì đi làm điếm còn khổ hơn. Người Trung Quốc ở Kỳ Anh không cần
theo luật CHXHCNVN là đi xe máy họ không cần đội mũ, mà công an còn cười chào
thân thiện. Người Kỳ Anh mà đi xe máy không đội mũ thì chỉ có đi theo ông Trịnh
Xuân Tùng – Hà Nội”.
Không chỉ có chuyện đau lòng về sự tha hóa biến chất
của mảnh đất này, mà vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều.
Trong KKT Vũng Áng có Dự án nhà máy gang thép
Formosa chiếm một diện tích lớn hơn 3.300ha (diện tích đất liền là hơn 2.000 ha
và diện tích mặt nước khoảng 1.300 ha). Dự án này Trung Quốc đã sang nhượng
được từ một tập đoàn của Đài Loan, có tổng mức đầu tư khoảng 20 – 30 tỷ USD.
Khai thác mỏ sắt Thạch Khê là một dự án rất khó
nhằn. Mỏ sắt này do Địa Vật lý Máy bay phát hiên từ giữa thế kỷ trước. Vì thân
quặng ở đây nằm rất sâu (điểm gần mặt đất nhất cũng đến 60 mét), nhiều nước
XHCN trước đây và nước tư bản có kỹ thuật hiện đại từng đến nhưng rồi đã “chào
thua”. Vậy mà Trung Quốc nhăm nhe nhào vô cho kỳ được.
Có nguồn thạo tin cho biết, từ nhiều năm trước, bạn
Lào đã khẩn khoản xin ta cho đầu tư 100% tại Vũng Áng, từ nguồn tiền của một
quốc gia thứ ba, nhưng bạn không cho biết là nước nào. Suy đi xét lại trên
nhiều phương diện, cuối cùng ta không chấp nhận. Đến nay, không biết nhờ mưu
chước gì, với thế lực nào Trung Quốc đã đánh bật được các tập đoàn Tata (của Ấn
Độ) và Formosa (của Đài Loan) để chiếm lĩnh cái nơi mà 500 năm trước Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã phán bảo: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”.
Vũng Áng nằm ở chân Hoành Sơn. Hoành Sơn chính là
dãy núi nằm vắt ngang ranh giới Hà Tĩnh – Quảng Bình, nơi vừa gần như hẹp nhất
của đất nước (50km từ biển vào biên giới với Lào), vừa hiểm trở. Khi có biến,
cái chốt quân sự này dễ dàng căt đôi đất nước, chặn đường tiếp ứng giữa hai
miền. Đồng thời quân đội nước ngoài từ phía Lào ép sang, từ biền đổ bộ lên qua
một cảng nước sâu đủ cặp bờ cho nhiều loại tầu lớn nhỏ.
Không phải nhà quân sự cũng có thể hình dung được
một tam giác quân sự trên biển rất đáng ngại gồm ba điểm: Vũng Áng – Cửa Việt –
Du Lâm. Trong đó, cạnh Vũng Áng – Cửa Việt dài 190 km, cạnh Du Lâm – Vũng Áng
cũng chỉ khoảng 320 – 350 km.
Căn cứ hải quân Du Lâm của Trung Quốc, được Bách
khoa toàn thư Wikipedia giới thiệu: là căn cứ tàu ngầm, nằm ở thành phố Tam Á,
ở cực nam đảo Hải Nam, “là một mối lo an ninh cho các nước ASEAN cũng như Ấn
Độ”.
Dựa trên tam giác quân sự Du Lâm – Vũng Áng – Cửa
Việt, Trung Quốc một mặt khống chế được toàn bộ Vịnh Bắc Bộ trên biển, một mặt
tiếp ứng cho chốt chặn Hoành Sơn trên bộ.
“Căn
cứ địa” Nghĩa Hưng – Nam Định
Trung Quốc đang đổ bộ ồ ạt vào Nam Định.
Vừa nghe tin tập đoàn Yulun Gang Tô sẽ xây dựng nhà
máy sản xuất sợi, dệt, nhuộm tại khu công nghiệp Bảo Minh chiếm 80.000 m2 đất
của huyện Vụ Bản – Nam Định, thì ngày 21.3.2014, báo
Đất Việt lại đăng tin: “Theo đề án của các nhà đầu tư Trung Quốc,
sắp có khu công nghiệp dệt may quy mô lớn nhất Việt Nam được xây dựng tại huyện
Nghĩa Hưng – Nam Định. Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định vừa cho biết, sau quá
trình khảo sát thực tế, liên danh gồm 3 nhà đầu tư: Foshan Sanshui Jialida
(Trung Quốc), Luenthai (Hồng Kông) và Công ty CP Đầu tư Vinatex (Tập đoàn Dệt may
Việt Nam) đã quyết định thực hiện Đề án thành lập KCN Dệt may Rạng Đông tại
tỉnh Nam Định”.
KCN dệt may Rạng Đông này có quy mô khoảng 1.500 ha
(chiếm 1/6 tổng diện tích huyện Nghĩa Hưng), thu hút khoảng trên 200 nghìn lao
động (tương đương với dân số toàn huyện Nghĩa Hưng năm 2007). Trong số 200.000
lao động đó, ước tính sẽ có 20.000 người Trung Quốc sẽ được di dân hợp pháp
sang đầu quân vào KCN này.
Trong tình hình các doanh nghiệp nhà nước và các Tập
đoàn Nhà nước của Việt Nam đang nợ đầm đìa, có nguy cơ phá sản bất kỳ lúc nào,
thì việc có mặt của Công ty CP Đầu tư Vinatex (Tập đoàn Dệt may Việt Nam) trong
“liên danh” KCN Rạng Đông phải chăng chỉ là hình thức, làm tấm bình phong cho
Trung Quốc?
Huyện Nghĩa Hưng có một mặt giáp với Biển Đông. Rất
có thể rồi đây Trung Quốc sẽ bỏ vốn ra và “xui” tỉnh ủy Nam Định đề nghị Trung
ương cho mở cảng biển. Cảng biển này sẽ góp mặt tạo nên một hành lang cảng biển
ở miền Bắc Việt Nam, gồm: Vân Đồn (Quảng Ninh – Hải Phòng) – Nghĩa Hưng (Nam
Định) – Nghi Sơn (Thanh Hóa) – Vũng Áng (Hà Tĩnh) – Cửa Việt (Quảng Trị), nơi
mà Trung Quốc có mặt trong các hợp đồng đầu tư làm ăn lâu dài từ 50 đến 70 năm.
Cùng với căn cứ tam giác quân sự Du Lâm-Vũng Áng-Cửa
Việt, hệ thống hành lang cảng biển này sẽ biến toàn bộ Vịnh Bắc Bộ đã, đang và
sẽ là cái ao nhà của Trung Quốc. Mọi hoạt động quân sự của Việt Nam ở miền Bắc
đều bị Trung Quốc khống chế.
Lấy lý do cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy ở các
vị trí trên, tàu bè Trung Quốc sẽ đi lại dày đặc ở Vịnh Bắc Bộ, áp đảo hoàn
toàn tàu đánh cá của Việt Nam cũng như các tàu của lực lượng cảnh sát biển của
Việt Nam
Ngay từ bây giờ, tàu vận tải biển, cũng như cảnh sát
biển của Trung Quốc với sự hung hăng vốn có của họ, đã uy hiếp ngư phủ Việt Nam
dữ dội hòng ép ngư dân Việt Nam dần dần bỏ biển, dành quyền làm chủ vịnh Bắc Bộ
cho Trung Quốc.
BBC ngày 06/3/2014 đưa tin: “Ngày 01/3/2014,
tàu cá mang số hiệu 90479ts của ông Võ Văn Lựu xã Bình Châu, huyện Bình Sơn,
Quảng Ngãi và 14 ngư dân bị TQ tấn công, tịch thu ngư cụ ở gần quần đảo Hoàng
Sa. Ngày 13/3/2014, tàu về đến cảng Sa Kỳ, mạn tàu bị hư hỏng do tàu sắt TQ
đâm, toàn bộ ngư cụ như đồ lặn, máy dò tín hiệu, máy định vị và gần 5 tấn cá,
tôm hùm bị TQ tịch thu giá trị trên 350.000.000 đồng. Tàu sắt TQ có khoảng 35
người mang theo súng, roi điện, bao vây tấn công tàu cá của ông Lựu. Họ dùng
hung khí khống chế ông Lựu và các thuyền viên. Chỉ từ đầu năm 2014, đã có 4 vụ
tàu của ngư dân Quảng Ngãi bị TQ tấn công”.
Loạn
“phố Tàu”, “làngTàu”
Nhan nhản khắp nơi, từ Bắc vào Nam, từ miền biển lên
cao nguyên Việt Nam, du khách đều có lúc tưởng như đang lạc vào một phố, một
làng Trung Quốc với giăng giăng đèn lồng đỏ Trung Quốc, giăng giăng biển quảng
cáo, cửa hàng, cửa hiệu bằng tiếng Trung Quốc.
Ngay bên Quốc lộ 1, tại địa phận xã Kỳ Phương – Kỳ
Anh, cách cửa hầm Đèo Ngang vài km du khách bị đập vào mắt một tấm bảng hiệu
chi chit chữ Trung Quốc dựng trên chân đế cao hơn 2 mét. Đến địa phận các xã Kỳ
Liên, Kỳ Long, Kỳ Thịnh du khách bị vây giữa hai bên đường phố dầy đặc những
bảng hiệu công ty kinh doanh lớn nhỏ, cửa hàng ăn uống, cắt tóc, rửa xe, cưới
hỏi… bằng tiếng Trung Quốc.
Tại địa bàn các xã Tam Hưng, Ngũ Lão của huyện Thủy
Nguyên (Hải Phòng) “phố Trung Quốc” cũng đã mọc lên khi hàng trăm nhà hàng,
dịch vụ mở ra phục vụ công nhân Trung Quốc sang lao động xây dựng Nhà máy nhiệt
điện Hải Phòng.
Tại trung tâm Thành phố Uông Bí có những đường phố
ngổn ngang biển hiệu của Tập đoàn Chengda (đơn vị tổng thầu xây dựng Nhà máy
nhiệt điện Uông Bí) và các cửa hàng cửa hiệu Việt Nam viết bằng tiếng Trung
Quốc.
Cách Hà Nội chưa đầy 20 km cũng có “phố Trung Quốc”
tại Phú Khê Thượng – Từ Sơn – Bắc Ninh.
“Làng Trung Quốc” mọc lên theo dự án khai thác bôxit
Tây Nguyên thì đã rầm rộ từ lâu.
Bằng mọi thủ đoạn, từ ve vãn chính trị đến luồn
trên, chạy dưới, hối lộ, móc ngoặc… , Trung Quốc đã trúng thầu và thâu tóm hơn
90% các công trình trọng điểm quốc gia trải dài khắp mọi miền nước ta. Mới đây,
khoảng giữa tháng 1/2014, các báo của Nhà nước còn cho biết, 60% doanh nghiệp
phía Bắc có người Trung Quốc đứng sau lưng. Có cả trường hợp Trung Quốc nhờ
người Việt đứng tên mua đất.
Ở những nơi Trung Quốc thuê, mua, đầu tư họ đều đưa
người của họ sang làm. Bằng nhiều thủ đoạn, bất chấp luật pháp của nước ta, họ
đưa ồ ạt lao động phổ thông vào.
Thượng tá Trương Xuân Tịnh – Trưởng công an huyện Kỳ
Anh – cho biết: “Hiện trên địa bàn có trên 420 người Trung Quốc. Họ ở
tại các văn phòng, nhà dân, khách sạn. Người Trung Quốc rất khó quản lý, họ đã
không trình báo như người các nước Châu Âu mà còn trốn tránh sự kiểm tra. Nhiều
người thuộc diện lao động ngắn hạn đã tìm mọi cách ở lại khi hết thời hạn.
Nhiều người ở luôn trong các container tại công trường nên rất khó kiểm sóat.
Cũng đã có vụ 2 người Trung Quốc đánh 1 người Việt Nam”.
Công an Kỳ Anh cũng từng phát hiện 7 người Trung
Quốc sử dụng hộ chiếu du lịch để sang ở và làm việc. Mời họ đến trụ sở, họ
không đến và bỏ trốn. Anh em phàn nàn rất khó vào được công trường Formosa mà
chỉ có thể kiểm tra ở các địa bàn dân cư.
Bằng thủ đoạn này, họ vừa thực hiện được mục đích di
dân vừa bố trí được đội quân thứ 5 với hàng vạn người phục binh trên khắp nước
ta. (Bao giờ thì sẽ có Krưm, có Ukraina ở Việt Nam?!)
*
Rõ ràng Trung Quốc đang tích cực triển khai mưu đồ
mà Mao Trạch Đông đã phác họa tại cuộc họp Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 8 năm 1965:“Chúng ta phải giành cho được
Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và
Singapo… Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng
đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy. Sau khi giành được Đông Nam châu Á,
chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng
ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió
Tây…”.
Cho nên nhân dân ta trẻ già đều gờm mặt Trung
Quốc.
Cụ Nguyễn Trọng Vĩnh, người từng lãnh trách nhiệm
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc suốt từ năm 1974 đến 1987 đã
liên tục cấp báo bằng hàng loạt bài viết có các tiêu đề: “Âm mưu thâm
độc của Trung Quốc”, “Chả lẽ mất độc lập tự chủ, lệ thuộc họ Bành”, “Hữu nghị
hay mưu đồ thôn tính?”, “Chẳng phải là mất nước từng phần là gì” …
Tại Hội nghị Thành ủy Đà Nẵng mở rộng lần thứ 15
(ngày 2.4.2014), ông Trần Thọ – Bí thư Thành ủy – đã thảng thốt và quyết liệt: “Các
anh bàn đi, dẹp hết bảng hiệu Trung Quốc. Cấm có được không? Vũng Áng họ lên án
vấn đề này rồi đó. Làm đi, bao giờ làm, bao giờ xong? Bây giờ làm luôn đi. Hai
ba ngày sau phải xử lý xong. Nói là làm chứ không để nó nguội… Để biến thành
phố Tàu là không được. Rất nguy hiểm! Bài học từ Đak Nông có rồi đấy”.
Tiếc rằng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, người đang
có trách nhiệm lớn nhất đối với vận mệnh tổ quốc thì lại không nhận thức nổi
thực trạng nguy cấp để có được những lo toan trăn trở khẩn thiết như thế.
Đối với Trung Quốc, một láng giềng khổng lồ ấp ủ
cuồng vọng Đại Hán hết sức ghê sợ, ta không thể không chìa bàn tay cầu hữu
nghị. Thậm chí không thể không tỏ ra biết điều. Tuy nhiên, dứt khoát phải cảnh
giác, cảnh giác thường trực, cảnh giác sâu sắc. Nhiều lãnh đạo ĐCSVN có tội lớn
ở chỗ không những đã không giáo dục tinh thần cảnh giác rất cần thiết đối với
Trung Quốc cho toàn dân mà bản thân họ tỏ ra cuồng tín rất ngây thơ.
- Không cảnh giác nên các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ
Mười đã mắc hỡm ở Hội nghị Thành Đô
- Không cảnh giác nên ông Phạm Văn Đồng đã ký công
hàm 14 tháng 9 năm 1958.
- Không cảnh giác nên Lê Khả Phiêu đã để mất Mục Nam
Quan, Thác Bản Giốc và một phần Vịnh Bắc Bộ …
- Không cảnh giác nên Nông Đức Mạnh đã mời Trung
Quốc vào khai thác bôxit ở Tây Nguyên.
- Biết cảnh giác thì các tỉnh đã không cho Trung
Quốc thuê dài hạn những cánh rừng đầu nguồn.
- Biết cảnh giác thì nông dân ta đã không để Trung
Quốc xui đào rễ hồi, rễ sim, rễ hồ tiêu; tuốt hết lá vải thiều, lá điều, lá
khoai lang non; nuôi ốc bươu vàng, thả đỉa…
- Biết cảnh giác thì ta đã không để cho họ trúng
thầu tuyến đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông để vốn đầu tư bị nâng lên gấp
đôi (tăng gần 400 triệu USD), thời hạn cũng kéo dài gấp đôi, khiến cho đường
phố Hà Nội cứ nhôm nhoam bừa bãi hết năm này sang năm khác.
Vv …
Khuyến
nghị
1 – Trung ương Đảng cần có Hội nghị chuyên đề bàn về
đối sách với Trung Quốc, quán triệt cả hai phương diện: Hữu nghị và Cảnh giác
2 – Thay thế ngay Tổng Bí thư bằng cách tạo điều
kiện để ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu đúng lúc ông đã 70 tuổi, thông qua Hội
nghị Trung ương Đảng giữa kỳ.
- Ông Nguyễn Phú Trọng không có kiến thức về kinh
tế, không kinh qua hoạt động khoa học-kỹ thuật, không những không từng trải
chiến trường mà cũng không được trui rèn trong cuộc sống nhiều sắc thái. Ông
giống như một “thợ cạo giấy” đơn thuần, một cậu ấm hiện đại (được bề trên nâng
giấc nhờ có công viết diễn văn theo chỉ đạo). Quan lộ của ông được rải thảm
nhung bằng tấm luận văn về xây dựng Đảng (mà chỉ cần đọc thông viết thạo là
viết được) nên ông chỉ biết “Định hướng xã hội chủ nghĩa”.
- Không biết có phải vì ông mang ơn các quan thầy
Phương Bắc đã góp sức dựng ông lên không nhưng những việc ông làm, những lời
ông nói bộc lộ như ông là nội ứng của Trung Quốc:
- Giữa lúc Trung Quốc đã thành lập thành phố Tam Sa
bao trùm Hoàng Sa và Trường Sa của ta, chém giết ngư phủ của ta… Quốc hội khẩn
khoản đề nghị được thông báo về tình hình Biển Đông thì ông gạt phắt và lấp
liếm rằng “Biển Đông không có gì mới”.
- Giữa lúc không chỉ nhân dân ta mà quốc tế cũng yêu
cầu nhanh chóng tiến tới COC và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trương quốc tế
hóa vấn đề Biến Đông (tại Hội nghị Shangri La) thì Nguyễn Phú Trọng ngả vào chủ
trương song phương hóa vấn đề Biển Đông (tức là trói tay nộp mạng cho Trung
Quốc).
- Trong khi thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thành khẩn hứa
sẽ trình Quốc hội các dự án khai thác boxit ở Đak Nông và Lâm Đồng thì Nguyễn
Phú Trọng nói càn rằng: “Dự án Nhân Cơ có tổng vốn đầu tư hơn 600 triệu
đôla, chưa thuộc dự án phải đặt dưới sự giám sát của Quốc hội”. Giữa không
khí sôi sục bàn tán về tính chất nguy hại của dự án boxit Tây Nguyên thì trong
buổi tiếp xúc với cử tri quận Ba Đình ngày 4 tháng 5 năm 2006 NPT đàn áp dư
luận bằng câu nói: chủ trương khai thác bôxit ở Tây Nguyên “đã được thống nhất
trong các Nghị quyết 9, 10 của Đảng”.
- Ông Trọng đã chủ trương rước công an Trung Quốc
vào đàn áp nhân dân mình. Điểm Năm trong khoản 4 của Tuyên bố chung Việt Nam –
Trung Quốc do Nguyễn Phú Trọng ký với Hồ Cẩm Đào ngày 15 tháng 10 năm 2011 ghi
rõ một điều cực kỳ nguy hiểm: “Năm là, đi sâu hơn nữa hợp tác giữa hai
nước trong lĩnh vực thi hành pháp luật và an ninh, cùng phòng ngừa và tấn công
các hoạt động vi phạm pháp luật, tội phạm xuyên biên giới; tăng cường phối hợp
và ủng hộ lẫn nhau trong việc giữ gìn ổn định trong nước của mình”.
- Ông Trọng mở toang cửa cho Trung Quốc vào xây căn
cứ địa, lập “làng Tàu”, “phố Tàu” phục sẵn “Đội quân thứ 5”, như đã nêu trên,
thông qua ký kết Tuyên bố chung Nguyễn Phú Trọng- Hồ Cẩm Đào: “Mở rộng
hơn nữa sự giao lưu, hợp tác giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh
giáp biển, giáp biên giới của hai nước như Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng, Quảng
Ninh, Điện Biên, Hà Giang, Lai Châu của Việt Nam với Quảng Tây, Quảng Đông, Vân
Nam, Hải Nam của Trung Quốc”.
(May sao, để ngăn ngừa khả năng rước voi vào dày
toàn bộ lành thổ, trong bản Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc do Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang ký sau đó đã phải gạt bỏ bớt chủ trương của ông Trọng cho
phép “Mở rộng hơn nữa giao lưu, hợp tác giữa (tất cả) các địa phương
hai nước”, mà chỉ giới hạn ở các địa phương biên giới hai nước. Bản Tuyên
bố do ông Sang ký ghi: “Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác
giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước, nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam
gồm Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh với
4 tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc gồm Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam
…” ).
- Những sai biệt giữa các điều khoản ký kết trong
hai bản Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc do ông Trọng và ông Sang ký chứng
tỏ ông Trọng đã tự tiện làm sai tinh thần của Bộ Chính trị (có thể khẳng định
được vì nghĩ rằng Bộ Chính trị không thể hớ hênh, ngu dại như vậy).
Sự non kém của ông Nguyễn Phú Trọng đang đưa đất
nước vào những hiểm họa khôn lường. Cần xem xét nghiêm túc để có kỷ luật thích
đáng.
Vì quá đau lòng cùng tướng Nguyễn Trọng Vĩnh trước
cái thực tế mà như cụ đã thét lên “Chả lẽ mất độc lập tự chủ, lệ thuộc
họ Bành”, “Chẳng phải là mất nước từng phần là gì” … nên bất chấp nguy nan,
người viết buộc lòng phải khẩn cấp cảnh báo và khuyến cáo quyết liệt. Hy vọng
sẽ được công minh soi sét để bài viết phát huy được tác dụng cần thiết và đúng
đắn.
Hà Nội ,26 tháng 4 năm 2014
Nguyễn
Thanh Giang
Số nhà 6 ngõ 257 đường Trung Văn Phường Trung Văn –
quận Nam Từ Liêm – Hà Nội
Hotline: 0984 724 165
No comments:
Post a Comment