Câu
chuyện nhân mùa lễ độc lập 2013 :
07/03/2013
Tình
tự dân tộc ở đâu?
Nhân
mùa lễ độc lập 2013 xin gửi đến quý một câu hỏi: Tổng thống Hoa Kỳ có
phải là tổng thống của chúng ta hay không? Chúng ta đây là người Việt
mang quốc tịch Hoa Kỳ. Trên pháp lý thì đúng đấy, nhưng trên thực tế thì dân ta
có vẻ lạnh lùng hờ hững lắm. Như vậy có vẻ bất công với đất nước mà chúng ta đã
hưởng phúc lợi khá nhiều.
Vẫn
còn nhớ khởi đi từ cuối thập niên 70, anh em gặp nhau trên con đường xuôi ngược
tìm nơi định cư. Tay bắt mặt mừng, hỏi rằng bây giờ bạn làm gì ở đâu. Câu trả
lời nhẹ nhàng lý thú: trước làm hãng Ford, mới đây thì lãnh lương Carter. Check
Carter lãnh đủ 4 năm, rồi qua làm việc với tổng thống Reagan. Cho đến bây giờ
có nhiều bạn cao niên chúng tôi lãnh tiền già của vị tổng thống mới mà vẫn quen
mồm gọi là thằng Obama. Hết sức là tự do dân chủ.
Dân
ta ở Mỹ đã 10, 20 hay thậm chí quá 30 năm. Đã đứng lên nghe đọc lời thề
vào quốc tịch. Vui vẻ giơ tay thề bỏ hết những giây mơ rễ má với quê hương cũ,
sẽ một lòng cầm súng chiến đấu cho Tổ Quốc mới, nhưng thật sự tấm lòng không hề
rung động với Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ.
“Lòng quê gởi áng mây tần xa xa”
“Lòng quê gởi áng mây tần xa xa”
Người
thì làm ăn cật lực để gởi tiền về quê. Mua đất, cất nhà. Người thì đi về như đi
chợ. Người thì đốt lửa, thổi gió đấu tranh về quê hương. Hết năm này qua năm
khác. Bao nhiêu là đám cưới, bao nhiêu lần khai sinh, bao nhiêu đám ma. Ở trên
miền đất đầy cơ hội đã hơn một phần ba thế kỷ mà sao vẫn mang tâm trạng lưu
đầy, mãi mãi làm người lưu vong trong hoàn cảnh tạm dung.
Bài
học lịch sử và tình tự dành cho Tổ Quốc mới, khi thi xong nhập tịch là buông
xuôi hết. Như vậy, phải chăng chúng ta đối xử với nước Mỹ dường như không phải
đạo.
Kể
từ năm 75 cho đến nay là năm hai không mười ba. Sắp sửa đến 2015 là vừa đúng 40
năm. Chẳng mấy chốc mà qua nửa thế kỷ lưu vong. Có lẽ đã đến lúc chúng ta phải dành
cho cái đất nước tử tế này một chút tình dân tộc mới.
Xin
vui lòng đọc bài giải bầy này với mối chân tình.
Xin
đọc lại bài học quốc tịch bằng tấm lòng thành.
Các
vị tổng thống Hoa Kỳ
Ghi
dấu lịch sử đầu tiên dành cho vị tổng thống thứ nhất George Washington. Ông là
vị khai quốc công thần, là cha già dân tộc, là quốc phụ của Hoa Kỳ. Vị tướng
chỉ huy cuộc tranh cách mạng chống Anh quốc. Thành lập Hiệp chủng Quốc và lên
làm tổng thống 2 nhiệm kỳ. Ông sinh ngày 22 tháng 2 năm 1796. Vì vậy nước Mỹ có
ngày President’s Day cũng gọi là Washington’s Birthday. Sau đó người ta cũng
ghép chung vào ngày lịch này để kỷ niệm thêm ngày sinh nhật của vị tổng thống
thứ 16 là Abraham Lincoln. Ông sinh ngày 12 tháng 2-1809. Cho đến nay ngày
President trở thành ngày quốc lễ và nước Mỹ chọn ngày Thứ hai của tháng Hai,
nằm giữa sinh nhật của hai vị tổng thống vĩ đại. Một người lãnh đạo kháng chiến
thành lập quốc gia. Một người chiến thắng cuộc nội chiến, thống nhất đất nước.
Nếu
hỏi rằng, ngoài hai vị kể trên trong tất cả các vị tổng thống Hoa Kỳ hơn 200
năm qua thì còn có tổng thống nào xếp hạng cao trong lịch sử. Hoa Kỳ có ngay
câu trả lời.
Các
tổng thống vĩ đại của nước Mỹ
Câu
trả lời không phải bằng văn bản mà bằng cả 1 công viên quốc gia. Không phải là
vườn cảnh, tượng đài mà bằng núi đá. Tại tiểu bang South Dakota có hình tượng
khắc trên đá. Các hình tượng vĩ đại của 4 ông tổng thống vĩ đại. Trái núi chiếm
diện tích 1,300 mẫu tây, với tượng đài cao 60 bộ nằm trên khu đất cao 5,700
feet trên mặt biển. Từ trái qua phải là hình tổng thống Washington, Jefferson,
Roosevelt, và Lincoln.
Tổng
thống Jefferson là người nhậm chức thứ ba, nhưng là cha đẻ của bản Tuyên ngôn
độc lập và Hiến pháp Hoa Kỳ. Ông đã viết ra những câu bất hủ trong các bản văn
lịch sử để làm khuôn vàng thước ngọc cho đời đời. Đó là câu: “Con người
sinh ra bình đẳng và ai cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Vị
sau cùng là tổng thống Roosevelt, người đã lãnh đạo nước Mỹ khi nhân loại bước
vào thế kỷ 19. Tượng đài khắc trên núi Rushmore là công trình thực hiện cha truyền
con nối của gia đình điêu khắc gia Borglum. Ngày nay có hai triệu du khách đến
thăm hàng năm.
Tinh
hoa của dân chủ
Với
hơn 200 năm lập quốc, nền dân chủ của Hoa Kỳ không một lần nào thay đổi người
lãnh đạo mà có rối loạn binh đao. Hoàn toàn không có đảo chính, cách mạng, binh
biến. Ngay cả những lúc chiến tranh sóng gió hay lúc các vị tổng thống bị truất
phế, từ chức thì việc thay đổi cũng tuần tự theo luật lệ hoàn tất rất nhẹ nhàng
và an toàn tuyệt đối.
Theo
hiến định, khi vị tổng thống tại chức qua đời hay từ chức thì ông phó lên thay.
Nếu không có phó tổng thống hay vì lý do gì, ông phó không lên thay thì người
thứ ba là chủ tịch hạ viện và kế tiếp là bộ trưởng ngoại giao. Trong thể chế
dân chủ, quyền hạn do các chính trị gia nắm giữ nên vai trò bộ trưởng quốc
phòng và tham mưu trưởng liên quân thuộc phe quân sự không nằm trong danh sách
được giao quyền lãnh đạo đất nước.
Trong
hoàn cảnh thuộc về đợt di dân Việt Nam đến Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ thứ 20, nếu
chúng ta tìm hiểu về cuộc đời của tất cả các vị tổng thống Hoa Kỳ sẽ tìm thấy
rất nhiều chi tiết lý thú. Tuy nhiên, nói đến mối giao tình Việt Mỹ phải kể lại
câu chuyện sử liệu từ thời tổng thống thứ 18 của Hiệp Chủng Quốc là ông Grant
vào năm 1869.
Việt
sử ghi lại rằng vào năm 1870, ông Bùi Viện gốc làng Trình Phố, tỉnh Thái Bình
dưới triều Tự Đức được cử đi sứ qua Hồng Kông rồi nhân dịp này theo tàu viễn
dương qua Hoa kỳ vào triều đại Tổng thống Ulysses Grant. Tổng thống Mỹ tiếp
kiến hứa hẹn viện trợ cho Việt Nam canh tân. Ông Bùi Viện về nước trình lên kết
quả và lại trở lại Mỹ quốc lần thứ hai. Tuy nhiên, kỳ này Hoa Kỳ lại đổi ý nên
việc viện trợ không thành.
Dù
sao thì đây cũng là một ghi dấu về những ngày bang giao Việt Mỹ đầu tiên. Nhưng
suốt một trăm năm từ thời kỳ1850 đến 1950 miền Đông Nam Á vẫn trong vòng ảnh
hưởng của Pháp nên Việt Nam không có cơ hội liên hệ với Hoa Kỳ. Cho đến năm
1975, cựu đại sứ Bùi Diễm, thuộc giòng họ Bùi Viện, đại diện Việt Nam Cộng Hòa
lại thất bại trong lần xin viện trợ cuối cùng.
Tổng
thống Hoa Kỳ và chiến tranh Việt Nam
Cho
đến thời kỳ 1954 của tổng thống thứ 34 là ông Eisenhower, Việt Nam mới có cơ
hội đóng vai trò trong lịch sử Hiệp Chủng Quốc.
Vào
cuối thập niên 50, trong chuyến đi Mỹ, chúng ta thấy hình ảnh ông Eisenhower
đón chào tổng thống Ngô Đình Diệm và ca ngợi vị nguyên thủ Việt Nam là vĩ nhân
của Đông Nam Á. Và chẳng bao lâu sau đó, vị tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ là ông
Kennedy đã gián tiếp trách nhiệm về cuộc đảo chánh và hạ sát anh em ông Diệm
năm 1963 tại Sài Gòn. Ông Kennedy tuy giải tỏa được một chế độ cản đường nhưng
cũng rất ân hận về cái chết của ông Diệm. Cả hai ông Ngô Đình Diệm và Kennedy
đều là Thiên Chúa Giáo.
Nhưng niềm ân hận cũng không lâu, chỉ sau một thời gian ngắn đến lượt ông Kennedy bị ám sát chết tại Dallas, Texas.
Cái
chết của cả hai vị tổng thống đều vẫn còn nhiều bí ẩn cho đến ngày nay. Ông
Johnson lên thay trong vai trò tổng thống thứ 36 với gánh nặng chiến tranh Việt
Nam. Ông là người quyết tâm nhưng vẫn không thành công và để cho ông Nixon lên
thay với chiêu bài Việt Nam hóa chiến tranh, rút quân về bằng mọi giá.
Năm
1974, Nixon, vị tổng thống thứ 37 vì Watergate phải từ chức. Ông Gerald Ford
thứ 38 lên thay, thể theo lòng dân và quốc hội, quay lưng cuộc chiến tranh Việt
Nam. Từ nay đối với Hoa Kỳ, Việt Nam chỉ còn là vấn đề nhân đạo.
Với
5 vị tổng thống can dự vào chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ Eisenhower,
Kennedy, Johnson, Nixon và Ford, người Mỹ gọi đây là The War of the Presidents.
Ý nói là cuộc chiến riêng tư của các vị tổng thống, không can dự gì vào nước Mỹ
và dân Mỹ. Làn sóng chống chiến tranh của dân Mỹ dâng cao với các cuộc xuống
đường hàng triệu người. Bây giờ sống tại đây chúng ta mới có thể hiểu được là
lòng dân của Mỹ quốc thực sự ảnh hưởng đến chính quyền ra sao. Không cần đúng
hay sai, không cần giữ lời cam kết. Đối với dân chúng Hoa Kỳ, lòng kiên nhẫn và
sự chịu đựng, hy sinh rất giới hạn. Đánh không xong thì rút, sống chết mặc bay.
Từ các quan niệm đó, định mệnh đưa chúng ta đến Hoa Kỳ.
Tổng
thống Hoa Kỳ và dân tỵ nạn Việt Nam
Sau
ông Ford, dân tỵ nạn lần lượt sống với 5 vị tổng thống của thời hậu chiến. Bắt
đầu từ ông Carter, tổng thống thứ 39, ông già hiền lành đạo đức chính là vị ân
nhân đầu tiên mở cửa nước Mỹ cho thuyền nhân từ các trại tỵ nạn vào Hoa Kỳ.
Khi
đoàn biểu tình Việt Nam thắp nến đi trước Bạch Cung để than khóc cho thuyền
nhân thì ông Carter đã mở cửa ban công ngó xuống vẫy tay chào. Nước mắt dân tỵ
nạn Việt Nam di tản đợt đầu, nhỏ giọt xuống đại lộ Constitution đã làm động
lòng ông tổng thống chuyên cất nhà Homeless. Lệnh tổng thống ban ra từ đây các
tàu chiến của hạm đội số Bảy bắt đầu xua đuổi hải tặc và vớt người di tản. Các
phái đoàn Mỹ lên đường đến phỏng vấn tại trại tỵ nạn Đông Nam Á.
Rồi
tiếp đến ông thứ 40 là Reagan suốt 8 năm đưa ra các đạo luật tỵ nạn, khởi sự
các buổi thảo luận thả tù, để sau này ông Bush số 41 tiếp tục mở rộng tấm lòng
nhân đạo.
Bước
qua thập niên 90, triều đại Bill Clinton, tổng thống thứ 42 là thời kỳ của hòa
giải và hàn gắn. Clinton mở đường hiệp thương, giải tỏa cấm vận, đưa tay dắt
đường cho Hà Nội trở về với thế giới tự do. Sau cùng ông Clinton chấm dứt nhiệm
kỳ bằng một chuyến công du cuối cùng dưới hình thức qua Việt Nam để trình diễn
một màn Workshop dân chủ đi từ Hà Nội đến Sài Gòn.
Qua
đến ông Bush, vị tổng thống thứ 43 của Hoa Kỳ đã đem bài học Việt Nam ra để
đánh trận Trung Đông, nhưng đã gặp nhiều cay đắng. Bây giờ đến lượt tổng thống
Obama, với hoàn cảnh thế giới điên đảo, nợ nần chồng chất, ông có quá nhiều mối
bận tâm. Hồ sơ Việt Nam và hồ sơ di dân tỵ nạn sẽ còn lâu mới đem ra thảo luận.
Xem
như vậy, lịch sử cận đại của Hoa Kỳ từ 1954 đến nay có 11 vị tổng thống. Năm vị
tham dự vào cuộc chiến Việt Nam. Ba triệu lính lần lượt tham chiến. 58 ngàn
người chết. Mỗi vị tổng thống khi nhắc đến Việt Nam đều mang một kỷ niệm cay
đắng khôn nguôi.
Kể
từ 1975 đến nay, 5 vị tổng thống liên quan đến dân Việt Nam hậu chiến, qua các
lãnh vực di dân tỵ nạn và nhân đạo. Cả 5 người đã mang một quan niệm mới mẻ về
hai chữ Việt Nam. Đã bớt phần đau thương cay đắng. Trong những năm gần đây, sự
thành công của người Việt tại Hoa Kỳ trong tất cả các lãnh vực đã đem đến cho
các ứng cử viên tổng thống một ý niệm mới mẻ tốt đẹp của chúng ta tại quê hương
mới. Riêng tổng thống Obama, trong bài diễn văn nhậm chức đã nhắc đến Việt Nam
qua trận Khe Sanh.
Bây
giờ sẽ đến lượt con cháu chúng ta sẽ làm quen với vị tổng thống da mầu đầu tiên
thứ 44 với niềm tự hào của một thế hệ di dân gốc Việt góp phần xây dựng đầy
hưng phấn trong tương lai. Biết đâu sẽ có ngày Hoa kỳ chào mừng một tổng thống
Việt Nam da vàng. Mặc dù ngày đó có thể còn rất xa, nhưng bây giờ xin vui lòng
nhận chấp nhận tổng thống của chúng ta. Trong niềm tin mới, chúng ta cùng
ghi dấu ngày lễ độc lập 2013. Dù rằng nghĩa trang Việt Nam tại Los Gatos
có treo đôi câu đối: “Trăm năm xác tục gửi quê người, Vạn dặm hồn thiêng
về cố quốc.” Tôi cũng xin nhắc lại hai bài học trăm năm của các di dân
đến trước chúng ta. Một văn hào Nga đã nói rằng: “Nơi nào tôi sống có tự
do, nơi đó chính là quê hương.” Một chính khách Ba Lan tỵ nạn lại nói
rằng: “Muốn đấu tranh hữu hiệu cho quê hương cũ, hãy làm một công dân tốt
trên quê hương mới.” Trong tinh thần đó, chúng ta chào mừng ngày 4
tháng 7 năm nay.
©
Giao Chỉ
©
Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment