Minh Trung -
Nghiên Cứu Biển Đông
Thứ năm, 21 Tháng 6
2012 14:02
Công ước Luật biển 1982 là
hiến pháp của biển, là cơ sở pháp lý chung cho việc giải quyết các tranh chấp
biển, trong đó có phân định vùng biển và thềm lục địa chồng lấn giữa các nước
xung quanh Biển Đông. Bài viết nhân kỷ niệm 30 năm ngày ký kết và nhân ngày
Viêt Nam thông qua Luật biển.
Sau hơn 4 năm chuẩn bị và 9 năm đàm phán, ngày
10/12/1982, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật
Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước Luật biển 1982), tên tiếng Anh là United
Nations Convention on the Law of the Sea, hay thường được gọi tắt là UNCLOS
1982, được 107 quốc gia, trong đó có Việt Nam, ký tại Montego Bay, Jamaica
(tính đến nay, số quốc gia ký là 157), đánh dấu thành công của Hội nghị LHQ
về Luật biển lần thứ 3, với sự tham gia của trên 150 quốc gia và nhiều tổ chức
quốc tế, kể cả các tổ chức quốc tế phi chính phủ, cùng xây dựng nên một Công
ước mới về Luật biển, được nhiều quốc gia, kể cả những quốc gia không có biển,
cùng chấp nhận.
Sau Hiến chương LHQ, Công ước
Luật biển 1982 được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ
sau chiến tranh thế giới thứ hai, được nhiều quốc gia ký kết và tham gia. Công
ước Luật biển 1982 có hiệu lực từ ngày 16/11/1994 (12 tháng kể từ ngày Guyana,
nước thứ 60 phê chuẩn Công ước ngày 16/11/1993). Là một văn kiện pháp lý đa phương đồ sộ, bao gồm 320 điều khoản và 9
Phụ lục, với hơn 1000 quy phạm pháp luật, Công ước Luật biển 1982 đã
đáp ứng nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một trật tự pháp lý
quốc tế mới đối với tất cả các vấn đề về biển và đại dương, bao gồm cả đáy biển
và lòng đất dưới đáy biển.
Công ước Luật biển 1982 thực
sự là một bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế bởi Công ước không chỉ
bao gồm các điều khoản mang tính điều ước mà còn là văn bản pháp điển hoá các
quy định mang tính tập quán. Công ước Luật biển 1982 thể hiện sự thoả hiệp mang
tính toàn cầu, có tính đến lợi ích của tất cả các nước trên thế giới, dù là
nước công nghiệp phát triển hay là nước đang phát triển… Công ước không chấp
nhận bảo lưu mà đòi hỏi các quốc gia phải tham gia cả gói (package deal),
có nghĩa là việc phê chuẩn hoặc tham gia Công ước đòi hỏi quốc gia phải có
trách nhiệm thực hiện toàn bộ các điều khoản của Công ước.
Công ước Luật biển 1982 đã trù
định toàn bộ các quy định liên quan đến các vùng biển mà một quốc gia ven biển
có quyền được hưởng, cũng như những quy định liên quan đến việc sử dụng, khai
thác biển và đại dương, cụ thể là: Quy chế pháp lý của tất cả các vùng biển
thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia; Chế độ pháp lý đối
với biển cả và Vùng - di sản chung của loài người; các quy định hàng hải và
hàng không; việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển bao gồm tài nguyên sinh vật
và không sinh vật; Vấn đề bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an
ninh trật tự trên biển; việc giải quyết tranh chấp và hợp tác quốc tế về biển;
Quy chế hoạt động của cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Uỷ ban ranh
giới ngoài thềm lục địa, toà án Luật biển quốc tế, hội nghị các quốc gia thành
viên Công ước …
Tính đến ngày 3/6/2011, đã có 162 nước phê chuẩn và
tham gia Công ước Luật biển 1982 (Thái lan là quốc gia thứ 162 gia nhập ngày
15/5/2011).
Một số nội dung quan trọng đã được
quy định trong Công ước Luật biển 1982 như dưới đây:
1. Quốc gia ven biển thực hiện
chủ quyền đầy đủ đối với vùng lãnh hải mà họ có quyền thiết lập với chiều rộng
không quá 12 hải lý. Tuy vậy, chủ quyền này không phải là tuyệt đối vì tầu
thuyền nước ngoài được phép “đi qua vô hại” trong vùng lãnh hải. Tầu thuyền và
máy bay được phép “đi quá cảnh” qua các dải hẹp, eo biển được sử dụng cho hàng
hải quốc tế.
2. Ranh giới lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế (ĐQKT) và thềm lục địa được xác định dựa trên các quy tắc áp
dụng cho lãnh thổ đất liền, nhưng đối với đá không thể có con người sinh sống
hoặc không có đời sống kinh tế sẽ không có vùng ĐQKT hoặc thềm lục địa. Quốc
gia có biên giới với eo biển có thể điều tiết lưu thông hàng hải và các khía
cạnh khác liên quan đến đi lại, lưu thông..
3. Quốc gia quần đảo, được tạo
thành bởi nhóm hoặc các nhóm đảo liên quan gần gũi và những vùng nước tiếp
liền, sẽ có chủ quyền đối với vùng biển nằm trong các đường thẳng được vẽ bởi
các điểm xa nhất của các đảo, vùng nước bên trong các đảo được gọi là vùng nước
quần đảo, và các quốc gia này có thể thiết lập các đường đi lại cho tầu thuyền
và hàng không, trong đó các quốc gia khác có thể được hưởng quyền qua lại các
quần đảo bằng các tuyến đường biển đã định.
4. Quốc gia ven biển có quyền
chủ quyền đối với vùng ĐQKT rộng tối đa 200 hải lý, đối với tài nguyên thiên
nhiên và một số hoạt động kinh tế, và thực hiện quyền tài phán đối với các hoạt
động nghiên cứu khoa học và bảo vệ môi trường. Các quốc gia khác có quyền tự do
hàng hải và tự do hàng không và tự do đặt dây cáp ngầm và đường ống.
5. Quốc gia không có biển hoặc
bất lợi về địa lý có quyền tham gia trên cơ sở công bằng trong việc khai thác
một phần thích hợp trong số phần dư dôi của các tài nguyên sống trong vùng ĐQKT
của quốc gia ven biển trong cùng khu vực hoặc tiểu khu vực; các loài di cư như
cá hoặc sinh vật biển được bảo vệ đặc biệt.
6. Quốc gia ven biển có quyền
chủ quyền đối với thềm lục địa (khu vực đáy biển của quốc gia) trong việc việc thăm
dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa. Thềm lục địa có thể
kéo dài ít nhất là 200 hải lý từ bờ biển, và có thể kéo dài không quá 350 hải
lý trong những điều kiện cụ thể. Quốc gia ven biển chia sẻ với cộng đồng quốc
tế phần lợi tức thu được do khai thác tài nguyên từ bất cứ khu vực nào trong
thềm lục địa của quốc gia đó khi nó kéo dài quá 200 hải lý. Uỷ ban Ranh giới
thềm lục địa (được thành lập theo Phụ lục II trong Công ước Luật biển 1982) sẽ
có ý kiến đối với quốc gia liên quan về ranh giới ngoài của thềm lục địa khi nó
kéo dài quá 200 hải lý.
7. Tất cả các quốc gia đều có
quyền tự do truyền thống về hàng hải, bay qua, nghiên cứu khoa học và đánh cá
trên vùng biển quốc tế. Các quốc gia có trách nhiệm hợp tác với nhau trong việc
thông qua các biện pháp để quản lý và bảo tồn các tài nguyên sống trên biển.
8. Các quốc gia có chung biên
giới với biển kín hoặc nửa kín cần hợp tác với nhau trong việc quản lý tài
nguyên sống, có chính sách và hoạt động về môi trường cũng như nghiên cứu khoa
học. Các quốc gia không có biển có quyền tiếp cận với biển và được tự do quá
cảnh thông qua nước quá cảnh để ra biển. Các
quốc gia phải ngăn chặn và kiểm soát ô nhiểm môi trường biển và phải chịu trách
nhiệm đối với những thiệt hại gây ra do sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế của mình để
kiềm chế những sự ô nhiễm đó.
9. Tất cả các nghiên cứu khoa
học trong vùng ĐQKT và thềm lục địa phải có sự đồng ý của quốc gia ven biển.
Tuy vậy, hầu như trong tất cả mọi trường hợp, quốc gia ven biển có trách nhiệm
đồng ý với đề nghị của các quốc gia khác khi việc nghiên cứu được tiến hành vì
mục đích hoà bình và đã thực hiện một số yêu cầu chi tiết. Các quốc gia cam kết
tăng cường phát triển và chuyển giao kỹ thuật biển trong những điều kiện “ công
bằng và hợp lý” có tính đến đầy đủ những lợi ích hợp pháp.
10. Các quốc gia thành viên
phải giải quyết bằng biện pháp hoà bình các tranh chấp liên quan đến việc hiểu
và áp dụng Công ước. Các tranh chấp cần được trình lên Toà án quốc tế về luật
biển ( được thành lập theo Công ước), trình lên Toà án công lý quốc tế hoặc
trọng tài. Toà án có quyền tài phán riêng biệt đối với những tranh chấp liên
quan đến khai thác ở đáy biển.
Sau khi Công ước Luật biển
1982 ra đời và có hiệu lực, các quốc gia ven biển đã ra các tuyên bố để khẳng
định chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình đối với những vùng
biển được mở rộng theo quy định của Công ước. Quy chế pháp lý đối với lãnh hải
đã trở thành biện pháp giải toả cho các yêu sách xung đột giữa các quốc gia với
nhau. Lưu thông hàng hải qua vùng lãnh hải và các dải hẹp giờ đây dựa trên các
nguyên tắc pháp lý. Các quốc gia ven biển đã tận dụng các điều khoản lợi thế
cho phép mở rộng vùng ĐQKT ra tới 200 hải lý dọc theo bờ biển. Các quốc gia
không có biển được quyền tiếp xúc với biển hoặc từ biển cũng được quy định một
cách rõ ràng. Quyền được tiến hành các nghiên cứu khoa học biển giờ đây được
dựa trên các nguyên tắc mà không thể vì lý do gì để từ chối. Cơ quan quyền lực
quốc tế về đáy đại dương đã được thành lập năm 1994, đang thực hiện chức năng
tổ chức và kiểm soát các hoạt động dưới biển sâu ngoài vùng thuộc quyền tài
phán quốc gia, nhằm điều hành việc khai thác và bảo tồn các nguồn tài nguyên
của biển.Toà án Luật biển quốc tế cũng đã được thành lập năm 1996 và có quyền
lực để giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển phát sinh từ việc áp dụng
hay hiểu biết về Công ước.
Tuy nhiên, cần phải nói thêm
rằng, phần XI của Công ước Luật biển 1982 liên quan đến quy chế pháp lý đối với
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia
(Công ước gọi chung là “Vùng”), đặc biệt là việc khai thác các quặng nằm sâu
dưới đáy đại dương, đã làm dấy lên nhiều lo ngại từ các nước công nghiệp phát
triển, đặc biệt là Mỹ. Để đạt được sự tham gia rộng rãi hơn của các nước đối với
Công ước, Tổng thư ký LHQ đã chủ động tiến hành một loạt các cuộc tham vấn
không chính thức giữa các quốc gia để giải quyết các lo ngại này. Sự tham vấn
đã kết thúc bằng việc các nước đạt được thoả thuận vào tháng 7/1994, gọi là “
Thoả thuận liên quan đến việc thực hiện phần XI của Công ước Luật biển 1982”.
Thoả thuận này được coi là một bộ phận của Công ước và đã mở đường cho tất cả
các nước tham gia ký hoặc phê chuẩn để trở thành thành viên của Công ước.
Sau khi Công ước Luật biển
1982 được thông qua ngày 30/4/1982, Việt Nam là một trong 107 quốc gia tham gia
ký Công ước tại Montego Bay. Ngày 23/6/1994, Quốc hội nước ta đã ra Nghị quyết
về việc phê chuẩn văn kiện pháp lý quan trọng này. Điểm 1 trong Nghị quyết nêu
rõ: “ Bằng việc phê chuẩn Công ước của LHQ về Luật biển 1982, nước CH XHCN Việt
Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công
bằng, khuyến khích sự phát triển và hợp tác trên biển”. Quốc hội khẳng định chủ
quyền của Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải. Quyền chủ quyền và
quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng ĐQKT và thềm lục địa Việt
Nam trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của pháp luật quốc
tế, yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam. Quốc hội một
lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, đồng thời cũng tuyên bố rõ lập trường của Nhà nước ta là giải quyết
hòa bình các bất đồng liên quan đến Biển Ðông trên tinh thần bình đẳng, hiểu
biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước
Luật Biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của
các nước ven biển Ðông đối với vùng ĐQKT và thềm lục địa; Trong khi nỗ lực thúc
đẩy đàm phán để tìm giải pháp cơ bản lâu dài, các bên liên quan cần duy trì hòa
bình, ổn định trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng, không có hành động làm phức tạp
thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Tham gia Công ước Luật biển
1982, Việt Nam, quốc gia ven biển, được thừa nhận có vùng lãnh hải rộng 12 hải
lý, vùng ĐQKT rộng 200 hải lý, thềm lục địa rộng ít nhất 200 hải lý và có thể
mở rộng tới 350 hải lý tính từ đường cơ sở. Diện tích các vùng biển và thềm lục
địa mà nước ta được hưởng theo quy định của Công ước, khoảng gần một triệu Km2,
rộng gấp ba lần diện tích lãnh thổ đất liền.
Công ước Luật biển 1982 đã trở
thành cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc, quan trọng, được thừa nhận và luôn được
viện dẫn trong cuộc đấu tranh cam go, phức tạp để bảo vệ các vùng biển và thềm
lục địa và các quyền và lợi ích chính đáng của nước ta trên biển. Trong cuộc
đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
bên cạnh những những chứng cứ lịch sử, pháp lý chứng minh chủ quyền của Việt
Nam đã được xác lập liên tục, hoà bình từ lâu đời đối với hai quần đảo, Công
ước là công cụ pháp lý để phản bác những yêu sách phi lý, ngang ngược của Trung
Quốc đối với cái gọi là “đường lưỡi bò” chiếm đến 80% diện tích Biển Đông, vốn
là vùng biển nửa kín được bao bọc bởi 9 quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Công ước Luật biển 1982 cũng
là cơ sở pháp lý chung cho việc phân định vùng biển và thềm lục địa chồng lấn
giữa nước ta với các nước xung quanh Biển Đông như Cămpuchia, Thái lan, Trung
Quốc, Indonesia, Malaysia…góp phần tạo dựng sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, tạo
môi trường ổn định, hoà bình, hợp tác và phát triển trong Biển Đông.
Sau 30 năm kể từ khi ra đời,
không thể phủ nhận tầm quan trọng và vị trí pháp lý của Công ước Luật biển 1982
trong đời sống luật pháp quốc tế. Tại Hội nghị lần thứ 22 các quốc gia thành
viên của Công ước, tổ chức tại NewYork tháng 6/2012, một lần nữa Công ước được
khẳng định là thành tựu của nhân loại bởi những quy định của nó là kết quả của
sự hợp tác - đấu tranh - xây dựng nhiều năm giữa các quốc gia trên thế giới với
các chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, quan điểm luật pháp… khác
nhau; là sự thoả hiệp giữa các quốc gia vì một nhận thức chung đối với tầm quan
trọng sống còn của biển và đại dương đối với sự phát triển của nhân loại.Khi
trở thành thành viên của Công ước, các quốc gia có trách nhiệm tuân thủ đầy đủ
các quy định trong Công ước, không có ngoại lệ, và không có bảo lưu. Do đó,
không thể có quốc gia nào, khi tham gia sân chơi luật pháp chung này, lại chỉ
viện dẫn và áp dụng những quy định trong Công ước có lợi cho quốc gia mình,
hoặc không tuân thủ, thậm chí phủ nhận, những quy định không có lợi cho quốc
gia mình./.
MINH TRUNG
---------------------
No comments:
Post a Comment