Aug 20, 2012 8:42 AM
Trong tuần qua, một câu chuyện nổi lên trong lĩnh vực
kinh tế là việc xuất khẩu hàng hóa của nhiều doanh nghiệp sang Trung Quốc đang
có dấu hiệu bị gây khó khăn, đình trệ. Những thông tin từ hải quan các cửa khẩu
ở các tỉnh có đường biên giới giáp Trung Quốc như Lào Cai, Lạng Sơn, Hà
Giang…đều cho thấy có sự hạn chế, suy giảm rõ rệt về lượng hàng, kim ngạch xuất
khẩu sang Trung Quốc mà không phải do nguyên nhân từ phía Việt Nam .
Những con số thống kê mới nhất đều chứng minh rõ xu hướng
này. Tại Móng Cái (Quảng Ninh), tính đến nay, khu vực cửa khẩu này còn tồn hơn
3.800 container hàng hóa các loại, trên 1.300 container hàng để lâu ngày phải
cắm điện bảo quản chờ xuất. Ở Lạng Sơn, như tại cửa khẩu Tân Thanh nếu như đầu
năm bình quân mỗi ngày có khoảng 300-400 xe vận chuyển hàng hóa qua thì đến
thời điểm này, theo Cục Hải quan Lạng Sơn, chỉ còn khoảng 100-200 xe/ngày. Khu
vực cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị cũng vậy, thông tin cho biết từ tháng 6 đến nay,
hoạt động xuất khẩu đã giảm đáng kể…
Một ví dụ đáng suy nghĩ nhất là mới đây, một đoàn xe 6
chiếc chở 8 lô hàng của công ty TNHH Thương mại dịch vụ tổng hợp Hà Thành của
Việt Nam chở hàng sang cho một đối tác Trung Quốc tại Pò Chài (Bằng Tường-Trung
Quốc) đã bị Hải quan Trung Quốc giữ lại toàn bộ mà không nêu rõ lý do. Trong
khi đó, theo kiểm tra hồ sơ của Cục Hải quan Lạng Sơn thì 8 lô hàng này đầy đủ
giấy tờ, hóa đơn và không có gì vi phạm. Điều này cho thấy, việc hạn chế hàng
xuất khẩu của Việt Nam có thể không chỉ nhằm vào hàng tiểu ngạch mà cả ở hàng
hóa xuất khẩu chính ngạch. Vụ bắt giữ hàng vô cớ này đang khiến cho nhiều doanh
nghiệp Việt Nam cảm thấy, việc làm ăn với các đối tác Trung Quốc đang trở lên
bất an hơn bao giờ hết.
Nguyên nhân chính hiện được cơ quan quản lý Việt Nam xác
định là do phía Trung Quốc tăng cường giám sát, chống buôn lậu, tăng cường kiểm
tra, kiểm dịch…mà theo ngôn ngữ của các doanh nghiệp thường xuyên xuất, nhập
khẩu hàng sang Trung Quốc gọi là “cấm biên”. Thường mỗi năm phía Trung Quốc có
1-2 đợt tăng cường, mỗi đợt 1-2 tháng nhưng năm nay, đợt “tăng cường” này đã
kéo dài bất thường từ tháng 4 đến nay và dự kiến sẽ còn kéo dài thêm vài tháng
nữa.
Chưa thể khẳng định là những bất đồng trong quan điểm về
chủ quyền lãnh thổ tại Biển Đông là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc tăng cường
kiểm tra, kiểm soát…dẫn đến hạn chế, làm giảm hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
vào Trung Quốc. Nhưng những động thái tương tự mà cơ quan quản lý phía Trung
Quốc áp đặt, hạn chế lên mặt hàng chuối vả một số hàng nông sản khác mà
Philipines xuất khẩu sang nước này sau sự kiện tranh chấp ở bãi cạn
Scarborought của Philippines cũng là điều khiến doanh nghiệp, cơ quan quản lý
ngoại thương của Việt Nam lưu tâm. Bởi với Trung Quốc, từ những khúc mắc trong
quan hệ ngoại giao dẫn đến những cản trở trong quan hệ thương mại, làm ăn với
nước khác đã không còn là chuyện lạ.
Trên một phạm vi rộng hơn, cũng đã đến lúc cần nhìn lại
quan hệ hợp tác kinh tế về nhiều mặt với người láng giềng Trung Quốc để có
những điều chỉnh cho phù hợp. Hợp tác kinh tế với Trung Quốc tất nhiên, do sự gần
gũi về địa lý, sự tương đồng về cơ cấu kinh tế, những sự thiếu hụt hay dư thừa
về một số chủng loại nguyên, nhiên vật liệu, hàng hóa ở cả 2 nước cần có giao
thương, trao đổi để bù đắp là rất cần thiết và có thể nói, cũng đã đem đến
những hiệu quả nhất định. Nhưng quan sát trong nhiều năm gần đây, điều rõ ràng
là Việt Nam đang chịu thiệt hơn rất nhiều trong quan hệ kinh tế, thương mại,
đầu tư với Trung Quốc và đã có những cảnh báo cần sớm có điều chỉnh để tránh
một sự lệ thuộc, mất cân bằng trong quan hệ kinh tế với quốc gia này.
Nhìn vào thực tế quan hệ thương mại với Trung
Quốc, hơn 10 năm qua, Việt Nam không khi nào được lợi. Theo các con số thống kê
của Tổng cục Hải quan, Bộ Công thương, từ chỗ xuất siêu sang Trung Quốc 135
triệu USD năm 2000, Việt Nam đã bắt đầu chịu thâm hụt với Trung Quốc vào năm
2001, và mức thâm hụt này đã tăng liên tục, đặc biệt là từ năm 2006 đến nay.
Năm 2007, nhập siêu từ Trung Quốc của Việt Nam là 9,145 tỷ USD. Năm 2008 tăng
vọt lên con số 11,16 tỷ USD. Năm 2009, con số này đã tăng tiếp lên 11,532 tỷ
USD. Năm 2010, nhập siêu từ Trung Quốc đã nâng lên mức báo động đỏ: ước 12,6 tỷ
USD, bằng 105% mức nhập siêu cả năm (12 tỷ USD) của Việt Nam. Năm 2011, nhập
siêu từ Trung Quốc đã lên đến 13,5 tỷ USD-một con số có thể nói: kinh hoàng !.
Sự bất tương xứng trong quan hệ thương mại 2 bên như vậy
có thế nói là nghiêm trọng và nó chính là một nguyên nhân gây bất ổn cho điều
hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam . Bộ Công thương vẫn lý giải là do ngành công
nghiệp phụ trợ trong nước yếu kém, Việt Nam phải nhập khẩu các nguyên liệu vật
liệu phục vụ cho hoạt động sản xuất trong nước và cho xuất khẩu; Trung Quốc có
những loại đầu vào phù hợp với nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước, nên
nhập khẩu từ thị trường này tăng…Nhưng dù nói thế nào, con số nhập siêu chênh
lệch một cách nguy hiểm như vậy là khó có thể chấp nhận được. Và đáng lo ngại
là những giải pháp để nhằm làm giảm bớt sự mất cân bằng về thương mại rõ ràng
đang chưa đỉ đến đâu khi 7 tháng đầu năm nay, theo con số của Bộ Công thương đưa
ra, nhập siêu từ Trung Quốc đã lên tới 8 tỷ USD.
Nhìn vào nhiều quan hệ hợp tác đầu tư, kinh doanh khác,
đều có những cơ sở để những người có trách nhiệm phải xem lại, điều chỉnh các
quan hệ đó để đảm bảo lợi ích cho Việt Nam . Việc phải tiếp tục mua điện từ
Trung Quốc với giá không còn rẻ qua các tỉnh giáp biên như Lào Cai, Hà
Giang…trong khi nhiều nhà máy điện trong nước phải kêu gào EVN mua điện cho họ,
với giá rẻ là điều khó chấp nhận. Thêm nữa, hàng loạt nhà máy điện do các nhà
thầu Trung Quốc trúng thầu, khiến Việt Nam phải nhập khẩu lượng máy móc, thiết
bị có giá trị rất lớn, lên đến hàng tỷ USD cho mỗi công trình…góp phần quan
trọng làm nghiêng lệch cán cân thương mại về phía Trung Quốc, trong khi phần
lớn các công trình này chậm tiến độ nghiêm trọng. Đây là những vấn đề đáng đặt
câu hỏi lớn về trách nhiệm của những người có thẩm quyền khi không sớm nhìn
nhận ra vấn đề trên, để cho nền kinh tế không khỏi bị những ảnh hưởng nhất
định, không chỉ bây giờ mà có thể lâu dài về về sau do để xảy ra tình trạng lệ
thuộc về năng lượng, về những nguồn năng lượng bị chậm tiến độ ấy…
Do đó, hơn lúc nào hết, vào thời điểm này, tuy cũng đã là
khá muộn, rõ ràng cần phải xem xét lại toàn diện quan hệ hợp tác thương mại,
kinh tế, đầu tư Việt-Trung. Đành rằng, nhìn tổng thể, nhiều hoạt động hợp tác
đó xuất phát từ những nhu cầu hợp lý, khách quan giữa 2 nền kinh tế, của cộng
đồng doanh nghiệp 2 nước. Nhưng nhìn thực tế kết quả trao đổi, hợp tác 2 bên
thì Việt Nam đã chịu thiệt hại, ở thế bất lợi rất nhiều năm và đến nay, cần
phải có những sự nghiên cứu, điều chỉnh mạnh để giảm bớt, càng nhanh càng tốt
mức độ bất tương xứng trong quan hệ thương mại 2 bên. Việc vừa qua, Bộ Khoa học
và Công nghệ đã đưa ra các giải pháp hạn chế nhập khẩu máy móc, công nghệ lạc
hậu do Trung Quốc thải loại từ hơn 1800 nhà máy lạc hậu, ô nhiễm là một bước đi
đúng. Nhưng ở nhiều lĩnh vực khác như xuất, nhập khẩu hàng tiêu dùng, cơ khí,
điện năng, khai khoáng…cần phải có sự vào cuộc, xem xét và điều chỉnh mạnh mẽ
để Việt Nam không bị thiệt thòi, ở chiếu dưới trong mọi quan hệ hợp tác về kinh
tế, thương mại và đầu tư với người láng giềng đặc biệt khôn khéo, khó chơi này.
Mạnh Quân
No comments:
Post a Comment