11:01:am 24/04/12
Bài
viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước
đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết? Sở dĩ cần có sự sửa
chữa là vì tôi được đọc hai bài của giáo sư John C. Schafer, giáo sư đại học
Hubold State University. Một bài viết về Phạm Duy, một bài về Trịnh Công Sơn.
Trinh Cong Son Phenemenon và The curious memoirs of the Vietnamese composer
Pham Duy.(1)
(1) Xin vào Google kiếm tìm
(1) Xin vào Google kiếm tìm
Phải
nhìn nhận theo thói quen làm việc của người Mỹ, ông John C.Schafer tra cứu rất
nhiều tài liệu, dẫn chứng đầy đủ đến nơi đến chốn. Có những tài liệu dẫn chứng
khiến tôi giật mình. Chẳng hạn ông dẫn chứng một tài liệu trong tờ Nghệ Thuật,
số 38-39, tháng 3, 1995, một tờ báo ở ngay chính địa phương tôi ở mà tôi vô
tình không để ý tới. Thứ hai, ông tránh được thiên khiến và ít đưa ra những phê
phán tiêu cực.
Nhưng
cũng vì thế, ông tránh đề cập đến những “liên hệ có thể” của Trịnh Công Sơn với
phía cộng sản qua bạn bè của họ Trịnh như Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng như việc
TCS hát trên đài phát thanh Sai gon vào ngày 30 tháng 4. Những mối liên hệ này
đã được ông Nguyễn Thanh Ty trong bài viết: ” Một quãng đời của TCS” trong đó
có phần lật tẩy “Nguyễn Đắc Xuân” trong bài viết : “Trịnh Công Sơn Cao Nguyên
bụi đỏ sương mù”. Trong tài liệu của ông Nguyễn Thanh Ty cho hay ngay trong
giới đồng nghiệp của Trịnh Công Sơn ở Bảo Lộc đã chia rẽ ra hai phía rõ rệt. Kẻ
lên án, kẻ không. Ông John.C Schafer cũng đọc tài liệu này, nhưng không nhắc
nhở tới dư luận, tới những vấn đề tranh luận chung quanh TCS. Nhất là những
tranh luận ngay sau khi TCS chết như với bài viết mở đầu cho những tranh luận:
Bi kịch Trịnh Công Sơn của họa sĩ Trịnh Cung. Đó là những vấn đề nhậy cảm mà
ông John. C. Schafer tránh đề cập tới.
Nhưng
trong hoàn cảnh VN- một hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt trước cái sống chết
trong gang tấc- Không thể nào mà không có chọn lựa chính trị. Đó là một chọn
lựa cho mỗi người VN. Cho nên những bài hát của họ Trịnh hay Phạm Duy- dù là
mang đậm nét nghệ thuật- dù là tính nhân bản hay triết học cao- cũng xuất phát
từ những hoàn cảnh chiến tranh VN. Chẳng hạn khi nói về những xác chết, về
những bom đạn, về sự tàn phá man rợ của chiến tranh thì vẫn là chiến tranh nào?
Xác chết ấy do đâu mà đến?
Mỗi
xác chết, dù là đàn ông, đàn bà, trẻ con- dù chết ở đồng ruộng hay chết bờ chết
bụi thì cũng có một danh tính, một lý lịch. Và kẻ cầm súng nào thì cũng có một
sắc phục, một mầu cờ ..Không có cái chết chung chung, chết tình cờ, nhưng không
!! Vấn đề là con ngươi đứng ở góc độ nào để nhìn những xác chết ấy.
Bài
viết về Phạm Duy của ông John. C. Schafer chủ yếu dựa trên Hồi ký của Phạm Duy
mà ông dùng làm tựa đề: The curious memoirs of the Vietnamese composer Pham Duy
(Tất cả những bài viết trên đây, mọi người có thể tìm thấy dễ dàng khi bấm vào
Google.com sẽ tìm đọc được, nhưng nhiều bài chỉ có trích đoạn) . Vì thế phần
không nhỏ của bài viết đưa ra thật đầy đủ chi tiết về những mối tình lớn nhỏ
của ông Phạm Duy. Tuy nhiên, giá ông dựa thêm vào cuốn Ngàn lời ca thì sẽ làm
rõ hơn trong trường hợp nào, Phạm Duy đã sáng tác được bài nọ, bài kia.
Tuy
nhiên vì tránh những mặt tiêu cực trong viêc sàng tác của Phạm Duy, ông J.C.
Schafer không triển khai đủ sự vay mượn, sự thay đổi ca từ, sự bắt chước, sự
theo thời của một thứ chủ nghĩa cơ hội của Phạm Duy.v.v.
Vì
thế, sự chọn lựa thái độ viết một cách bàng quan của giáo sư John. C. Schafer
vẫn là sự chọn lựa của một người ngoại cuộc, đứng ngoài nhìn vào. Mặc dù ông đà
nhiều năm sống ở Việt Nam, lấy vợ VN, rất am tường văn hóa VN, yêu mến VN nữa.
Ông phân tích và hiểu sâu sắc việc xử dung ngôn từ một cách diệu ảo của TCS
trong các bài nhạc. Nhưng có thể ông chỉ nhìn những nhạc sĩ này như những nghệ
nhân thuần túy bất kể đến hoàn cảnh sáng tác của họ. Đó là họ đang sống, đang
sáng tác từ một hoàn cảnh chiến tranh. Chính hoàn cảnh chiến tranh đã khơi
nguồn cho những sáng tác của họ. Bài viết của ông J.C Schafer vì thế thiếu một
sự quân bình cần thiết về công việc sáng tác và hoàn cảnh sáng tác.
Bài
viết của tôi chủ yếu chỉ viết về Phạm Duy và tôi muốn nhấn mạnh tới tiến trình
sáng tác một bản nhạc của ông trong bối cảnh hai cuộc chiến tranh ấy.
Nói
về “cái chết” của Phạm Duy, tôi chỉ lặp lại điều mà Nguyễn Trọng Văn dùng trong
bài nói truyện tại trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn vào ngày 6-6-1971, do phong
trào Tự Trị Đại Học tổ chức. Đề tài với nhan đề: Phạm Duy đã chết như thế nào?
Bài
nói truyện của Nguyễn Trọng Văn nói về cái chết của Phạm Duy nhấn mạnh tới góc
cạnh tha hóa chính trị của Phạm Duy mà NTV coi là sự phản bội lý tưởng và một
cách lôgich Phạm Duy bị coi như đã chết- một thứ tự sát- mặc dầu ông vẫn sống
.. Phần bài viết này phản biện lại bài viết của Nguyễn Trọng Văn ..Phạm Duy không chết ở phạm vi chính trị,
nhưng nếu PD có chết thì cái chết ấy ở phạm vi đức lý giữa tài năng và nhân
cách của nhạc sĩ PD. Tài năng lớn phải đi đôi với một nhân cách lớn tương xứng.
Bài
nói chuyện của NTV thời ấy hẳn gây được tiếng vang trong giới văn học miền Nam
lúc bấy giờ. Bởi vì ít nhạc sĩ nào có thể so bì được với Phạm Duy.
Cùng
lắm trừ một người. Trong cuốn Về một quãng đời của TCS (tác giả Nguyễn Thanh Ty
gửi cho tôi ở dạng bản thảo lúc chưa in thành sách, sau này tác giả tự xuất bản
vào năm 2004) có kể rằng, khi cùng ở Blao, TCS có kể về Sài Gòn bán bản quyền
bài hát ” Chiều một mình qua phố” cho Duy Khánh với giá bán đứt bản quyền là
3000 đồng. TCS kỳ kèo thì được Duy Khánh trả lời: “Phạm Duy là đắt nhất mà cũng
chỉ tới 5000 đồng là cùng, ông là nhạc sĩ mới, gíá vậy là cao lắm rồi”(2)
(2)Trích Về một quãng đời của Trịnh Công Sơn, Nguyễn Thanh Ty, bản thảo.
(2)Trích Về một quãng đời của Trịnh Công Sơn, Nguyễn Thanh Ty, bản thảo.
Cho
nên chọn Phạm Duy mà không chọn ai khác là một chọn lựa chính trị có chủ đích
của Nguyễn Trọng Văn. Cứ bề ngoài thì Phạm Duy là một người đã bỏ hàng ngũ
kháng chiến nay là một người quốc gia “Chống Cộng”. Đánh đúng vào cái thành trì
tiêu biểu là giới trí thức thành thị miền Nam, đánh vào người nghệ sĩ nổi tiếng
nhất và được quần chúng ưa chuộng nhất lúc bấy giờ. Đồng thời tước đi cái ảo
tưởng của một ý thức hệ Quốc Gia trong chiến tranh sắp đến hồi chung cuộc.
1. Theo Nguyễn
Trọng Văn, Phạm Duy đã chết vì phản bội lại kháng chiến?
* Phạm Duy chối bỏ
kháng chiến
Nguyễn
Trọng Văn đã nghĩ như thế. Đã viết để chứng minh điều ấy. Nguyễn Trọng Văn cho
rằng đã có rất nhiều thanh niên đã theo kháng chiến và sau đó đã dời bỏ kháng
chiến. Nhưng việc dời bỏ kháng chiến của Phạm Duy là khác. NTV viết: “Trí thức
theo Cách Mạng và bỏ cách mạng không phải là điều khó hiểu, trách Phạm Duy như
vậy có lẽ quá khắt khe.
Điều
mà Nguyễn Trọng Văn lên án Phạm Duy không phải ở chỗ từ bỏ kháng chiến mà chối
bỏ và hơn thế xóa bỏ kháng chiến. Xóa bỏ bằng cách thay đổi lời ca trong các
bài nhạc làm trong thời kỳ kháng chiến.(3)
(3)
Trích: Nguyễn Trọng Văn, Phạm Duy đã chết như thế nào, nxb Văn Mới, trích tóm
tắt các trang 33-34
Phải
chăng Phạm Duy đã sửa toàn bộ các lời ca có dính dáng đến kháng chiến? Không
hẳn như thế. Nguyễn Trọng Văn đã tổng quát hóa đến mức vu vạ cho Phạm Duy. Ông
chỉ thay đổi một số từ liên quan xa gần đến thời kháng chiến như tên Hồ Chí
Minh, Vệ Quốc quân vv.. và để cho thuận nghe, ông bắt buộc phải đổi cả câu
Và
Nguyễn Trọng Văn kết luận:
Phạm
Duy kháng chiến ca của dân tộc đã chết. Điều bi đát không phải bông hoa Phạm
Duy chỉ nở một lần, điều bi đát là bông hoa đó đã tự chọn cái chết như vậy.
“Khi Phạm Duy trở về, da mặt ông sần sượng hơn và dày thêm hai ly, máu ông đen lại, tim ông trở thành đá, đàn đứt hết dây, tiếng nói ú ớ tắc nghẹn.. (..) Chính Phạm Duy đã dứt dây đàn khi từ Mỹ về, chính Phạm Duy đã tự cứa cổ và nhét một quả táo thật lớn đầy mồm..(..)n Tình tự dân tộc, hùng khí kháng chiến rung động quê hương thân yêu không còn nữa, chúng ta đứng trước một người xa lạ. Có một khoảng cách thật lớn chia cắt Phạm Duy với mọi người “.(4)
(4)Trich Nguyễn Trọng Văn, Ibid , trang 39-41
“Khi Phạm Duy trở về, da mặt ông sần sượng hơn và dày thêm hai ly, máu ông đen lại, tim ông trở thành đá, đàn đứt hết dây, tiếng nói ú ớ tắc nghẹn.. (..) Chính Phạm Duy đã dứt dây đàn khi từ Mỹ về, chính Phạm Duy đã tự cứa cổ và nhét một quả táo thật lớn đầy mồm..(..)n Tình tự dân tộc, hùng khí kháng chiến rung động quê hương thân yêu không còn nữa, chúng ta đứng trước một người xa lạ. Có một khoảng cách thật lớn chia cắt Phạm Duy với mọi người “.(4)
(4)Trich Nguyễn Trọng Văn, Ibid , trang 39-41
Nguyễn
Trọng Văn đã dùng cả một cuốn sách để mạt sát Phạm Duy. Nhưng về một số điểm,
có thể Nguyễn Trọng Văn nói không sai, Phạm Duy không những sửa một lần mà sửa
hai ba lần những bài ca của ông. Và tùy thời, tùy lúc mà ông đã sửa. Điều đó
nhiều lúc làm tôi không thể không liên tưởng đến một thái độ xu thời hay một
thứ chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa thực dụng với một nhạy bén chính trị. Sự nhạy
bén chính trị đó đáp ứng bằng những sáng tác hợp thời cơ? Từ đó đặt ra vấn đề sáng
tác là nguồn cảm hứng đích thực hay chỉ là một nhu cẫu đòi hỏi cấp thời của một
tình thế?
Tại
sao ở thời điểm đó có kháng chiến ca, tình ca, đạo ca, tâm ca, tục ca? Đó cũng
là những suy nghĩ và ngờ vực của tôi khi tìm hiểu về Phạm Duy? Tâm ca của ông có
thực sự do những rung động chân thành khổng? Đặng Tiến cũng đặt những câu hỏi
nghi ngờ như thế.
Và
người ta đã chẳng ngại ngùng gì nói đến một thứ trí thức for rent. Hơn ai hết
Phạm Duy hiểu thâm ý của lời mỉa mai này.
Chẳng
hạn Nguyễn Trọng Văn đưa trường hợp bản nhạc Quê Nghèo trước đây ca ngợi tình
quân dân đoàn kết chiến đấu nay trở thành câu chuyện tình bông lơn, tán tỉnh
nhau.
Lời
cũ: Bao giờ anh lấy được đồn Tây hỡi anh
Để em gánh nước cho người chiến binh
Để em gánh nước cho người chiến binh
Nay
đổi ra:
Bao
giờ em trỏ lại vườn dâu hỡi em
Để cho anh bắc gỗ xây nhịp cầu bước sang
Để cho anh bắc gỗ xây nhịp cầu bước sang
Đến
Vườn dâu mà cũng phải bắc gỗ xây nhịp cầu thì kể cũng lạ. Có ép ý, ép lời
không?
Trong
Bài hát Tiếng sông Lô, cũng cùng một cách thay đổi như trên:
Lời
cũ: Quân cướp tham ô ngày nao đã chết không ngờ
Nay
đổi ra: Trăng nước mông mênh, thuyền trôi trên sóng đa tình
-
Và nhất là bài Bà Mẹ Gio Linh đã được sửa đổi một cách không nuối tiếc với ba
lần in và sửa khác nhau:
Lời
cũ: Nhà thì Tây đốt còn đâu
Ta vui câu chuyện Bác Hồ
Mẹ mừng con giết nhiêu Tây
Ra công xới vun cấy cầy (..)
Ta vui câu chuyện Bác Hồ
Mẹ mừng con giết nhiêu Tây
Ra công xới vun cấy cầy (..)
Lời
mới: tuyển tập xuất bản tại Việt Nam
Nhà
thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen nầy
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công xới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi trắng bết mầu cờ
Lời mới, tuyển tập Dân ca, Mỹ in và phát hành tại Mỹ
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công xới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi thắm bết máu nhòa
Khuyên nhau báo thù phen nầy
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công xới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi trắng bết mầu cờ
Lời mới, tuyển tập Dân ca, Mỹ in và phát hành tại Mỹ
Nhà thì nó đốt còn đây
Khuyên nhau báo thù phen này
Mẹ mừng con đánh giặc hay
Ra công xới vun cấy cầy
Ta yêu con ta, môi thắm bết máu nhòa
Từ
đánh giặc Tây trong quân đội Bác Hồ. Chữ nó được sửa lại thì nó là ai đây? Nó
đây bây giờ phải được hiểu là Việt công- quân đội cụ Hồ -.
Nguyễn
Trọng Văn cũng đã hết lời ca ngợi tiếng Sông Lô nói lên tất cả cái khí thế hào
hùng, mưu trí và óc sáng tạo tuyệt vời của nhân dân Việt Nam chống thực dân
Pháp, nay trở thành lời tâm sự của nghệ sĩ đa tình tìm kiếm hạnh phúc trên dòng
sông sâu.
Nguyễn Trọng Văn thất vọng là phải.
Nguyễn Trọng Văn thất vọng là phải.
Lời
cũ: Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
Thuyền tôi đợi bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ anh (….)
Thuyền tôi đợi bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ anh (….)
Lời
mới:
Hỡi
ai đi kiếm hạnh phúc trên đời
Mà chưa tìm thấy an vui
Lặng nghe tôi gửi đôi lời gió trăng …
Mà chưa tìm thấy an vui
Lặng nghe tôi gửi đôi lời gió trăng …
Nguyễn
Trọng Văn kết luận:
“Các
sáng tác trong thời kháng chiến đều được Phạm Duy sửa lại lời, mất hết lịch sử
tính và chiến đấu tinh, chỉ còn là những bản của những tên lại cái, đồng cô
bóng cậu”
.(5)
(5) Trích NTV, Ibid, trang 34
(5) Trích NTV, Ibid, trang 34
Nhưng
nếu NTV biết rằng sau này ở hải ngoại, tôi lại tìm thấy trong Ngàn lời ca, Phạm
Duy lại một lần nữa thay đổi bằng cách giữ lại nguyên văn lời cũ như sau:
Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
Hỡi anh vệ quốc cầm súng ngang tàng
Thuyền
tôi đậu bến Tuyên Quang
Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ (6)
(6) Trích Phạm Duy, Ngàn lời ca, trang 35.
Nửa đêm trông ánh trăng vàng ( tôi ) nhớ (6)
(6) Trích Phạm Duy, Ngàn lời ca, trang 35.
Sự thay đổi rõ ràng
như thế đặt ra vấn đề nhân cách và nhân tài của người nhạc sĩ. Khi hồi cư về
thành, Phạm Duy có thể cứ giữ nguyên ca từ hồi kháng chiến. Và sẽ không có ai
có lời trách cứ ông. Nhưng khi có ý định về VN, ông cứ lẳng lặng về. Về mà đổi
ca từ để đẹp lòng Hà Nôi và tuyên bố vung vít “chửi” cộng đồng hải ngoại là
không chấp nhận được. Xóa bỏ, thay lại lời khác, rồi lúc cần lại lại lấy lại
lời cũ: Anh Vệ Quốc quân.
Đã
mấy ai có thể làm được như Phạm Duy? Nguyễn Trọng Văn không phải là không có lý
khi mạt sát Phạm Duy khi ví ông như một thứ điếm sang.
Nhắc
lại trong phần đầu cuốn Hồi ký của ông viết vê ông bố: nhà văn Phạm Duy Tốn để
thấy nhân cách bố và con khác nhau lắm. Ông nhăc lại những lời nhận xét và khen
tặng của Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Văn Cổn, Vũ Bằng và Thanh Lãng
đã viết những lời trân trọng về ông Phạm Duy Tốn. Ông cũng nhắc đến những người
bạn tâm giao của ông Phạm Duy Tốn mà nhân cách của họ không thể chối cãi được
như Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Văn Vĩnh, Đỗ Mục thì ông Phạm Duy quả là
người con bất xứng.
Cũng
khó trách ông lắm, mồ côi cha từ sớm, ông là một đứa trẻ tinh nghịch, hoang
tàn, phá phách, “quậy” rất sớm.
Nhưng
cũng nên hiểu rằng vào năm 1971, khi Nguyễn Trọng Văn viết cuốn Phạm Duy đã
chết như thế nào thì lúc đó Phạm Duy chưa viết hồi ký. Nếu Nguyễn Trọng Văn có
dịp đọc hồi ký rồi thì cũng có thể có cái nhìn khác về Phạm Duy.
Và
có thể vì có cơ hội đọc lại Hồi ký Phạm Duy mà tôi thấy cần phải nhìn lại quan
điểm phê phán của Nguyễn Trọng Văn.
Trong
hồi ký 1, ông Phạm Duy viết như thế này về hoàn cảnh sáng tác về chiến dịch
sông Lô. “Nhưng trong đám nhạc sĩ chúng tôi, lập tức có ngay những tuyệt phẩm
như bài Lô Giang của Lương Ngọc Trác, rồi Trường ca Sông Lô của Văn Cao, Du
kích sông Lô của Đỗ Nhuận và Tiếng Hát sông Lô của Phạm Duy. Điều đó cho thấy
việc sáng tác nằm sẵn trong chiến dịch tuyên truyền nên mới có trường hợp bốn
nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài.
Bốn
nhạc sĩ cùng sáng tác về một đề tài như một thứ đơn đặt hàng thì có phí phạm
không?
Phạm
Duy viết tiếp. “Nói về cả một chiến dịch thì chẳng nhừng thắng lợi sông Lô
chỉ là những chiến công cục bộ, bởi vì vào lúc khởi đầu của chiến dịch Léa,
gọng kìm lớn ở miền Đông là Bắc Kạn và Lạng Sơn vẫn còn rất mạnh… Những người
phục vụ cho Cục chính trị như chúng tôi được khuyến khích để làm cho chiến
thắng Sông Lô trở thành một chiến công vô cùng rực rỡ. Bây giờ nếu có ai tò mò
– như tôi – đi tìm đọc những tài liệu của Pháp viết về chiến tranh Đông Dương,
sẽ chẳng thấy một dòng chữ nào cho cái được gọi là Lô Giang của Lương Ngọc tức
Lương Ngọc Trác. Bài này duyên dáng, mặn mà vô cùng”.(7)
(7)
Trích Phạm Duy, Hồi ký 1, thời Cách mạng kháng chiến
Hóa
ra đó chỉ là sản phẩm tuyên truyền, mà giá trị nghệ thuật chỉ là phụ, không
đáng kể. Mặc dầu vậy đó là những bài hát quen thuộc và nổi tiếng của ông trong
thời kỳ kháng chiến.
Cho
nên, không lạ gì khi cần, PD đã không nề hà thay đổi tùy tiện tùy theo nhu cầu
thực tiễn. Điều đó không khác gì Tố Hữu làm thơ ca ngợi chiến trận Điện Biên.
Trong một bài trả lời phỏng vấn của Trần Đăng Khoa, Tố Hữu đã nói huỵch tẹt ra
là ông đã viết phịa, không hề ra mặt trận.
Phạm
Duy có thể viết phịa, sáng tác phịa về trận đánh trên Sông Lô. Tố Hữu cũng đã
làm thơ phịa.
Đã gọi là sáng tác phịa thì việc thay dổi lời ca còn có gì được gọi là phản
bội? Phải chăng Nguyễn Trọng Văn đã quá lý tưởng hóa những ý hướng sáng tác
thuần túy nghệ thuật của Phạm Duy và cũng vì thế lời kết án có thêm trọng
lượng.
Thật ra theo tôi hiểu, Nguyễn Trọng Văn đã không biết được trong hoàn cảnh nào mà Phạm Duy đã sáng tác bản nhạc Tiếng hát Sông Lô, cho nên những suy đoán của Nguyễn Trọng Văn vì thế thiếu cơ sở. PD mới 13 tuổi đầu đã bỏ học, đi lang thang. Đến 25 tuổi mới gặp kháng chiến một cách tình cờ lịch sử. Chẳng có chỗ nào cho thấy người nghệ sĩ ấy quyết định chọn lựa đi theo kháng chiến cả.
Cho
nên Phạm Duy không theo Kháng chiến theo nghĩa chọn lựa mà cũng không bỏ kháng
chiến theo nghĩa phản bội. Không chọn lựa làm sao có phản bội?
** Phạm Duy không
phản bội kháng chiến, chỉ có vấn đề ông nhìn lại
Nguyễn
Trọng Văn đã tự chọn cho mình một góc đứng nào đó để phê phán Phạm Duy.
Và
đã có chỗ kết luận: “Hiện nay, Phạm Duy có thể là người nghệ sĩ có tài,
nhưng không phải là đứa con yêu của dân tộc, ông là đứa con hoang”.(..) Nhạc sĩ
Phạm Duy của những kháng chiến ca của dân tộc đã chế(..) Ông đã quay lưng trở
lại với dân tộc, với chúng ta, ông đã ra đi, ông đã chết “..(08)
(08) Trích NTV, Ibid, trang 45
(08) Trích NTV, Ibid, trang 45
Nhưng
nặng hơn nữa, NTV viết:
“Thân
phận Phạm Duy guống thân phận một gái điếm, một thứ điếm lành nghề, khéo chiều,
dẹp, có tài thỏa mãn bất cứ ai; ăn nằm với ai cũng rung động nhiệt thành, nhưng
vì là điếm nên thuộc về mọi người, người tốt, người xấu, người Việt, người nước
ngoài, không thuộc hẳn về ai “ .(09)
(09) Trích Nguyễn Trọng Văn, Ibid, trang 130
(09) Trích Nguyễn Trọng Văn, Ibid, trang 130
Cho
nên, dưới mắt NTV, dinh tê đã là một phản bội mà đáng nhẽ phải gọi đúng tên là
bọn Việt gian. Nhưng hơn là một phản bội, vì đã sửa lại lời ca trong các bài
hát của chính mình. Nhưng người ta vẫn có thể đặt ngược lại là: ai phản bội ai? Nếu hành vi bỏ không
theo kháng chiến là một phản bội thì thái độ ly khai với kháng chiến có thể
được hiểu là thái độ tố cáo sự bội phản của kháng chiến không? Nghĩa là chính
kháng chiến Việt Minh là một phản bộ. Và vì thế đã có một số không ít những
thanh niên đã đi theo kháng chiến, đã thất vọng và đã dinh tê.
Dinh
tê có thể gián tiếp tố cáo một sự bội phản đối với những người đã chót đi theo
kháng chiến, vì đã bị lừa.
Trong
giới văn nghệ sĩ ở Sàigòn, đã có nhiều người cũng đã từng đi theo kháng chiến
và đã bỏ kháng chiến. Võ Phiến ở Bình Định cũng bỏ kháng chiến về với phía Quốc
Gia, Bình Nguyên Lộc trong Nam cũng vậy. Rồi cũng trong Nam có Lê Thương đã
sáng tác những bản nhạc như Bà Tư bán hàng có bốn người con. Hòa Bình 48, Đốt
hay không Đốt, Trần Văn Trạch với Cái đồng hồ, Chuyến xe lửa mùng năm và Nguyễn
Đức Quỳnh với Người Việt đáng yêu. Và tên Hoàng Trọng Miên với vở kịch Dưới
Bóng Thánh Giá. Đoàn Văn Cừu thì sau nắm đài phát thanh Sài Gòn.
Và
Có ai nghĩ rằng, theo Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ từng làm việc ở tòa báo Cứu Quốc
và điều khiển một ban Văn nghệ lưu dộng. Cũng không ai nhắc tới Mai Thảo, Tạ
Tỵ. Có ai nghĩ rằng Minh Đức Hoài Trinh, thời con gái, mê theo tiếng gọi cụ Hồ
vào Thanh Hóa, gặp tướng Nguyễn Sơn, rồi cũng ra Phát Diệm, bị cha mẹ bắt về để
lấy Phan Văn Giáo.
Chưa
kể những gương mặt chính trị trổi bật thời Đệ nhất Cộng Hòa đã từng đi theo
kháng chiến như quý ông luật sư Trần Chánh Thành (bộ trưởng thông tin thời TT
Ngô đình Diệm), Lê Khải Trạch, Đinh Sinh Pài, người đã từng họat động với tướng
Nguyễn Sơn và Đặng Thái Mai trong khu 4. Hoàng Văn Chí cũng từ khu bốn ra, tác
giả cuốn sách nổi tiếng Trăm hoa đua nở
trên đất Bắc. Cuốn sách cho thấy chính thể Hà nội đàn áp và trù dập giới
văn nghệ sĩ như thế nào.
Với
sự dẫn chứng một số những nhân vật tên tuổi đã từng tham gia và họat động cho
kháng chiến, trở về cộng tác với chính quyền Quốc Gia, tôi nghĩ rằng, việc gán
cho Phạm Duy phản bội kháng chiến của Nguyễn Trọng Văn khó có cơ đứng vững
được. Tại sao chỉ có mình Phạm Duy là người phản bội còn những Trần Chánh
Thành, Võ Phiến, Hoàng Thi Thơ thì không?
Vì
thế, họa sĩ Tạ Tỵ đã phản biện lại như sau:
“Trong những năm kháng chiến, Duy đã đóng góp hơi thở và âm nhạc cho chính nghĩa lúc ấy. Nay sự dấn thân của Duy vào kích thước quân đội và sinh hoạt dân chính miền Nam cũng cũng mang một ý nghĩa tương tự “(10)
(10) Trích: Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Tạ Ty, trang 129
“Trong những năm kháng chiến, Duy đã đóng góp hơi thở và âm nhạc cho chính nghĩa lúc ấy. Nay sự dấn thân của Duy vào kích thước quân đội và sinh hoạt dân chính miền Nam cũng cũng mang một ý nghĩa tương tự “(10)
(10) Trích: Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Tạ Ty, trang 129
Để
biện hộ thêm cho Phạm Duy, Tạ Tỵ cũng đã trích dẫn thêm ý kiến của Thế Uyên như
sau: “Nhiều khi tôi thấy có những người trẻ quá bất công với anh. Đòi hỏi
thế này thế kia. Tôi thường không đồng ý với một thái độ như vậy. Nhạc Phạm Duy
cất lên hơn 20 năm rồi, đã đóng góp vào các công trình lớn của dân tộc và hiên
diện,. trong các khổ đau của Việt Nam với tư cách là người chứng trong cuộc,
người chứng tham dự. Anh phải mệt mỏi và có quyền mệt mỏi, không ai có thể làm
anh hùng cả đời được”(11)
(11)
Trích: Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Tạ Ty, Ibid..
Khi cuốn sách của
Nguyễn Trọng Văn ra đời thì nhiều người đã nhìn thấy cái đuôi cộng sản ngoe
nguẩy đằng sau cuốn sách ấy. Cách biện luận lộ liễu của NTV như một cán bộ cộng sản
thứ thiệt. Cách nhìn một chiều, méo mó, thiên lệch không chối cãi được. Dám NTV
đã được chỉ định để viết như thế!! Vì thế sự kết án Phạm Duy của Nguyễn Trọng
Văn mất đi nhiều tính khả tín.
Bên
cạnh Tạ Tỵ, còn có Cao Thanh Tùng mà ý kiến được coi là dung hòa hơn. Mặc dầu
Cao Thanh Tùng không đồng ý việc phân chia một Phạm Duy nghệ sĩ và một Phạm Duy
chính trị như nhiều người quan niệm để biện hộ cho Phạm Duy. Ngoài việc Cao
Thanh Tùng cũng đồng ý với Thế Uyên như trên. Cao Thanh Tùng trích dẫn một nhạc
sĩ Gia Nã Đại Georges E. Gauthier với bài viết: Phạm Duy, một nghệ thuật khúc
diện, Thu Thủy dịch, tạp chí Bách Khoa số 347.
“Tôi
cần phải nói rằng, nếu tôi không thể tưởng tượng nổi một Phạm Duy mà không có
VN thì tôi cũng không thể nào tưởng tượng ra một VN mà không có Phạm Duy”. Ông
nhạc sĩ Gia Nã Đại viết tiếp;” Chúng ta cần phải tha thứ rất nhiều cho Phạm
Duy bởi vì con người đã cống hiến rất nhiều. Nghệ thuật của Phạm Duy là một
cống hiến của con tim. Các hành động của nghệ sĩ trong cuộc đời trần thế thuộc
về họ và chỉ là những hành động nhất thời. Chỉ có tác phẩm là vĩnh cửu”. (12)
(12) Trích Cao Thanh Tùng trich lại trong bài, Phạm Duy… bất tử, các trang 8-12, tạp chí Trình Bày, số 23, 3-7-1971
(12) Trích Cao Thanh Tùng trich lại trong bài, Phạm Duy… bất tử, các trang 8-12, tạp chí Trình Bày, số 23, 3-7-1971
Cuốn
sách của NTV như thể một một vụ ném lựu đạn, nhưng đã bị trung hòa và loãng đi
nhiều khi có một số ý kiến phản biện như trên.
Nhận xét thực tế
Một
số thực tế sau đây càng cho thấy, sau khi chiến tranh Việt- Pháp bùng nổ, có
đến hằng triệu người phải sơ tán theo chính sách *tiêu khổ kháng chiến* với
cảnh vườn không nhà trống. Nhất là kể từ Thanh Hóa trở vào phía Nam, nhiều vùng
chỉ còn là đổ nát và hoang tàn. Và cũng hàng triệu những dân chúng các vùng ấy
đã *hồi cư*.
Chuyện đó được coi là bình thường trong chiến tranh. Chỗ nào có bom đạn chết chóc thì tránh, chỗ nào an toàn thì tìm về.
Chuyện đó được coi là bình thường trong chiến tranh. Chỗ nào có bom đạn chết chóc thì tránh, chỗ nào an toàn thì tìm về.
Vì
thế có rất nhiều dân chúng, trí thức, thành phần đảng phải, chính trị gia đã sơ
tán về vùng trái đệm Phát Diệm, còn gọi là an toàn khu. Có rất nhiều người đã
dời bỏ kháng chiến hoặc chạy trốn Pháp về đây. Có tất cả khỏang 60 ngàn người
đủ thành phần đã tụ tập về Phát Diệm.
60
ngàn người tụ hội về đây đều là để chờ thời, để nghe ngóng tình hình và nhất là
chờ cơ hội * Dinh Tê*. Dinh tê, danh từ lần đầu tiên được xử dụng từ chữ
rentrer. Chữ dinh tê là để chỉ việc bỏ khu vực kháng chiến để về Hànội. Phạm
Duy cùng lắm cũng nằm trong số những người này.
Họ
từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ra, tức là bỏ khu tư, bỏ kháng chiến? Và cũng là
trường hợp của Phạm Duy.
Nhưng
phần đông họ từ Hà nội, từ Chợ Đại, Cống Thần ở Hà Đông vào (có thể là đi
buôn), hoặc từ Hải Phòng đến bằng đường biển qua cửa Cồn Thoi, cửa ngõ vào Phát
Diệm. Hoặc từ Nam Định Bùi Chu, qua ngã đường sông như Yên Mô- Nho Quan hoặc
Cầu Lim- Gia Viễn.
Đó
là những người chạy trốn Pháp.
Phát
Diệm trở thành vùng an toàn phi chiến- ít ra người ta có cảm tưởng như thế-
vùng trái đệm giữa vùng tề và kháng chiến, giáp ranh với liên khu 4 gồm Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh trải dài xuống tận khu Bình Trị Thiên Nam Ngãi.
Để
chứng tỏ Phát Diệm là nơi tạm trú cho những người trốn chạy cả hai phía Tổng bộ
( danh xưng gọi tổ chức của ĐC Lê Hữu Từ ) đà bắt được một mật lệnh, ngày
9-7-1947 của Việt Minh có câu:”dù có mất cả một đại đội cũng không được đụng
đến Phát Diệm” .
Đó
là về phía Việt Minh đối với Phát Diệm.
Việt
Minh có hai cái lợi để không đụng độ trực tiếp với Phát Diệm.
Thứ
nhất, vì Phát Diệm là hậu cần cung cấp tất cả thuốc tây, dụng cụ, máy móc, đá
lửa, xăng dầu và đôi khi ngay cả súng ống từ bên Tầu. Đó là nguồn cung cấp sống
còn cho khu 4 của kháng chiến. Đường buôn lậu đi từ Hải Phòng, dùng thuyền buồm
xuôi Phát Diệm, đến cửa Cồn Thoi, rồi từ đó xuôi Thanh Hóa, vào khu tư.
Thứ
hai, về mặt quân sự, Phát Diệm như cái hàng rào che chắn để bảo vệ an toàn khu
tư trở vào. Chừng nào Phát Diệm còn có hai cái lợi thế ấy, Phát Diệm vẫn là một
an toàn khu.
Mặc
dầu giải pháp double jeu đi đến thất bại, nhưng có một điều không thể phủ nhận
được là Phát Diệm là nơi trú ẩn an toàn cho những người kháng chiến cũ, cho trí
thức và nhất là cho người của đảng phái. Không có Phát Diệm, nhiều nhân vật đã
có thể bị giam cầm, thủ tiêu và biến mất trên chốn dân gian này rồi? Làm gì còn
những Ngô Đình Nhu, Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương, Bùi Diễm, Trần Văn
Chương, Nguyễn Tường Tam, Hoàng Bá Vỉnh. Và giả dụ họ bị Việt Minh thủ tiêu.
Chính trường miền Nam đã hẳn là khác?
Lý do Phạm Duy
“dinh tê”
Phần
Phạm Duy khi dinh tê cũng có nước mắt nhớ tiếc dĩ vãng và cũng có giọt nước mắt
vui mừng vì nhìn thấy cái cái đồn bót phía Quốc Gia. Vui mừng vì biết rằng nay
mình được giải thoát.
Nếu
những người này sau đó dinh tê về Hà Nội, ta sẽ gọi họ là ai? Họ có khác gì với
Phạm Duy không? Thật không dễ để xếp loại họ.
Không
lẽ chỉ vì đổi vài lời ca mà trở thành kẻ bội phản?
Đọc
hồi ký do chính Phạm Duy viết, không có chỗ nào là bằng cớ cho thấy ông gắn bó
hay có ý gia nhập đảng Cộng sản. Và vì thế, việc ông dinh tê là chuyện bình
thường như hàng ngàn, hàng vạn người khác.
.- Thứ nhất, có thể chỉ là lý do
kinh tế. Đi theo cách mạng là đói. Đói cho mình và đói cho cả nhà. Đó là trường
hợp 3 anh em trai bên vợ Phạm Duy. Tác giả viết:” Chúng tôi có khoảng một tháng
trời để nhìn thấy chung quanh mình có khá nhiều gia đình đã * dinh tê*. Găp
được những gia đình bạn như gia đình Nguyễn Giao (bố vợ Hoàng Thi Thơ), gia
đình Đỗ Xuân Hợp, gia đình Đòan Châu Mậu.. là có ngay những vụ bàn bạc về việc
rentrer: vào thành hay rester,ở lại ? Ở lại, rester thì không còn tiền để mua
gạo mà ăn. Chưa dám nói thịt cá đâu. Nhất là không có tiền mua thuốc men để
chống đỡ với các thần bệnh tật …. Trong lòng day dứt vì chuyện”ai làm cho ai
phụ tình ai”?
.- Thứ hai, theo Phạm Duy,
Trung ương muốn khai tử bài Bên Cầu biên giới của tác giả qua trung gian nhạc
sĩ Nguyễn Xuân Khoát nên ông nổi giận và:” Tôi thấy cách mạng bắt đầu lẩm cẩm
khi kết án bài Vọng cổ trong cái Đại Hội mà tôi vừa tham dự “. Và sau khi được
gặp bác Hồ, Phạm Duy đã không có một ấn tượng tốt đẹp gì về con người ấy và sau
đó đi gặp nhạc sĩ Khoát :” Tôi tới gặp anh Khoát ngay và trả lời dứt khoát là
tôi xin trở về Thanh Hóa.. Tôi rất cảm ơn mọi người, xin được không nhận bất cứ
một thứ ân huệ nào cả . .. Nhưng khi vợ chồng tôi tới chào người lãnh đạo văn
nghệ của cả nước thì Tố Hữu tặng vợ chồng tôi một số tiền. Tôi nhận ngay vì đó
là tiền lương và vãng phí.
Cuộc
chia tay dứt khoát với kháng chiến bắt đầu từ việc ông được kết nạp vào Đảng.
Ông viết:
“Trong
một buổi trưa có nắng vàng nhảy múa trên lá cây, thả bước; trên một con dốc nhỏ
nằm trong khu rùng Yên Giã, anh Nguyễn Xuân Khoát bá vai tôi, hai người lặng lẽ
đi .. Một hồi lâu, anh Khoát nói giọng thầm thì:
-
Đoàn thể cử tao nói cho mày biết. Là mày đã được kết nạp. Mày sẽ được cử đi
Moscou. Mày sẽ được ông Cụ gắn cho một huân chương chiến sĩ. Nhưng có điều
kiện. Mày phải bỏ cái tính “chơi” của mày đi. Mày phải khai tử bài hát: Bên cầu
biên giới và nếu xuất ngoại thì Thái Hằng phải ở lại . Một mình mày đi thôi .
Về suy nghĩ. Mấy, hôm nữa, trả lời tao”.(13)
(13)Trich
Hồi ký Phạm Duy, tập hai, thời Cách Mạng kháng chiến
Theo
Phạm Duy, chính đề nghị được kết nạp vào đảng làm ông sợ quá. Lên Việt Bắc,
không bao giờ ông chờ đợi một đại ân huệ như thế này. Sau khi được gặp ông Hồ,
tướng Nguyễn Sơn, ông quyết định tìm đường “dinh tê”. Và ngày 1 tháng năm 1951,
đại gia đình họ Phạm chia ra ba nhóm để dinh tê.
Cuộc
chia tay kháng chiến đơn giản chỉ có vậy.
- Thứ ba, Phạm Duy đâu phải
loại người ngu ngơ khờ khạo. Trong buổi tham dự Đại Hội Văn Hóa tổ chức tại
trường Cao Đẳng, có chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn, ông viết:” tôi cũng rất
sung sướng được nhìn thấy những thần tượng văn nghệ của tôi. Nhưng tôi lấy làm
lạ, tự hỏi thầm tại sao nhóm Tự Lực Văn Đoàn lại vắng mặt? Câu hỏi lớn đấy nhé.
Sau đó còn thấy sự chống đối của Nguyễn Đức Quỳnh Khi Xuân Diệu bắt đầu bằng
câu nói: Thưa các đồng chí. Nguyễn Đức Quỳnh đứng dạy nói: Tôi không phải là
đồng chí của các anh. Xuân Diệu có vẻ hơi lúng túng rồi trả lời: Chúng tôi
không cần những đồng chí như anh.
Tôi
cũng thấy được sự tranh chấp bạo động như vụ bắt cóc rồi giết nhau ở phố Ôn Như
Hầu hay là vụ Việt Minh tiêu diệt các đảng phái ở các tỉnh. Khi ở trong Nam,
tôi đã thấy các đảng phái như Cao Đài, Hòa Hảo, Đại Việt dự định bắt Trần Văn
Giầu và nhóm Việt Minh. Nhưng Dương Văn Giáo ngăn cản để giữ tình đoàn kết. Sau
này, chính Dương Văn Giáo bị Việt Minh giết.
Vì
thế, tôi không có ý muốn trở thành một cán bộ Việt Minh ở Hà nội (14).
(14) Trích Hồi ký, tập hai, Ibid
(14) Trích Hồi ký, tập hai, Ibid
Kể như đã rõ ràng, đi theo kháng chiến,
nhưng thấy Việt Minh phản bội lại những người yêu nước khác, như giết người của
đảng phái. Phạm Duy đã có thể thất vọng về kháng chiến và vì thế dinh tê là
điều khó có thể chê trách được.
Và
giả dụ rằng, cái đám dinh tê sau này thắng trận thì chữ phản bội còn có ý nghĩa
gì? Cuối cùng, kẻ thắng là kẻ tự mang chính nghĩa về phía mình, nói sao chả
được.
-. Thứ tư : Xét đến số lượng
các bản nhạc Phạm Duy làm trong thời kỳ kháng chiến, xét đủ loại từ Nhạc hùng,
nhạc tình, quân ca kháng chiến đến dân ca kháng chiến trên dưới gần 50 bài, tôi
nhận ra ông chỉ đổi lời những bài nào có danh từ dính dáng trực tiếp đến Việt
Minh như cụ Hồ, đồn Tây, Vệ Quốc Quân mà thôi.
Có
bao nhiêu bản như thế? Thực sự không có bao nhiêu. Chỉ có vài bài tất cả theo
cách lý giải của tôi. Nguyễn Trọng Văn đã khám phá ra điều này cũng đã là hay
lắm. Nhưng chưa đủ yếu tố thuyết phục độc giả nghĩ rằng Phạm Duy là kẻ phản
bội.
Hơn nữa, giá trị một bản nhạc hay là chính ở cái hồn của bản nhạc ấy thì vẫn được giữ nguyên. Có cụ Hồ hay không có cụ Hồ, tự nó bản nhạc vẫn hay. Nhạc kháng chiến của Phạm Duy là hay, là thấm thía, là chia sẻ thì vẫn được người nghe tán thưởng.
Hơn nữa, giá trị một bản nhạc hay là chính ở cái hồn của bản nhạc ấy thì vẫn được giữ nguyên. Có cụ Hồ hay không có cụ Hồ, tự nó bản nhạc vẫn hay. Nhạc kháng chiến của Phạm Duy là hay, là thấm thía, là chia sẻ thì vẫn được người nghe tán thưởng.
Cũng
đừng quên một điều, khi nghe một bản nhạc hay, người nghe để cái cảm quan nghệ
thuật lấn lướt những tiểu tiết thay đổi từ mà Nguyễn Trọng Văn nêu ra. Theo
tôi, trừ tên Hồ Chí Minh cần phải đổi. Những từ như giặc Pháp, đồn tây, anh vệ
quốc quân, không đổi cũng không sao.
Bằng
chứng, ở miền Nam, chúng ta vẫn nghe nhạc Văn Cao, vẫn đọc văn Nguyễn Tuân thời
tiền chiến có sao đâu? Sau 1975, tại Vũng Tầu, loa phóng thanh oang oang bài Anh
Quốc ơi, Anh Quốc ơi của Phạm Duy đấy !! Thật là buồn cười, nhưng hiểu được.
Bài đó có thể hay và người ta chẳng cần biết anh Quốc là anh nào nữa.
Kết
luận cho thấy phải chê ngược Phạm Duy đáng nhẽ không nên đổi từ như ông đã đổi.
Nguyễn Trọng Văn ngầm phê phán thái độ trở cờ, bỏ kháng chiến của Phạm Duy, thì
những người khác lại thấy sự trở cờ đó là bình thường. Trừ trường hợp đổi
lại ca từ một lần nữa để về sống ở VN là coi không được.
Nếu
Phạm Duy có chết là chết ở chỗ đó. Dư luận có thể kết án ông ở chỗ hèn, chỗ
tráo trở, chỗ bán rẻ nhân cách.
Khác
nhau là giữa chúng ta và Nguyễn Trọng Văn đứng ở vị thế nào để nhìn vấn đề, để
phê phán?
2.- Phạm Duy chết ở một nơi nào khác?
Tài vay mượn hay cảm
hứng của người nghệ sĩ?
Mỗi
bản nhạc của ông là một tổng hợp hay một cộng lại những văn ảnh, những âm
thanh, âm điệu, những ca từ rút ra từ các bài thơ, hoặc rút tỉa từ các câu hò,
điệu hát của dân ca ba miền, ngay cả những điệu hát của người dân miền sơn
cước, từ các vần điệu đã có sẵn, các văn ảnh quen thuộc như con trâu, cái cầy,
đồng lúa xanh, người mẹ quê. Chính nhờ sự pha trộn, thu nhặt đó mà nhạc Phạm
Duy rất gần gũi, ăn khách và được đón nhận một cách nồng nhiệt.
Chẳng
hạn, trong bài Tiếng Hát trên Sông Lô, theo như sự nhìn nhận của ông, ông đã
cảm hứng và vay mượn từ hai câu thơ Đường quen thuộc:
Thuyền
ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn(15)
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn(15)
(15)
Tất cả những trích dẫn trên và sau đây đều lấy lại trong tập: Ngàn lời ca của
Phạm Duy, xuất bản ở hải ngoại.
Hai
câu thơ Đường trên váng vất trong bài tiếng sông Lô của Phạm Duy đã trở thành:
Thuyền tôi buông lái như xưa, hoặc Thuyền tôi đậu bến Tuyên Quang và nhất là
Thuyền tôi đậu bến Đoan Hùng. Bình minh nghe tiếng chim mừng líu lo.
Trong mấy câu trên, người ta thấy từ vần điệu, âm thanh bằng trắc bổng trầm sao giống nhau thế? Giữa: Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hán Sơn và Bình minh nghe tiếng chim mừng líu lo sao mà sít sao thế. Giống mà không giống. Nửa đêm đổi ra thành bình minh. Tiếng chuông chùa đổi ra tiếng chim mừng..
Trong mấy câu trên, người ta thấy từ vần điệu, âm thanh bằng trắc bổng trầm sao giống nhau thế? Giữa: Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hán Sơn và Bình minh nghe tiếng chim mừng líu lo sao mà sít sao thế. Giống mà không giống. Nửa đêm đổi ra thành bình minh. Tiếng chuông chùa đổi ra tiếng chim mừng..
Cũng
theo Phạm Duy, 10 bài tâm ca, 10 bài đạo ca ít ra bắt nguồn từ con số 10 của
Mười điều tâm niệm của Hòang Đạo. Sự liên hệ ý tưởng (associations des idées)
đó đã trở thành nguồn cảm hứng âm nhạc bắt đầu từ con số 10. Tại sao không 13
hay 35 mà lại 10?
Và
từ dấu mốc này, tôi dám đặt câu hỏi nghi vấn, không phải về nhạc tính, mà về
một số từ rất Trịnh Công Sơn, một số ý hướng rất TCS như các từ Gia tài, tuổi
nọ tuổi kia v.v… Uớc mơ (thơ Nhất Hạnh), để lại và những ý hướng về cái chết,
về chiến tranh, về trẻ thơ v.v… Trong các bài Tâm Ca, Đạo ca của Phạm Duy.
Lẽ
dì nhiên, Phạm Duy không bao giờ nhìn nhận có một ảnh hưởng như thế trên sư
nghiệp sáng tác của ông. Và chắc hẳn những bản nhạc đó đã bắt nguồn từ những
cảm hứng tâm linh, từ những khát vọng sâu thẳm của cõi người hay thân phận
người xuất phát từ những tình trạng bi kịch của đất nước. Chính từ những chỗ ấy
đánh động tâm tư, khơi dạy những thao thức của tâm hồn nghệ sĩ và từ đó sản
sinh ra những dòng nhạc khá là tuyệt vời.
Người
nghe nhạc khi thưởng thức nhạc Phạm Duy, đôi khi bắt gặp những âm hưởng quen
thuộc đã bắt gặp ở đâu đó rồi hoặc bắt gặp một con chữ nào đó vv. Có thể một
cách vô tình và vô thức, Phạm Duy có cùng những cảm thức, cùng những rung động
đã nhập vào ông. Nhất là trong những bản nhạc phản chiến, những bài tâm ca và
đạo ca. Chữ nghĩa ấy vào tay Phạm Duy trở thành một con chữ sống động, hiện
sinh, như thể có một linh hồn. Vốn nguyên liệu ròng đã có, Phạm Duy chuyển tải
tài tình cái vốn đó thành vốn của mình một cách chẳng kém tài hoa.
Thôi
thì cứ cho rằng tài hoa bắt gặp tài hoa. Nhưng trong nghệ thuật văn chương hay
âm nhạc thì trước sau thiên tài hay không vẫn là ở chỗ sáng tạo, chỗ khởi đầu.
Ớ chỗ này, bất cứ ai cũng phải nhìn nhận rằng TCS sáng tạo ra ngôn ngữ, thổi
vào chữ nghĩa một sự sống, một linh hồn.
Hơn bất cứ ai hết, TCS cùng một lúc
sáng tạo ra ngôn từ và dòng nhạc quyện vào nhau, gắn bó tuyệt vời. Đó là một
thứ phù thủy trong ngôn ngữ, thổi vào đó một sự sống.
Trong khi đó, phần lớn âm nhạc của Phạm
Duy là vay mượn thơ văn của các thi sĩ khác.
Công
của ông là phổ nhạc. Phần kia là của các nhà thơ. Về điểm này, tôi cũng đặt câu
hỏi phần vinh danh mà ông được thụ hưởng thì trong đó có bao nhiêu phần đóng
góp âm thầm của các nhà thơ được chia sẻ cái vinh danh đó?
Chỗ
nào cho Nguyễn Bính, Nhất Hạnh, Phạm Thiên Thư, Linh Phương, Ngô Đình Vận, Hữu
Loan, Lê thị Ý, Phạm Lê Phan, Phạm Văn Bính, Hoa Đất Nắng, Lưu Trọng Lư, Huy
Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn Mạc Tử, Bích Khê, Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Tất Nhiên,
Thanh Hữu, Du Tử Lê, Cung Trầm Tưởng, Hoài Trinh, Hồng Nam tức Hô Hán Sơn,
Guillaume Apolinnaire. Và người chỉ còn có cái bị thằng ăn mày, đói rách tả tơi
như Bùi Giáng cũng bị Phạm Duy mượn đỡ bài Gái lộI qua khe cho những bài Tục ca
của Phạm Duy. Mà không có một đền bù, vật chất cũng như tinh thần, không có đề
tên trên bản nhạc. Không dám bảo là đạo văn, ăn cắp, nhưng rõ ràng là “mượn
đỡ”.
Kết luận về phần này thì chúng ta phải thừa nhận rằng vay mượn và cảm hứng đưa đến những bản nhạc để lại cho đời đến như Phạm Duy thì kể là kỳ tài.
Kết luận về phần này thì chúng ta phải thừa nhận rằng vay mượn và cảm hứng đưa đến những bản nhạc để lại cho đời đến như Phạm Duy thì kể là kỳ tài.
Kể
là có một không hai.
Nhưng
tôi nhận ra một điều thấy cần được nói ra và có thể nhiều người cũng biết như
thế. Có nhiều bài do chính ông viết lời như bài Đêm xuân, tại Chợ Neo, Thanh
Hóa ghi lại mối tình với Thái Hằng. Hay bài Cành Hoa trắng, Thanh Hóa, 1950 hay
bài Gánh lúa, rất nổi tiếng, trước khi dinh tê. Điều đó không có gì để nói nữa.
Có bài mượn lời từ thi sĩ ngọai quốc, như Mùa thu chết mượn thơ của thi sĩ Guillaume Apollinaire ông cũng cẩn thận ghi bên dưới như: theo thơ Guillaume Apollinaire, Sàigòn 1970.
Xem lại những bài ông trích đăng lại trong Ngàn lời ca của ông.Trừ một vài trường hợp khá đặc biệt như bài Nhân danh, ghi theo thơ Tâm Hằng, bài Bi Hài kịch, theo thơ Thái Luân, Đi vào Quê Hương, theo thơ Hoa Đất Nắng (Cả ba bài này đều ít ai biết tới), Kỷ vật cho em thơ Linh Phương. Khi tôi về, theo thơ Kim Tuấn, Tửởng như còn người yêu, thơ Lê thị Ý, Áo anh sứt chỉ đường tà, thơ Hữu Loan. Tôi ước mơ, thơ Nhất Hạnh, bài Để lại cho em, một câu thơ của Nguyễn Đắc Xuân…
Có bài mượn lời từ thi sĩ ngọai quốc, như Mùa thu chết mượn thơ của thi sĩ Guillaume Apollinaire ông cũng cẩn thận ghi bên dưới như: theo thơ Guillaume Apollinaire, Sàigòn 1970.
Xem lại những bài ông trích đăng lại trong Ngàn lời ca của ông.Trừ một vài trường hợp khá đặc biệt như bài Nhân danh, ghi theo thơ Tâm Hằng, bài Bi Hài kịch, theo thơ Thái Luân, Đi vào Quê Hương, theo thơ Hoa Đất Nắng (Cả ba bài này đều ít ai biết tới), Kỷ vật cho em thơ Linh Phương. Khi tôi về, theo thơ Kim Tuấn, Tửởng như còn người yêu, thơ Lê thị Ý, Áo anh sứt chỉ đường tà, thơ Hữu Loan. Tôi ước mơ, thơ Nhất Hạnh, bài Để lại cho em, một câu thơ của Nguyễn Đắc Xuân…
Đó
chỉ là vài trường hợp họa hiếm. Còn những trường hợp khác thì không được ghi
đầy đủ. Và đấy chỉ là ghi lại t Ngàn lời ca của Phạm Duy sau này như một loại
sách sử âm nhạc. Nhưng tôi không đủ điều kiện để tìm hiểu xem, khi được ấn hành
thành bản nhạc, được in ấn hồi trước 1975, được bán ở các vỉa hè Sàigòn, tên
các thi sĩ được Phạm Duy phổ nhạc có được ông trân trọng ghi đầy đủ trên các
bản nhạc hay không? Ở Hải ngọai thì tôi được biết có một số bản nhạc được in
lại có ghi đầy đủ tên thi sĩ và tên nhạc sĩ. Nhưng điều đó có chắc rằng, toàn
thể các bản nhạc của Phạm Duy in ấn trước 1975 đều có đề tên các thi sĩ?
Việc phổ nhạc thơ là
một hiện tượng phổ biến trong sinh hoạt văn hóa miền Nam trước 1975. Trong một bài phỏng
vấn Du Tử Lê của Cỏ Ngư trên Talawas, ngày 5-5-06, Du Tử Lê cho biết có hơn 300
bài thơ của ông đã được phổ nhạc mà theo ông:” Đó là chưa kể có những nhạc sĩ
lấy thơ của tôi, không chỉ là cái ý, mà cả câu thơ, nhiều câu thơ làm thành ca
khúc mà không hề đề cập đến tên tôi, dù chỉ là hàng chữ “ ý thơ ” thôi cũng
không có. Thậm chí, có báo chí nêu đích danh bài thơ ấy, bản nhạc ấy, nhạc sĩ
ây. Nhưng người nhạc sĩ này vẫn lờ đi…”
Riêng
trường hợp Phạm Duy, Du Tử Lê có tiết lộ PD có phổ nhạc bài thơ “Kiếp sau, xin
giữ lại đời cho nhau” vào năm 1967 gì đó. Rất tiếc, dù đã tìm kỹ, tôi cũng
không tìm thấy bài hát này.
Nhưng
điều tôi có thể chắc chắn là trong Ngàn lời ca thì hầu như Phạm Duy đã không
nêu tên các thi sĩ, tác giả các lời ca của bản nhạc. Ông có cố tình quên tên họ
không? Trong khi đó, ông ghi rất kỹ thời gian sáng tác một bản nhạc.
Chính vì thế sau này đã xảy ra trường hợp nhà thơ Hữu Loan bày tỏ công khai nỗi bực dọc ấy. Có một trường hợp mà tôi biết khá rõ về năm bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên, một thi sĩ trẻ ở Biên Hòa. Đó là những bài Thà là giọt mưa, Hai năm tình lận đận, Cô Bắc Kỳ nho nhỏ, Hãy yêu chàng và Vái trời . 5 bài thơ này đã là nguyên do có sự kiện tụng giữa nhà thơ và Phạm Duy. Về phần Nguyễn Tất Nhiên, dĩ nhiên, cậu thanh niên chưa quá 20 tuổi phải hãnh diện vì thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Về phía Phạm Duy chắc cũng hiểu cái tình huống như thế nên ông nói: Thơ được Phạm Duy phổ nhạc là may phúc lắm rồi. Cho đến lúc bản nhạc được thương mại hóa thì Nguyễn Tất Nhiên ..đòi tiền. Kể từ đó về sau, PD không lấy thơ Nguyễn Tất Nhiên phổ nhạc nữa.
Chính vì thế sau này đã xảy ra trường hợp nhà thơ Hữu Loan bày tỏ công khai nỗi bực dọc ấy. Có một trường hợp mà tôi biết khá rõ về năm bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên, một thi sĩ trẻ ở Biên Hòa. Đó là những bài Thà là giọt mưa, Hai năm tình lận đận, Cô Bắc Kỳ nho nhỏ, Hãy yêu chàng và Vái trời . 5 bài thơ này đã là nguyên do có sự kiện tụng giữa nhà thơ và Phạm Duy. Về phần Nguyễn Tất Nhiên, dĩ nhiên, cậu thanh niên chưa quá 20 tuổi phải hãnh diện vì thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc. Về phía Phạm Duy chắc cũng hiểu cái tình huống như thế nên ông nói: Thơ được Phạm Duy phổ nhạc là may phúc lắm rồi. Cho đến lúc bản nhạc được thương mại hóa thì Nguyễn Tất Nhiên ..đòi tiền. Kể từ đó về sau, PD không lấy thơ Nguyễn Tất Nhiên phổ nhạc nữa.
Tôi
đã thử tìm trong Ngàn lời ca để xem ông có ghi lại năm bài nhạc, có thơ của thi
sĩ Nguyễn Tất Nhiên không? Tôi đã không tìm thấy bài nào trong năm bài ấy.
Và nó chỉ được nhắc tới trong phần mục lục thôi. Phải chăng, do cái giận một thằng”nhóc con” muốn đòi tiền và kiện ông mà Phạm Duy đã cố tình bỏ quên Nguyễn Tất Nhiên? Thật ra cái tính của Nhiên là thế. Sau này, khi gửi các bài thơ của thi sĩ trên tập san Hợp Lưu, anh cũng có thói quen đòi chủ bút Khánh Trường phải trả tiền nhuận bút. Ai viết cho Hợp Lưu nghe chuyện đó cũng phải bật cười. Chủ bút KT đã trả tiền nhuận bút vì thương bạn. Bởi vi, tờ báo ai đã cộng tác viết bài đều biết tập san nghèo quá, ai dám nghĩ đến tiền nhuận bút. Nhận được một số báo mỗi kỳ đã là một niềm vui rồi vì tờ báo quá đẹp, trang nhã, bài viết có chất lượng. Cầm số báo HL như cầm một cuốn sách. Và theo anh Khánh Trường, Nguyễn Tất Nhiên là người duy nhất trong số các tác giả viết bài cho Hợp Lưu được trả tiền nhuận bút.
Và nó chỉ được nhắc tới trong phần mục lục thôi. Phải chăng, do cái giận một thằng”nhóc con” muốn đòi tiền và kiện ông mà Phạm Duy đã cố tình bỏ quên Nguyễn Tất Nhiên? Thật ra cái tính của Nhiên là thế. Sau này, khi gửi các bài thơ của thi sĩ trên tập san Hợp Lưu, anh cũng có thói quen đòi chủ bút Khánh Trường phải trả tiền nhuận bút. Ai viết cho Hợp Lưu nghe chuyện đó cũng phải bật cười. Chủ bút KT đã trả tiền nhuận bút vì thương bạn. Bởi vi, tờ báo ai đã cộng tác viết bài đều biết tập san nghèo quá, ai dám nghĩ đến tiền nhuận bút. Nhận được một số báo mỗi kỳ đã là một niềm vui rồi vì tờ báo quá đẹp, trang nhã, bài viết có chất lượng. Cầm số báo HL như cầm một cuốn sách. Và theo anh Khánh Trường, Nguyễn Tất Nhiên là người duy nhất trong số các tác giả viết bài cho Hợp Lưu được trả tiền nhuận bút.
Nhưng
được biết đến lúc nhà thơ này từ giã cõi đời thì PD cũng nằm trong số những
người đến tiễn đưa anh về thế giới bên kia.
Phạm
Duy đã kể lại trong Ngàn lời ca về người bạn tình của ông, Alice, con gái của
một người tình cũ của ông ở Phan Thiết là Hélène, Alice đã làm đến 300 bài thơ
tặng ông và đã là nguồn cảm hứng cho Phạm Duy viết phổ nhạc. Khởi đầu là Thương
Tình ca với những giai điệu:”
Dìu
nhau đi trên phố vắng
Dìu nhau đi trong ánh sáng
Dắt hồn về giấc mơ vàng
Dìu nhau đi chung một niềm Thương
Dìu nhau đi trong ánh sáng
Dắt hồn về giấc mơ vàng
Dìu nhau đi chung một niềm Thương
Và
tiếp nối là Ngày đó chúng mình, Đừng xa nhau, Kiếp nào có yêu nhau (Thơ của
Hoài Trinh). Bài này của Hoài Trinh có in lại trong một băng nhạc ở Hải ngọai,
thấy có điền tên tác giả là Hoài Trinh.
Tôi
không thấy ông đề tên Alice trong những bản nhạc tình có thể nói là tuyệt vời
ấy trong Ngàn lời ca?. Thật là đáng tiếc. Thật là “thằng cha bội bạc”.
Nhân
tiện đây, phải nói rằng nhạc tình của Phạm Duy quả là tuyệt vời. Đầy cảm tính.
(sentimental) Và chỉ có một người sau này có thể qua mặt ông là Trịnh Công Sơn
với nhạc tình đầy não tính( cérébral) Chữ của Phạm Duy). Và có những người trẻ
tuổi đã chẳng ngại ngùng viết: “Với tôi, chiều sâu của Phạm Duy là chiều sâu
của vực thẳm không đáy, đỉnh cao là đỉnh cao của ngọn trời và kích thước thứ ba
là chiều ngang của không gian vô tận”
Xin
trích dẫn một đôi câu nữa để chúng ta cùng say sưa ngậm ngùi:
Ngày
đó có bơ vơ lạc về trời
Tình trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
Ngày đó có kêu lên gọi hồn người
Trùng dương ơi, Có sót sa cũng hoài mà thôi
Tình trên mây xa khơi có áo dài khăn cưới
Ngày đó có kêu lên gọi hồn người
Trùng dương ơi, Có sót sa cũng hoài mà thôi
Và
để nghe Thái Thanh nức nở một lần nữa thơ của Hoài Trinh, phổ nhạc là của Phạm
Duy:
Đừng
nhìn em nữa anh ơi ..
Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau ..
Kiếp nào có yêu nhau, thì xin tìm đến mai sau ..
Alice
đã không có một chỗ đứng đáng nhẽ phải có, đáng nhẽ phải dành cho cô!! Không
thể quên như thế được.
Nhưng
dưới mắt Phạm Duy: Phổ nhạc là chắp cánh cho thơ bay cao. Vì thế, các thi sĩ bị
bỏ quên cũng thật là dễ hiểu, vì ai là người đã chắp cánh cho họ?
Những
người đó ít hay nhiều cũng làm nên vóc dáng Phạm Duy. Có thể, nhờ nhạc sĩ mà
bài thơ đi xa hơn nữa. Nhưng dù muốn, dù không vẫn là mượn thơ của thi sĩ. Họ
đã chẳng có một vị trí xứng đáng trong gia tài âm nhạc của họ Phạm. So ra những
người tình của Trịnh Công Sơn may mắn hơn nhiều, vinh dự hơn nhiều, đi vào
những thiên tình sử của một nhạc sĩ tài hoa có một không hai. Những Diễm.. và
cuối cùng đến Hồng Nhung.
Hãy
khoan nói đến chuyện tiền bạc. Hãy trả lại lẽ công bằng về cái thẩm quyền tinh
thần, về những sản phẩm trí tuệ ấy.
Tôi
vẫn cảm thấy tức anh ách khi viết những dòng này, nghĩ tới Alice, Huy Cận trong
Ngậm ngùi và bao nhiêu thi sĩ khác.
Phải
chăng chính ở điểm này mà Nguyễn Trọng Văn nên dùng bút để giết chết Phạm Duy
thì đúng hơn!!
3.- Phạm Duy của nhiều khuôn mặt
Ngay
từ hồi trước 1975, nhiều dư luận cho rằng Phạm Duy là người bất nhất, tham lam,
chụp giựt, tính cơ hội trong những sáng tác nhạc của ông. Các chủ đề sáng tác
của ông, mặc dầu trải dài suốt hành trình nhân thế của ông, bám sát vào những
biến cố của thời cuộc, của đất nước cho thấy nó quá đa dạng, trái khoáy, thiếu
cân xứng, thiếu liên tục nhất quán. Nghe những bản nhạc ấy, nhiều khi không
khỏi ngỡ ngàng, thấy lạ, thấy kỳ dị và cảm giác quan trọng là thấy có gì đó
không ổn. Có thể gọi đó là một thứ sincérité instantannée, thành thật nhất thời
cảm hứng nhất thời, xung động nhất thời (émotion primaire)
Cảm
hứng nhất thời đó cũng giống như một thanh niên lãng tử, ham vui, chóng chán.
Khó có cái gì đọng lại, kết tinh, có chiều sâu, có âm hưởng.
Đó
là thứ nhà văn không có style, nhạc sĩ không có nét nhạc, thiếu cá tính, họa sĩ
thiếu gam mầu.
Đối
với một người như TCS, ta chỉ cần nghe một điệu nhạc, bắt ngay được cái hồn tính
của điệu nhạc ấy và biết ngay là Trịnh Công Sơn. Nó có một cái duy nhất, cái
độc đáo, cái làm nên thế giới âm nhạc ấy. Cũng vậy, xem tranh phố cổ của Bùi
xuân Phái quen thuộc, lướt qua cũng nhận ra gam mầu trong tranh rất xanh nhạt,
xám nhẹ, gợi nét buồn với hình ảnh những căn nhà, trống vắng, trơ chọi .. Họa
sĩ nổi danh với hai chữ phố phái, một đặc sủng trong tranh Bùi Xuân Phái cũng
nhờ ở chỗ có cái đồng nhất thể, cái thể tính của tranh vẽ phố cổ của ông. Trông
là biết, là nhìn nhận ra tác giả.
Phạm
Duy trái lại đưa người nghe nhạc ông từ thái cực này đến thái cực khác, hay dở
lẫn lộn, pha chế, dửng mỡ, thô tục, thanh cao, ngậm ngùi, thiết tha, xót xa, rẻ
tiền, vay mượn lung tung, chắp vá tùy tiện.
Có
vẻ trong sáng tác, lúc nào ông cũng tham lam, muốn thay đổi, muốn cái lạ, cái
mới theo cái kiểu tiện đâu hay đấy, theo cái kiểu có tiền thì làm. Đôi khi
không khỏi làm người nghe khó chịu và bực dọc.
Sáng
tác nhiều nhất so với các nhạc sĩ khác. Phạm Duy 1000 bài. Trịnh Công Sơn 600.
Nhưng cái dở của Phạm Duy cũng không ít.
** Giai đoạn kháng
chiến ca
Dành
cho giai đoạn này, ông có trên dưới 50 bài. Nhưng chỉ độ 10 bài nay còn được
nhắc nhở tới. Bài phổ nhạc đầu tiên Cô Hái mơ, phổ thơ Nguyễn Bính, 1942. Cũng
là hay, nhưng khó có thể so bì với Con thuyền không bến của Đặng Thế Phong và
Buồn tàn thu của Văn Cao. Mà Đặng Thế Phong sáng tác nhiều nhặn gì cho cam.
Nhạc của Đặng Thế Phong dù ít, nhưng bài nào cũng hay. Ít mà tuyệt vời. Những
bản nhạc hùng của Phạm Duy trong thời kỳ kháng chiến thì may mắn còn được quân
đội VNCH xử dụng như các bản quân hành như Xuất Quân, Nào bao hùng binh tiến
lên..Chiến sĩ vô danh, Đường về quê, Khởi hành…
Trong
số đó, vài ba bài dân ca kháng chiến thật hay và ngậm ngùi như Nhớ người Thương
binh, Ru con, và Nương chiều. Đó là những bài ca với những văn ảnh quen thuộc
như mẹ già, con thơ, vợ hiền rất gần gũi với người VN và được nhiêu người ưa
thích.
Ít
ra, trong giai đọan này, người ta còn nhận ra được tính thuần nhất trong chiều
hướng sáng tác của người nghệ sĩ. Mặc dầu vậy, nhiều bài nay không một ai biết
đến nữa vì tính tham lam, viết dễ của tác giả như các bài Quân Y ca, Thiếu sinh
quân, Ngọn trào quay súng, Một viên đạn là một quân thù. Đòan quân Văn hóa.
Tham
lam. Đó là cái dở nhất của Phạm Duy. Đó là cái giá phải trả dành cho những bản
nhạc bị bỏ quên mà cũng dành cho chính tác giả. Có đến 3 phần tư những bản nhạc
của Phạm Duy sau này đã không ai biết đến nữa.
** Giai đoạn 20 năm
miền Nam
Đây
là một thời gian dài đánh dấu sự thành công của Phạm Duy. Thành công của ông bắt
đầu với ban Hợp ca Thăng Long trên đài Pháp Á, từ 1951. Tới 1955, thời ông Diệm
đổi là Đài phát thanh Quốc Gia. Với những tên tuổI như Hoài Trung (Phạm Đình
Viêm) Hoài Bắc (Phạm Đình Chương), Phạm Duy, Thái Hằng và Thái Thanh (Băng
Thanh). Với những bài ca khá tuyệt vời như Tình Hoài Hương, Tôi yêu tiếng nước
tôi (1953).
Ban Hợp ca Thăng
Long
Đây
là giai đoạn phong phú và thành công rực rỡ nhất của cuộc đời làm nghệ sĩ của
Phạm Duy.
Thoạt
tiên với Ban Hợp ca Thăng Long đã nổi như cồn. Có thể so sánh nó giống như Sáng
Tạo trong văn học với Mai Thảo. Nhạc với Phạm Duy, với ban Hợp ca Thăng Long.
Văn với Mai Thảo với tạp chí Sáng Tạo. Cả hai là những đặc sản miền Bắc mang
vào như trái cây đầu mùa ở miền Nam lúc ấy.
Những
bản tình ca tuyệt vời cũng hầu hết được sáng tác trong giai đoạn này đã đưa tên
tuổi PD lên cao, cao thật cao.
Trường
ca Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam và dân ca ba miền.
Cạnh
đó là Hai bản Trường ca: Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam. Hai trường ca này
làm nên vóc dáng Phạm Duy. Bản trường ca nói đến người lữ khách lên đường, đi
từ Bắc vô Nam.
Về
nội dung, nó nói lên được tình tự dân tộc, tấm lòng yêu quê hương đất nước mỗi
lần tác giả dừng chân tại mỗi miền. Những câu hò, câu ví của dân ca ba miền
được nhắc nhở đến với những địa danh như Thăng Long, Tháp rùa, ải Chi Lăng, Phố
Kỳ lừa. Tạ Tỵ đã nhận xét: “Suốt chuyến đi, xuyên nửa quê hương, Duy đã xúc
động và nhận diện được chân dung quê hương qua tri giác tinh tế của một nghệ sĩ
đã gần 40 tuổi đời” (…) Nếu Con đường cái quan là một hành ca ghi lại bước tiến
của dân tộc ta trên một sinh lộ nhất quyết không chịu chia cắt, thì mẹ Việt Nam
vẫn là một Âu ca, ca tụng Mẹ tổ quốc và những mẹ điển hình trong truyền kỳ lịch
sử nước nhà, đề tài và cảm hứng dựa vào tình thương yêu và tính hiếu hòa, tính
tình này đã sinh tồn mạnh mẽ trên đất nước và phải được truyền đi trong thế
giới tàn nhẫn của hiện nay (16)
(16)Tạ Tỵ, Phạm Duy còn đó nỗi buồn, trang 200
(16)Tạ Tỵ, Phạm Duy còn đó nỗi buồn, trang 200
Nhiều
người đồng thời với Phạm Duy bày tỏ một sự trân trọng coi PD là Kẻ du ca Phạm
Duy với dân ca ..
Nhưng
về hình thức, theo dõi toàn bộ bài hát thì thấy mệt, chán, dài lê thê, cóp nhặt
âm hưởng của từng vùng. Nó là một thứ lắp ráp chưa khéo. Tách ra từng đoạn,
từng phần thì có phần hay. Những phần đoạn hay thường được giới thanh niên hát
trong các sinh hoạt giới trẻ và nhất là trong những đoàn du ca của giới sinh
viên học sinh. Chẳng hạn dân ca Như Lý Ngựa ô, Trèo lên quan Dốc, se chỉ luồn
kim, Lý con sáo, hát bội trăng rằm, qua cầu gió bay dễ gây rung cảm vì nó rất
Việt Nam, gần gũi, quen thuộc, thân thương, gợi nhớ vv được PD lấy cả ý đến lời
đến điệu nhạc, điệu hò như thể là của mình.
Nhiều
người đã bày tỏ sự không thích của mình. Ông đã xử dụng các câu hò, câu ví như
thể là chính ông sáng tác. Không lạ gì, nhiều người đã đồng hóa Phạm Duy vào
dân ca đó như thể là của chính ông sáng tác.
Riêng
nhạc sĩ Lê Thương đưa ra nhận xét: Những bài như Con đường cái quan hơi dài
quá, điệp ý nhiều, có nhiều đoạn lại tham lời, tham ý quá, chẳng khác người mới
làm văn không chịu lựa chọn những ý đặc biệt, những tư tưởng độc đáo để diễn
tả, trái lại ý nào cũng thích, tư tưởng nào cũng ham, nhất nhất thu cả vào bài
văn của mình, làm cho độc giả coi mà mệt, do đó sinh ra ngán ngẩm”(17)
(17)Llê
Thương trả lời phỏng vấn của Vũ Bằng, Văn Học, số 102, trang 76 . Trích lại
Nuyễn Trọng Văn, Ibid trang, 65
Và
một tiếng nói nữa của Trần Văn Khê nhận xét về hai bài hát về miền Nam Cửu Long
Giang và Nhờ gió đưa về như sau: “Tôi nghĩ có lẽ Phạm Duy cho rằng miền Nam
chịu ảnh hưởng Âu Châu rất nặng nề là khi đến miền Nam người lữ khách đi thời
xưa đàn ngày nay, đàn mà nhạc Việt ảnh hưởng Âu Châu rất nhiều, nên hai bài
hành khúc, không còn dân tộc tính của nhạc Việt nữa… Riêng đối với tôi, những
câu nhạc nửa Âu, nửa Á, nửa Mỹ, nửa Việt Nam làm tôi tiếc người nhạc sĩ sáng
tác hai phần đầu, người nhạc sĩ đã đem dân ca lên một mức khá cao để rồi phụ
bạc dân ca trong phần chót nhạc phẩm.“ (18)
(18)
Trần Văn Khê, Nhận xét Trường Ca Con đường cái quan của Phạm Duy, Văn Học, 102,
trang 69. Trích lại trong Nguyễn Trọng Văn, Ibid, trang 67
Dân
ca có nghĩa là gia tài chung của mọi người, không ai là tác giả, hay chỉ là vô
danh. Vậy mà Phạm Duy đã mượn ý, mượn lời, rồi coi như của mình. Nhiều người
như các quý ông Nguyễn Hữu Ba, Trần Văn Khê đã có nhận xét rõ ràng về vấn đề
này và yêu cầu ông sửa lại.
Riêng
Nguyễn Trọng Văn, thẳng thừng và khó tính hơn coi như một thứ ăn cắp không hơn,
không kém. Nguyễn Trọng Văn đà nhận xét khá nặng nề như sau:” Ngoài thái độ lấy
gia tài chung của dân tộc làm gia tài riêng của mình, lấy vinh dự của dân tộc làm
bậc thang cho riêng mình, việc sử dụng trường ca cũng bị chỉ trích(19)
(19) Nguyen Trong Van, ibid, 72
(19) Nguyen Trong Van, ibid, 72
Khó
có thể chấp nhận được tính nhập nhằng của ông. Ông đã nhập nhằng không để tên
các bài phổ nhạc của các thi sĩ. Bậy lắm. Không thể làm thế được. Đề thêm tên
tác giả, bản nhạc có thể vì thế mà mất gá trị đâu!!!
Nay
lại nhập nhằng trong dân ca!!
Trong
việc sáng tác của ông đa dạng về thể loại còn đa dạng về đề tài. Phong phú,
nhưng trùng lập. Mâu thuẫn và không hợp lý. Các đề tài trong nhạc của Phạm Duy
được ông thay đổi như chong chóng, nhảy từ lãnh vực này sang lãnh vực khác. Mỗi
lần thay đổi thì ông lại giải thích thế này, thế nọ. Nhưng nghe không lọt tai
tý nào.
Nó có vẻ tùy tiện, tùy cơ hội đưa đến. Nó không phải là những điều ông ấp ủ, xuất phát từ tim óc. Ít lắm, ông cũng phải trung thành với chính mình, trung thành với những điều ông ấp ủ. Vì không thể ấp ủ nhiều thứ cùng một lúc được. Vừa mong chấm dứt chiên tranh, vừa phản chiến, vừa hiếu chiến?
Nó có vẻ tùy tiện, tùy cơ hội đưa đến. Nó không phải là những điều ông ấp ủ, xuất phát từ tim óc. Ít lắm, ông cũng phải trung thành với chính mình, trung thành với những điều ông ấp ủ. Vì không thể ấp ủ nhiều thứ cùng một lúc được. Vừa mong chấm dứt chiên tranh, vừa phản chiến, vừa hiếu chiến?
Tâm ca, Đạo ca, tục
ca…
Vào
năm 1965, ông bắt đầu viết tâm ca. Ở thời điểm đó, viết tâm ca là có thể hiểu
được, vì đúng thời điểm. Có vẻ thời thượng nữa. Mức độ gia tăng chiến tranh đến
chóng mặt với sự tham dự trực tiếp của người Mỹ vào miền Nam. Tâm trạng chán
ghét chiến tranh, mỏi mệt, đã mỗi ngày một rõ mặt. Những người Thanh niên trẻ
như Trịnh Công Sơn đã góp mặt và đã để lại những dấu ấn rõ nét qua những văn
ảnh về bom đạn, xác người, quê hương rách nát.
Phạm
Duy kể trong Hồi ký, tập 3, ông có ba người con trai phải nhập ngũ. Ông viết :
“Giới trẻ bị động viên. Ba đứa con trai tôi tuần tự nhập ngũ. Tôi đi thăm chúng tại trại Quang Trung, lòng đầy ái ngại. Gia đình nào cũng có con phải đi lính. Ai cũng nếm mùi chia ly, hoặc mùi chết chóc, mặc dù chưa bị khó, khăn về kinh tế như sau này”. (19)
“Giới trẻ bị động viên. Ba đứa con trai tôi tuần tự nhập ngũ. Tôi đi thăm chúng tại trại Quang Trung, lòng đầy ái ngại. Gia đình nào cũng có con phải đi lính. Ai cũng nếm mùi chia ly, hoặc mùi chết chóc, mặc dù chưa bị khó, khăn về kinh tế như sau này”. (19)
(19)
Trích Hồi Ký Phạm Duy, tập ba, chươg14
Phạm
Duy đóng góp bằng 10 bài Tâm ca, phổ thơ Nhất Hạnh. Trong 10 bài Tâm ca, có hai
bài thật tiêu biểu như Tôi ước mơ, Giọt mưa trên lá.
Những
bài khác như Kẻ thù ta, Tiếng hát to, Một cành củi khô, Ru người hấp hối, Tôi
bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát với tôi có tính dung tục, ” hò hét” , “tuyên
truyền”. Chẳng có gì là Tâm ca cả .
Thơ
đó thể hiện được tình tự nhân loại, con người với những khát vọng, những ao ước
ra khỏi cuộc chiến tranh này. Tình con người, tình tự nhân loại thấm nhuần tư
tưởng triết học, tôn giáo như hòa trộn vào nhau.
Nhưng
tôi có cảm tưởng, ông đà không chuyên chở nổi thơ Nhất Hạnh. Âm nhạc Phạm Duy
chưa tới. Thơ ở tầm cao mà nhạc không với tới. Người hát là giọng ca Thái
Thanh, tuyệt vời trong Nghìn Trùng xa cách lại tỏ ra khiên cưỡng đối với những
bài tâm ca này. Giọng hát đanh quá, chát chúa, sắc quá khi lên cao giết chết
cái hồn tính trong Giọt mưa trên lá.
Nhạc
không tới, giọng ca không thích hợp đã tự hủy tâm ca của ông và dĩ nhiên thơ
của Nhất Hạnh nữa. 10 bài tâm ca này, nay mấy bài còn được nghe ai hát nữa?
Cũng có một số phản ứng của vài trí thức khuynh tả thời đó, Lý Chánh Trung, trên Bách Khoa gọi Tâm ca là ảo tưởng, vì tiếng hát to (trong tâm ca số 2. không thể nào to hơn súng nổ bên bờ ruộng già. Nguyễn Văn Trung thì cho Tâm ca là mê hoặc vì không thay thế được tư tưởng chính trị để dẫn tới một tranh đấu chính trị.
Cũng có một số phản ứng của vài trí thức khuynh tả thời đó, Lý Chánh Trung, trên Bách Khoa gọi Tâm ca là ảo tưởng, vì tiếng hát to (trong tâm ca số 2. không thể nào to hơn súng nổ bên bờ ruộng già. Nguyễn Văn Trung thì cho Tâm ca là mê hoặc vì không thay thế được tư tưởng chính trị để dẫn tới một tranh đấu chính trị.
Không
nói tới vấn đề Phạm Duy thú nhận có bài ông chỉ sáng tác trong 15 phút. Đó là
việc của ông. Nhưng chính bản thân người nghệ sĩ chưa trang bị đủ cái
Spiritualité để đi vào cái hồn, cái linh thiêng hòa nhập giữa tâm tình tôn giáo
và chất nghệ sĩ.
Ông thiếu một cái gì đó- dung tục mà chưa thoát tục-. Ông mong muốn tâm ca là tiếng nói của lương tâm, của con người đối đầu với sự thật và nhận diện lại mọi thứ, mọi giá trị trên đời này. Nếu thế thì ông đã thất bại.
Ông thiếu một cái gì đó- dung tục mà chưa thoát tục-. Ông mong muốn tâm ca là tiếng nói của lương tâm, của con người đối đầu với sự thật và nhận diện lại mọi thứ, mọi giá trị trên đời này. Nếu thế thì ông đã thất bại.
Trên
Văn Học số 21, tháng 10. 1987 sau này, Bùi Vĩnh Phúc có biện hộ phân tích mấy
đi nữa về 10 Bài Tâm ca cũng không cứu gỡ nổi PD.
Nói
một cách thẳng thừng, 10 bài Tâm ca cũng rất có thể bị xếp chung vào thứ loạn
phát (ex-croissance)nói chung của thời kỳ ấy! Nào dân ca, nào tâm ca, đạo ca,
du ca, vỉa hè ca, tục ca.v.v..
Vì
vậy có một khoảng cách chưa quyện vào nhau giữa nhạc và thơ. Nó khác trường hợp
TCS. Mặc dầu Phạm Duy tự tin rằng: Tôi đã nói hộ thi sĩ. Và tôi xin ghi lại đây
lời giới thiệu của nhà Lá Bối khi cho in tập nhạc:” Tuy nhiên Lá Bối ghi nhận
rằng những bài Tâm ca được trình bày trong đây, tuy cũng xuất phát từ trái tim,
tuy cũng là ngôn ngữ khóc cười theo mệnh nước, vẫn còn mang một sắc thái đặc
biệt: Đó là tính cách tâm linh nội hướng và ý hướng điều hợp”(20)
(20)Trich Hồi ky Phạm Duy, tập ba, Ibid
(20)Trich Hồi ky Phạm Duy, tập ba, Ibid
Khi
Thích Nhất Hạnh nói tới khát vọng hòa bình, nói tới ước mơ thì người tu sĩ thi
sĩ ấy gửi gắm trong đó một sức mạnh tâm linh, một khát vọng tôn giáo, một
nguyện cầu cho việc giải quyết cuộc chiến tranh ấy. Đem cái sức mạnh tâm linh
ấy đến như một giải pháp vĩnh viễn cho con người chẳng những xóa bỏ hận thù mà
còn có thể xích lại gần nhau, như anh em?
Ảo
tưởng hay ước mơ? Đã gọi là ước mơ thì ai có thể cấm ông Nhất Hạnh được? Quyền
ước mơ là quyền tối thượng trong những tình huống thật sự bi kịch đối với một
nghệ sĩ. Thường sự phê phán là dựa trên thực tế cuộc đời mà ước mơ thì lại
thuộc một thế giới đi ra khỏi cuộc đời hay ở trên cuộc đời. Vậy thì sự phê phán
có tỏ ra thích hợp không.
Thiếu
cái chiều kích tâm linh trong việc phổ nhạc thơ Nhất Hạnh thì PD khó có hy vọng
thành công.
Loạn
Phát (ex-croissance) trong trường hợp Phạm Duy
Làm
xong 10 bài Tâm ca, PD cho người ta có cảm tưởng như thế là xong. Tâm ca đã
hoàn tất, không con có gì để nói tới nữa. Bỏ Tâm ca một cách không thương tiếc,
ông nhảy sang lãnh vực sáng tác nhạc khác..
Ngay
cùng năm đó, 1965, người ta thấy Phạm Duy sản xuất hàng loạt những bản nhạc
nghịch chiều, trái cựa như chửi cha nhau. Thoạt đầu với Huyền sử ca một người
mang tên Quốc. Một cách gián tiếp tôn vinh những người hùng trong chiến tranh,
thần tượng hóa cái chết của phi công Phạm Phú Quốc. Ông tự hào mở đầu cho dòng
nhạc hùng. Và tiếp theo đó một lô hàng sản xuất như mì ăn liền mang nhãn hiệu:
Cung khúc Võ Đại Tôn, Mùa Xuân máu đỏ, Bài ca tử sĩ cho người quê tôi. Còn tệ
hơn nữa, cũng chính năm đó, một lô sản phẩm có tên: Một hai ba, chúng ta là
lính cả làng, Thi đua biện luận, Nông thôn quật khởi.
Ông
ra Vũng Tàu trong công tác xây dựng nông thôn. Ông lại cho ra đời một loạt bài
hát như: Tay súng tay cầy, Hát hay không bằng hay hát, Cùng nhau xây ấp Mới,
Khoác áo mầu đen …
Tôi
không có ý nói rằng không nên đề cao phi công Phạm Phú Quốc cũng như những bài
thuộc xây dựng nông thôn của ông. Nhưng không thể cùng một lúc khát vọng hòa
bình, ngồi lại với nhau, sau đó lại cổ vũ chiến tranh. Và cuối cùng kết thúc
với chiến ca mùa hè vào năm 1972.
Phạm
Duy trong tình huống và cung cách sáng tác như thế đưa đến sự nghi ngờ về tính
trung thực của ông. Những sáng tác lẫn lộn ấy thể hiện tính bèo bọt, tính phù
phiếm và bán “hàng giả” của ông..
Tháng 3-1966
Chống
chiến tranh, phản chiến, khát vọng hòa bình. Đó là những gì có thể tìm thấy
trong tâm ca. Vậy mà cũng chính con người ấy, nghệ sĩ ấy, vào tháng 3-1966, ông
được bộ Ngọai giao Mỹ mời viếng thăm Hoa Kỳ. Sau đó vào năm 1970, một lần nữa,
ông được gửi sang Mỹ để “giải độc” dư luận Mỹ thường chống chiến tranh. Thật là
trái khoáy và trớ trêu quá.
Trong chuyến đi này, tại New York, ông đã có dịp gặp một nhóm chủ hòa đồng thời gặp Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, ngồi trên sân khấu hội trường cùng với nhà văn thiên tả Arthur Miller ..
Trong chuyến đi này, tại New York, ông đã có dịp gặp một nhóm chủ hòa đồng thời gặp Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, ngồi trên sân khấu hội trường cùng với nhà văn thiên tả Arthur Miller ..
Người
Mỹ phản chiến trả tiền lưu trú, đi lại cho nhà sư mặc áo vàng ngồi” tĩnh tọa”
trên bục sân khấu kêu gọi chấm dứt chiến tranh. Cũng người Mỹ trả tiền du lịch
cho một nhạc sĩ ngồi ở dưới trong “chiến dịch giải độc” những kẻ chủ hòa ngồi ở
trên ..
Ở trên, ở dưới, khoảng cách thật gần. Có hai kẻ thuộc loại chủ nghĩa thời cơ làm hai vai trò khác nhau và được chi trả theo công việc mà họ được chỉ định để làm.
Ở trên, ở dưới, khoảng cách thật gần. Có hai kẻ thuộc loại chủ nghĩa thời cơ làm hai vai trò khác nhau và được chi trả theo công việc mà họ được chỉ định để làm.
Chuyến
đi Mỹ này thật khó nghĩ quá. Đã vậy, bài hát tủ mà ông thường hát cho Mỳ nó
nghe lại là bài Giọt mưa trên lá, vì có lời bằng anh văn. Nhận tiền Mỹ, làm
công tác tuyên truyền, giải độc cho Mỹ.
Nhưng
hát Giọt mưa trên lá cho Mỹ nghe là một công việc vừa chửi Mỹ- kẻ chi tiền-,
vừa chửi chính mình-kẻ nhận tiền-.
1970
một lần nữa, ông lại được mời sang Hoa Kỳ đi với đoàn bộ thông tin Hoa Kỳ nhằm
“GIẢI ĐỘC”dư luận Mỹ trong vai trò cố vấn.
Người
Mỹ có thể nào thông minh và sáng tạo ra một Phạm Duy thủ nhiều vai trò như
thế!!~ Và vai nào Phạm Duy cũng thủ diễn trọn vẹn.
Có đến ba bốn Phạm Duy trong những câu chuyện như thế này.
Có đến ba bốn Phạm Duy trong những câu chuyện như thế này.
Vỉa hè ca:
Sang
đến năm 1968, ông sáng tác những nhạc phẩm có tên là vỉa hè ca, gợi hứng từ
Chanson du pavé của Pháp. Vỉa hè ca gồm có các bài như Sức Mấy mà buồn, Nghèo
mà không ham, Ô kê salem, Ô kê nước mắm.
Vỉa
hè ca biểu tỏ sự nghèo nàn, sự kiệt quệ, sự bế tắc trong sáng tác của Phạm Duy.
Lời văn tếu, dửng mỡ, đùa giỡn, bất cần, nó chửi tất cả gia tài sáng tác của họ
Phạm. Vỉa hè ca phải chăng là một mặt khác của cuộc đời sáng tác của Phạm Duy!
Sức mấy trở thành chữ dùng thông tục .. Cái gì cũng sức mấy ..cả . Sức mấy như
một thái độ bất cần, thách đố và coi thường tất cả ..
Tục ca:
Thấy
như chưa đủ dose, ông dấn thêm bước nữa, sản xuất tục ca để văng tục vào cái xã
hội ông đang sống. Đã có 10 bài Tâm Ca thì tại sao không có 10 bài tục ca. Đó
là cái lối lý luận của Phạm Duy.
Thế
là 10 bài tục ca ra đời với những tên rất là tục như: Khỉ đột, Tình hôi, Nhìn
Lồn.. em Đ.. Cầm cu… Ông viết, trong bấy nhiều bài, bài Nhìn Lồn, tôi viết cho
đủ chữ là “tục tĩu quá”. Đã viết tục đuợc như thế mà còn ngại ngùng chi mà
không viết đầy đủ chữ. Trẻ con nhìn lồn phụ nữ ngồi đi cầu, nhìn đủ thứ: lồn
non, lồn lớn con, mập mạp, lồn mềm… Lồn tròn hoặc lồn móm mém… rồi cuối cùng có
đứa nhìn phải đúng lồn mẹ nó. Tôi gọi là tục tĩu quá cũng không quá đáng.
Lại
một lần nữa, ông thú nhận viết tục ca là do ảnh hưởng Phạm Duy Tốn,(20) nhất là
nhạc sĩ Georges Brassens. Ông hay bắt chước quá. Và cầm nhầm nữa. Mấy bài tục
ca này phần âm nhạc thế nào thì tôi không biết, nhưng phần lời ca thì thoải mái
và gratuit quá, chẳng để làm gì. Thật sự không biết để làm gì? Từ nhìn lồn sang
đạo ca thì không biết phải nói thế nào.
(20)
Phạm Duy Tốn có viết một cuốn truyện gọi là Tiếu Lâm Annam rất là tục. Trong đó
có kể một câu truyện, người vợ thòm thèm thì nhét một củ từ vào chỗ kín, người
chồng không làm được đành ngủ với chó cái và không rút ra được. Nhưng Phạm Duy
Tốn chỉ làm công việc ” sưu tập” Tiếu Lâm Annam . Còn Phạm Duy là “sáng tác”
Đây là một bài tục ca tiêu biểu do Phạm Duy sáng tác:
Đây là một bài tục ca tiêu biểu do Phạm Duy sáng tác:
Tôi
có người yêu cái đít, to như Thẩm Thúy Hằng
Cái đít nhìn qua khiến cho ta phải ngỡ ngàng nữa
Vừa to vừa lớn ! Như Những mặt vua
Mặt ông tổng thống cũng phải thua(21)
(21) . Trích Hồi ký Phạm Duy, Ibid, tập 3..
Cái đít nhìn qua khiến cho ta phải ngỡ ngàng nữa
Vừa to vừa lớn ! Như Những mặt vua
Mặt ông tổng thống cũng phải thua(21)
(21) . Trích Hồi ký Phạm Duy, Ibid, tập 3..
Tại
sao ông lại viết tục ca để làm gì?
Theo
ông, viết tục là để châm biếm xã hội hoặc công phẫn về chính trị thời
1968-1972. Nhất là để “nổi giận” phải văng tục vào nền văn minh cơ khí, nền văn
minh chiến tranh, nền văn minh tiêu thụ.
Nổi
giận với chiến tranh, với nền văn minh tiêu thụ thì có liên quan gì đến cái đít
to tội nghiệp của Thẩm Thúy Hằng bị biến thành con tin !! Đến việc mang những
đứa trẻ nít vô tội đi nhìn L. đàn bà !!
Phải chăng Phạm Duy là một con người muôn mặt !
Phải chăng Phạm Duy là một con người muôn mặt !
Đạo ca:
Đến năm 1971, sáng tác của Phạm Duy rẽ sang một khúc quặt mới với sự gặp gỡ Phạm Thiên Thư, tức Thiền sư Tuệ Không. Phải nói rằng không gặp Phạm Thiên Thư thì không bao giờ Phạm Duy có ý tưởng viết đạo ca. Sau khi đã đi qua một hành trình sáng tác từ Tâm ca, Tâm Phẫn ca, Vỉa hè ca, Tục ca, Chiến ca và nay thì bay lên chín từng không của Đạo ca .
Đến năm 1971, sáng tác của Phạm Duy rẽ sang một khúc quặt mới với sự gặp gỡ Phạm Thiên Thư, tức Thiền sư Tuệ Không. Phải nói rằng không gặp Phạm Thiên Thư thì không bao giờ Phạm Duy có ý tưởng viết đạo ca. Sau khi đã đi qua một hành trình sáng tác từ Tâm ca, Tâm Phẫn ca, Vỉa hè ca, Tục ca, Chiến ca và nay thì bay lên chín từng không của Đạo ca .
Ở
đây, đó là một bước nhảy vào điều mà ông gọi là Đạo ca. Điều gì đã khiến ông
thay đổi như thế? Khó hiểu mà cũng dễ hiểu. Chỉ là cái duyên gặp gỡ với Phạm
Thiên Thư mà sinh ra cớ sự.
Thoạt
đầu tiên, Phạm Thiên Thư đưa ông bài thơ: Ngày xưa Hoàng Thị. Thế là có bài:
Anh tan trường về. Bài hát thật dề thương. Ai cũng thích và ai cũng hát. Nhất
là trong những buổi họp mặt đông người.
Sau
đó, Phạm Duy khoác áo Thiền sư.
Khi
đạo ca ra đời, ông cũng nhận được một số lời khen của bạn bè như họa sĩ Nguyễn
Gia Trí, G.E Gauthier và như thường lệ có họa sĩ Tạ Tỵ. Những khái niệm hóa
thân, đại vũ trụ, đồng nhất thể, mười phương thế giới là một, hòa vào đạo, vào
vũ trụ v.v… Tự nhiên, bỗng chốc ông được thừa hưởng hết những tinh hoa, cốt lõi
cao diệu ấy, đạt tới chỗ siêu thoát mà chẳng tốn đồng xu cắc bạc nào.
Những
lời khen trên có chỗ sai là người ta chỉ biết có ông, tưởng ông là người có
những tư tưởng cao diệu mà không lý gì đến Phạm Thiên Thư cả.
Nhưng
không sao, kẻ đã bỏ đời mà đi, thong dong đạo cốt theo tiếng chuông *Cam Lộ*
như Phạm Thiên Thư thì còn xá gì ba tiếng thị phi. Ông Phạm Duy cứ an tâm mà vơ
hết về mình đi.
Nhưng
Nguyễn Trọng Văn, một lần nữa đứng ở quan điểm con người dấn thân, nhập cuộc
chỉ thấy ở đó một thái độ thoát ly, chạy trốn: “Những tư tưởng thoát ly của Đạo
ca quả thực là một thái độ chạy trốn… Những tư tưởng thoát ly của Đạo ca quả
thực là một cái gì mỉa mai, lạc lõng nếu không phải là một cái gì ru ngủ… Đạo
ca không phải một thăng hóa, trái lại là một thái hóa so với tâm ca .. Đạo ca
là một nối dài của tình ca, tục ca… khi nhữing thứ này không đủ sức giúp người
thành thị thóat ly khỏi hòan cảnh đau khổ trước mắt.“(22)
(22)
Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid, trang 123- 124
Tôi
không nghĩ như Nguyễn Trọng Văn, Đạo ca vẫn có chỗ của nó trong thời chiến.
Chính ở những tình huống bi kịch đối đầu từng giây phút với cái chết, với khổ
đau, Đạo ca là con đường tối ưu dần đưa con người ra khỏi trốn lưu đầy.
Và
lúc nào, con người dù hạnh phúc hay khổ đau thì khát vọng về một thế giới bên
trên vẫn là một khát vọng khôn nguôi.
Khát
vọng tôn gíáo là một khát vọng bản thể, khát vọng vĩnh hằng.
Nhưng
cái vấn đề Phạm Duy là một thứ phù thủy ngôn ngữ lắt léo, từ Tâm ca, tục ca,
L..c, có đủ tư cách đóng vai một thiền sư dẫn dắt chúng sinh vào con đường của
Đạo, của Tuyệt đối thể với những phạm trù ngôn ngữ như tiểu ngã, đại ngã, đồng
nhất thể, mười phương thế giới là một không!
Sau 1975 tại Hải
ngoại
Trước
khi chấm dứt hành trình sáng tác của Phạm Duy, chúng ta không quên : Bày chim
bỏ xứ mà đến nay tôi chỉ được một lần nghe hát. Hình như số phận của nó cũng
giống như số phận một số nhà văn sáng tác sau 1975 ở Hải Ngoại.
Tiếng
hát, lời ca của Phạm Duy đã tắt.
Trong
thời kỳ này, từ 1978 về sau, ông sáng tác và phổ nhạc tất cả gần 100 bài hát.
Nhưng hầu như không mấy ai biết đến những bài này. Trong đó, tôi đặc biệt để ý
đến thơ Cao Tần và thơ Nguyễn Chí Thiện, loại thơ được coi là Chống Cộng mạnh
mẽ nhất đã được ông phổ nhạc. Cạnh đó là những bản nhạc do ông phóng tác như
Học Tập cải tạo, Phụ nữ Sàigòn, Độc Lập Tự Do.( Độc lập là mất Cam Ranh, Tự do
là bán dân mình cho Nga, No là cơm độn bo bo, ấm là quần rách để thò Bác ra)…
Chống Cộng quá đi ấy chứ.
Chống Cộng quá đi ấy chứ.
Chỉ
có thể nói thêm một lần nữa, đó là thứ Phạm Duy muôn mặt.
Chẳng ai còn biết tới những bài này nữa. Nó bỏ xứ mà bơ vơ lạc lõng nơi quê người, như chính thân phận bày chim bỏ xứ. Về già, về lại Việt Nam, một lần nữa, tôi lại được hân hạnh nghe ông trình bày sáng tác mới nhất của ông liên quan đến tác phẩm truyện Kiều tại nhà một đại gia ở Sài Gòn. Tôi nghe mà không thấy thích thú gì.
Bữa đó ra về, tôi tự nhủ lòng là Phạm Duy đã hết rồi.
Chẳng ai còn biết tới những bài này nữa. Nó bỏ xứ mà bơ vơ lạc lõng nơi quê người, như chính thân phận bày chim bỏ xứ. Về già, về lại Việt Nam, một lần nữa, tôi lại được hân hạnh nghe ông trình bày sáng tác mới nhất của ông liên quan đến tác phẩm truyện Kiều tại nhà một đại gia ở Sài Gòn. Tôi nghe mà không thấy thích thú gì.
Bữa đó ra về, tôi tự nhủ lòng là Phạm Duy đã hết rồi.
Cuối
cùng thì cũng phải nhìn nhận với nhau rằng, có rất nhiều bất cập trong cuộc đời
sáng tác của ông. Nhiều bản nhạc của ông cũng như cuộc đời của chính ông, số
phận của nó sẽ không còn được ai biết tới.
Nhưng ông cũng đã để lại một số bài tình ca được coi là bất hủ, cũng như một số bài được gọi là dân ca thời kháng chiến khó có thể quên, cộng thêm những bản nhạc hùng, vui tươi dành cho giới trẻ hay du ca: Mẹ Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam, Tôi yêu tiếng nước tôi, Em tan trường về. Kể chi hết được.
Nhưng ông cũng đã để lại một số bài tình ca được coi là bất hủ, cũng như một số bài được gọi là dân ca thời kháng chiến khó có thể quên, cộng thêm những bản nhạc hùng, vui tươi dành cho giới trẻ hay du ca: Mẹ Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam, Tôi yêu tiếng nước tôi, Em tan trường về. Kể chi hết được.
Một
nhận xét nhỏ đây là lần thư hai, tôi đọc hồi ký của ông. Ông không có một lời
phỉ báng bất cứ ai, nhất là giới nhạc sĩ. Dĩ nhiên không kể những lời giải
thích rất tùy tiện, khá huyênh hoang, rất chủ quan về lý do tại sao sáng tác
cái này cái kia.
Cũng trong bài này, tôi không nói tới những mối tình lớn nhỏ của ông. Một phần vì là đời tư của ông, một phần còn có cái gì để nói nữa, vì tự ông đã kể hết ra rồi trong hồi ký. Ai nói thêm nữa là thừa.
Cũng trong bài này, tôi không nói tới những mối tình lớn nhỏ của ông. Một phần vì là đời tư của ông, một phần còn có cái gì để nói nữa, vì tự ông đã kể hết ra rồi trong hồi ký. Ai nói thêm nữa là thừa.
Thứ
hai, chuyện ông chọn về VN ở tuổi trên 80 là một chọn lựa cá nhân chẳng nên nói
tới làm gì. Tìm về VN ở tuổi đời như thế nên được rộng lượng hiểu là chuẩn bị
cho một cuộc hành trình về bên kia thế giới như một giấc mơ hoài hương và chẳng
nên dem những dấu ấn chính trị để phê phán ông làm gì. Và nếu hiểu con người
Phạm Duy thì thấy rõ rằng, ông là người theo chủ nghĩa thực dụng, bất chấp
những tiêu chuẩn giá trị người đời thường mang ra dùng để phê phán ông.
Cũng
ở đây, tôi nhận ra rằng Nguyễn Trọng Văn cũng như bất cứ ai phê phán ông thì đã
vấp phải sai lầm là đã đánh giá quá cao về ông, về vai trò người nghệ sĩ, đòi
hỏi ở ông những điều ông không có được. Trước sau, ông chỉ là một người theo
chủ nghĩa duy lợi, duy thực tiễn, chủ nghĩa cơ hội trong bất cứ tình huống nào.
Sau
bài nói chuyện của Nguyễn Trọng Văn tại Đại Học Văn Khoa thì bạn bè có đưa ra
nhận xét như sau:” Cậu làm như vậy là cho ông ấy đội mồ đứng dậy, chính cậu tác
tượng cho ông ta, chứ đâu phải khai tử ông ấy. Hoặc: “Tư cách của Phạm Duy mà
cậu lôi ông vào giảng đường Văn Khoa để nói tức là cậu biến ông ấy thành bất tử
rồi, vinh hạnh cho Phạm Duy quá còn gì. Đáng lý phải nói bên cạnh đống rác hay
cầu tiêu mới phải.”(23)
(23Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid , trang 128
(23Trích Nguyễn Trọng Văn , Ibid , trang 128
Những
phát biểu bên lề như thế và một số nhận xét coi ông như một gái điếm đều là những
nhận xét xúc phạm đến ông một cách bất công. Thật không nên.
Bài
viết này có khen, có chê và cũng nhằm trả lại công đạo cho ông một phần.
Và vì thế câu hỏi ở đầu bài viết sẽ được trả lời là Phạm
Duy còn đó và không thể chết, dù muốn dù không, dù thế nào đi nữa, ông cùng với
Trịnh Công Sơn là những nhạc sĩ tài ba nhất của miền Nam Việt Nam Công Hòa
trước 1975.
Giết
ông thì Ta ở với ai. Phần ông, trong những trang cuối cùng của tập Hồi ký, ông
đã viết như sau:
“Ngó
lại những ngày đi theo Việt Minh thì chua sót, nhìn vào người quốc gia thì
thiếu hứng khởi.(…) Ngồi trước dàn máy điện toán để viết nốt những dòng chữ
cuối cùng của đời mình. Suốt trong 16 năm sống ở ngoại quốc, lúc nào tôi cũng
bị cái dĩ vãng 20 năm sống ở miền Nam đè nặng trái tim. Hãy cho tôi được xụp
lạy thành phố thân yêu ở đây với vài câu trong bài: Thương nhớ Sài Gòn soạn năm
1981 tại Mỹ:
Saigon
ơi, yêu tôi xin chờ tôi nhớ
Tôi sẽ trở về để hôn những vỉa hè
Của Thành Đô, cao sang và say đắm
Chia sớt tủi hờn và xây đắp tinh nồng
Sài Gòn ơi dù có thay tên
Mà người yêu còn nhớ không quên …
Tôi sẽ trở về để hôn những vỉa hè
Của Thành Đô, cao sang và say đắm
Chia sớt tủi hờn và xây đắp tinh nồng
Sài Gòn ơi dù có thay tên
Mà người yêu còn nhớ không quên …
Chỉ
sợ ông không hôn vỉa hè Sài Gòn mà hôn gót kẻ mà ông đã trốn chạy và chửi bới
trrong nhiều năm!!
©
Nguyễn Văn Lục
©
Đàn Chim Việt
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
.
.
.
No comments:
Post a Comment