Iris Vinh Hayes
Thứ Bảy, 02/06/2012
Nhân đọc bài "Việt Nam Nhất Định Có Cách Mạng Sớm Nếu..."
của tác giả Nguyễn Ngọc Già, và vì tin rằng đây là một chủ để quan trọng, nên
xin được phép gởi đến quý vị một bài viết trước đây.
Theo các nhà khoa học xã hội đã từng nghiên
cứu các cuộc cách mạng trên thế giới quần chúng có đông đảo xuống đường làm
thành một biển người đối kháng với bộ máy cầm quyền độc tài hay không sẽ tùy
thuộc vào một yếu tố duy nhất: cảm nhận của quần chúng về khả năng thành công
của một cuộc cách mạng. Cảm nhận đó của quần chúng lại tùy thuộc vào ảnh hưởng
của những xung động lực đến từ 3 tác nhân: nhà cầm quyền, lực lượng đối kháng,
và quần chúng.
Về phía nhà cầm quyền độc tài chuyên chế
thì lúc nào họ cũng (a) tỏ rõ thái độ không bao giờ tự động rời bỏ hoặc
chuyển giao quyền lực; (b) sẵn sàng sử dụng bộ máy cầm quyền để đè bẹp
các thế lực đối kháng; (c) ngăn chận thông tin đến từ phía đối kháng; (d)
ép nhẹm những thông tin bất lợi cho bộ máy cầm quyền; (e) tuyên truyền ồ
ạt với thông tin một chiều để thuyết phục quần chúng rằng nhà cầm quyền đất
nước rất được quần chúng tín nhiệm, rất có chính nghĩa và rất vững chắc; (f)
tung hỏa mù bằng cách đưa ra những sự kiện/vấn đề nóng nhằm làm cho quần chúng
và những người đối kháng với bộ máy cầm quyền bị lạc đường, mất định hướng,
phân tán lực lượng, hoài nghi lẫn nhau, bị cuốn hút vào những hứa hẹn hay mục
tiêu nhảm nhí, có ảo tưởng rằng bộ máy cầm quyền sẽ tự sửa sai và làm tốt hơn; (g)
dựng lên một kẻ ngoại thù để khơi dậy lòng yêu nước, để răn đe là sẽ bị mất
nước nếu không hợp tác với nhà cầm quyền, hoặc để trấn áp với lý do vì an ninh
quốc gia.
Ở một mặt khác thì nhà cầm quyền độc tài
lại rất bất an: (a) vì biết rằng đại đa số quần chúng sẽ không bao giờ
công khai ý nghĩ chống đối của mình để cho nhà cầm quyền biết, bộ máy cầm quyền
càng độc tài chuyên chế thì dân càng giỏi che dấu, cho nên khó biết dân thực sự
đang nghĩ gì và sẽ làm gì nếu có cơ hội; (b) vì không biết quần chúng
tin ai hơn, tin vào tiếng nói của nhà cầm quyền hay tin vào tiếng nói của thành
phần đối kháng; (c) vì không biết giữa “tâm trạng của quần chúng”
với “suy đoán của nhà cầm quyền về tâm trạng của quần chúng” có khoảng
cách bao xa và khoảng cách đó có đủ để kích nổ một cuộc cách mạng hay không; (d)
vì nếu có cuộc cách mạng nổ ra không biết là bộ máy cầm quyền có chịu nổi áp
lực và có khả năng sống còn hay không; và (e) vì khi đã có một cuộc cách
mạng nổ ra thì nhà cầm quyền sẽ có hai sự chọn lựa là (e1) nhường nhịn
và đáp ứng phần nào yêu sách của quần chúng hoặc là (e2) thẳng tay đánh
dẹp nhưng, khổ nạn là, cả hai sự chọn lựa đều có khả năng làm cho quần chúng
quyết tâm hơn trong việc giải thể chế độ độc tài.
Về phía đối kháng với nhà cầm quyền thì họ (a)
chủ tâm thu thập thông tin, nhất là thông tin mật từ phía nội bộ nhà cầm quyền,
nên có nhiều thông tin hơn quần chúng; (b) biết rõ về bản chất, thực
chất, và những vấn nạn của bộ máy cầm quyền hơn là quần chúng; (c) cố
gắng thuyết phục quần chúng rằng một cuộc cách mạng đổi mới đất nước là cần
thiết; (d) cố gắng thuyết phục quần chúng rằng một cuộc cách mạng đổi
mới sẽ có nhiều cơ hội thành công; và (e) kêu gọi quần chúng hành động.
Những người đối kháng chỉ ra mặt khi (1) tin rằng quần chúng sẽ nghe
theo và (2) tin rằng có thể giật sập được bộ máy cầm quyền.
Khả năng quần chúng có nghe theo lời kêu
gọi hay không tùy thuộc vào uy tín của lực lượng đối kháng. Ở trong môi trường
dễ xuống đường thì lời kêu gọi của lực lượng đối kháng khó thuyết phục quần
chúng rằng nhà cầm quyền đang yếu thế. Tuy nhiên, môi trường như vậy sẽ dễ
khuyến khích lực lượng đối kháng xuống đường hơn vì ít nguy hiểm hơn. Ngược lại
ở trong môi trường càng khó xuống đường chừng nào thì lời kêu gọi của lực lượng
đối kháng càng có uy tín đối với quần chúng. Khả năng trừng trị của nhà cầm
quyền càng mạnh chừng nào thì sự kêu gọi của lực lượng đối kháng càng có uy tín
chừng ấy đối với quần chúng, vì quần chúng tin rằng đó là dấu hiệu cho thấy nhà
cầm quyền đã suy yếu rồi nên những nhà đối kháng mới dám ra mặt. Dấu hiệu “nhà
cầm quyền đã suy yếu” khuyến khích sự tham dự của quần chúng
Thông thường thì thành phần đối kháng với
nhà cầm quyền sẽ “trốn kín” cho đến khi họ thấy có cơ hội thành công mới
ra mặt đối kháng và kêu gọi quần chúng xuống đường làm một cuộc cách mạng đổi
mới. Đặc biệt là những người đối kháng nằm bên trong hệ thống cầm quyền, những
người một thời đã từng là công thần cao cấp của chế độ. Họ có rất nhiều thông
tin về sự rạn nứt bên trong và thấy rõ cái bệ rạc của hệ thống cầm quyền. Sự
đánh giá của họ về tình hình sẽ chính xác hơn là những người quan sát từ bên
ngoài. Theo đó, ước tính của họ về thời điểm hành động cũng đáng tin cậy hơn.
Vì thành phần đối kháng với nhà cầm quyền độc tài luôn bị đe dọa bởi hiểm họa ở
cấp độ cao nhất cho nên họ phải “trốn kín” là điều đương nhiên. Nhưng
một khi họ đã dám ra mặt chống đối nhà cầm quyền thì quần chúng có thể nhận ra
là thời cơ đã tới và rất có thể sẽ đáp ứng lời kêu gọi xuống đường làm một cuộc
cách mạng đổi mới đất nước.
Về phía quần chúng, họ tiếp cận thông tin
từ cả hai phía, phía nhà cầm quyền và phía đối kháng, rồi dùng thông tin đó để
ước đoán tình hình và làm quyết định. Thông tin từ phía đối kháng thì cố gắng
thuyết phục quần chúng đứng lên chống nhà cầm quyền còn phía nhà cầm quyền thì
làm ngược lại. Dưới một bộ máy cai trị độc tài, quần chúng ít được tiếp cận với
thông tin trung thực và càng khó tiếp cận với thông tin đối kháng. Do đó, kết
quả là đại đa số quần chúng sẽ có khuynh hướng thờ ơ.
Nếu như phía đối kháng có giỏi đưa thông
tin đến quần chúng, nếu như quần chúng có thể liên tục tiếp cận thông tin đối
kháng, và nếu như thông tin đối kháng thuyết phục được quần chúng rằng một cuộc
cách mạng đổi mới là cần thiết...thì quần chúng sẽ ấp ủ giấc mơ đổi mới và giữ
kín trong lòng chờ cơ hội. Nhưng quần chúng sẽ không hành động nếu như họ không
nhìn thấy khả năng thành công. Họ phải nhìn thấy dấu hiệu “nội bộ nhà cầm
quyền đang bị rạn nứt, rớt vào khủng hoảng, sắp bị sụp đổ.” Họ phải nhìn
thấy “chính quyền đã suy yếu.” Họ phải nhìn thấy “có một lực lượng
đối kháng có thực lực” đang đứng sau lưng quần chúng vận động lật đổ nhà
cầm quyền. Quần chúng có được những cái “thấy” như vậy thì mới hy vọng
họ chịu xuống đường, mới dám biến giấc mơ đổi mới đã ấp ủ và giữ kín trong lòng
thành hành động cụ thể.
Sự thật là: quần chúng không biết được sức
mạnh thực sự của nhà cầm quyền, vì thông tin này chỉ đến từ biến cố thật. Hay
nói một cách khác là, quần chúng chỉ thực sự biết nhà cầm quyền có sức mạnh tới
đâu sau khi đã có một cách mạng nổ ra. Sự thật là: nhà cầm quyền độc tài cũng
không biết được sức mạnh thực sự của quần chúng, vì thông tin chỉ đến từ biến
cố thật. Hay nói một cách khác là nhà cầm quyền thực sự biết quần chúng có đủ
sức mạnh để giải thể đổ chế độ độc tài hay không chỉ sau khi đã có một cách
mạng nổ ra. Biến cố thật là cái giá rất cao, cho cả hai phía, để có được thông
tin này. Vắng mặt “biến cố thật” để sự thật tự phơi bày thì chỉ còn lại “sự
thật theo cảm nhận” tác động lên cán cân chính trị. Cán cân nghiêng về phía
nhà cầm quyền độc tài hay nghiêng về phía lực lượng đối kháng sẽ tùy thuộc vào
sự cảm nhận của quần chúng. Do đó, tận dụng thông tin để gây ấn tượng “như
thật” là một cuộc chiến tiền biến cố. Muốn quần chúng xuống đường, phía đối
kháng phải thắng trận chiến thông tin tiền biến cố, phải tạo ấn tượng “như
thật.”
Một cuộc cách mạng chỉ có thể xảy ra khi có
đủ hai điều kiện: (1) quần chúng phải tin là cần phải có một cuộc cách
mạng đổi mới và đáng để tham gia và (2) phải có một lực lượng đối kháng
đứng ra điều hợp, thúc đẩy và hướng dẫn cuộc cách mạng. Không có niềm tin vào
một cuộc cách mạng đổi mới và không có một lực lượng đối kháng làm dung môi cho
một cuộc cách mạng thì quần chúng khó có thể tự phát thành biển người đối
kháng.
Những cuộc cách mạng mới đây được báo chí
nhận xét là những cuộc cách mạng tự phát và không có lãnh tụ. Cụm chữ “một
cuộc cách mạng tự phát” không đồng nghĩa với “không có một lực lượng đối
kháng làm dung môi cho cuộc cách mạng” và “cuộc cách mạng không lãnh tụ”
không đồng nghĩa với “không có một lực lượng đối kháng đứng trong bóng tối
hay đứng sau lưng quần chúng để vạch kế hoạch và điều hợp chương trình hành
động.” Điều này có nghĩa là, nói thế nào thì nói nhưng trên thực tế thì vai
trò của một lực lượng đối kháng trong tiến trình dẫn đến một cuộc cách mạng
khẳng định là không thể thiếu.
Nhìn vào tình hình của Việt Nam, người ta
có thể hiểu được tại sao đại đa số quần chúng tỏ vẽ thờ ơ trước thời cuộc. Dân
chúng Việt Nam không hèn nhát cũng không thiếu tinh thần trách nhiệm như một số
người đã nhận xét. Nó chỉ đúng với những gì quan sát được trên bề mặt. Nhà cầm
quyền độc tài “khoái” cách nhìn này vì họ muốn mọi người tin là như vậy
để tự từ bỏ hy vọng sẽ có một cuộc cách mạng đổi mới đất nước. Thật ra, sự thờ
ơ của quần chúng trong một đất nước đang nằm dưới sự khống chế của một bộ máy độc
tài toàn trị cho người ta thấy được hai vấn đề cực kỳ quan trọng, có thể nói đó
là hai điều kiện đang làm “đông lạnh” sức mạnh của quần chúng. Đó là (1)
đại đa số quần chúng chưa tiếp cận được hoặc chưa tiếp cận đủ thông tin từ phía
đối đối kháng, do đó, chưa cảm nhận được sự cần thiết của một cuộc cách mạng
đổi mới đất nước; hoặc/và (2) đại đa số quần chúng chưa thấy những dấu
hiệu và do đó chưa cảm nhận được khả năng thành công của một cuộc cách mạng.
Điều kiện thứ nhất tuy là đang làm đông
lạnh quần chúng nhưng, sau khi đã nhìn thấy, thì chính nó lại là một cơ hội lớn
để cho lực lượng đối kháng hoạch định một chiến sách khác tích cực hơn để “làm
tan đông lạnh” thúc đẩy một cuộc cách mạng đổi mới đất nước. Chiến sách đó
có thể là tạo điều kiện để quần chúng tiếp cận thông tin đối kháng một cách sâu
rộng hơn và liên tục bằng cách tích cực ĐẨY thông tin đến tay quần chúng thay
vì chờ quần chúng tự KÉO thông tin một cách nhỏ giọt từ những nguồn không được
tự do tiếp cận như tình trạng hiện tại.
Chỉ trông cậy vào những cơ quan truyền
thông để thực hiện chiến sách này thì chưa đủ. Muốn làm được công việc này cần
có sự sáng tạo, có phương án tốt và có sự tham gia đông đảo của cá nhân. Và cá
nhân không phải chỉ đơn thuần là tham gia truyền tải thông tin mà là tham gia
vào cuộc chiến thông tin để giải phóng đất nước khỏi ách độc tài toàn trị. Mỗi
một cá nhân đủ sức để biến một hạch nhân thành lực lượng lớn. Một que diêm
không cho đủ lửa nhưng hàng triệu que diêm có thể làm tan cả Bắc Băng Dương.
Phải thắng “cuộc chiến thông tin tiền biến cố” thì lực lượng đối kháng
mới có hy vọng động viên được quần chúng xuống đường làm một cuộc cách mạng đổi
mới đất nước.
Một chiến sách tích cực hơn cho một cuộc
chiến thông tin tiền biến cố thôi cũng chưa đủ. Cần phải có một lực lượng đối
kháng có thực lực. Không có một lực lượng đối kháng đủ thực lực đứng ra vận
động, quần chúng khó có thể cảm nhận được khả năng thành công của một cuộc cách
mạng. Hai học giả Jack A. Goldstone và John Hazel cũng đồng ý về điểm này. Hai
ông nói, trong bài viết Understanding the Revolutions of 2011, một cuộc cách
mạng có thể thành công cần phải hội đủ một số yếu tố. Thứ nhất, quần
chúng phải nhìn thấy chính quyền là một đại họa cho tương lai của đất nước. Thứ
hai, công thần cao cấp của chế độ, đặc biệt là trong quân đội, đang bất mãn
hoặc không còn muốn chống đỡ cho chế độ nữa. Thứ ba, một đám đông quần
chúng kết hợp diện rộng (tham dự của mọi giai tầng, mọi tôn giáo, mọi sắc tộc)
phải được “ai đó” động viên để xuống đường đối kháng với chính quyền.
Và, sau cùng là những quyền lực quốc tế sẽ không nhúng tay trợ giúp cho nhà cầm
quyền độc tài (nếu được họ đứng ra bênh vực quần chúng thì càng tốt).
Với hiện tình của đất nước, thành lập một
liên minh tôn giáo và một công đoàn lao động đại diện cho công nhân có lẽ là
con đường nhanh nhất để có được “ai đó” đứng ra vận động quần chúng. Một
liên minh tôn giáo và một công đoàn lao động cũng sẽ cho lợi thế và cơ hội
nhiều nhất trong vai trò là lực lượng đối kháng để quần chúng cảm nhận được khả
năng thành công của một cuộc cách mạng đấu tranh bất bạo động. Một công đoàn
lao động cần có sự tham gia của các luật sư và chuyên gia am tường về nhân sự
và luật lao động, đang làm việc trong quốc nội và tại hải ngoại, để hướng dẫn
công nhân đấu tranh. Một liên minh tôn giáo đã từng được hình thành trong quá
khứ đấu tranh của đất nước. Hình thành một liên minh tôn giáo cho nhu cầu khẩn
thiết của đất nước ngày hôm nay không phải là một khái niệm lạ và cũng không
phải là việc khó thực hiện.
Iris Vinh Hayes (Nguyễn Trung Chính)
No comments:
Post a Comment