29-4-2012
Trước biển khổ của dân tộc, những
giọt nước mắt từ bi của vị sa môn này đã nhỏ xuống đời và hòa tan trong lòng
biển nước mắt dân tộc; trong đó, một giọt dành cho hình ảnh dòng máu đỏ tươi
phun thẳng tắp lên trời của cha Ngài bị đấu tố và bị bắn chết dã man trước đình
làng hồi CCRĐ mà Ngài không thể nguôi quên. Hoàn toàn không phải Ngài khóc vì
tấm thân tù ngục. Ngay trong tù Ngài vẫn khẳng định “Tâm ta vằng vặc trăng
thu mặt hồ”...
*
Hơn chục năm qua, mấy bài Tự trào
của nhà sư làm cho tôi lúc thì hình dung Thích Quảng Độ như một nho sỹ bất đắc
chí:
Quảng Độ tên mi quê ở đâu?
Thái Bình, Tiên Hải, Xã Thanh Châu
Dốt đặc cán mai mà lên mặt
Khôn nhà dại chợ lại lên râu
Nhìn đời “tiến bộ” giương mắt ếch
Nghe đạo suy đồi vểnh tai trâu
Thôi về xếp áo đi tập hát
Theo làm nghề xiếc với ông bầu
Lúc lại có nét Lỗ Trí Thâm:
Quảng Độ là mi mi biết chưa
Vóc dáng xem ra kể cũng vừa
Mắt sáng cằm vuông râu rậm rạp
Trán cao đầu nhọn tóc lưa thưa
Chữ nghĩa lem nhem nhưng biếng học
Tính tình nóng nảy vẫn không chừa
Năm nay tuổi tác vừa năm chục
Tù ngục hai lần đã sướng chưa?
Một đôi người không hiểu những bi
phẫn bị nén thành tuyên thệ ẩn ức còn chê những vần thơ này:
Đêm ngày tôi dạy cái thằng tôi
Đạo pháp suy vi bởi lẽ trời
Thấy kẻ phá chùa: khoanh tay đứng
Nhìn người đập tượng: mắt nhắm ngồi
Bắt bớ tăng ni: thây mẹ nó
Giam cầm phật tử: mặc cha đời
Miễn được yên thân là khôn đấy
Can chi ậm ọe để thiệt thòi.
Gần đây, khi chọn người để đề xuất
ý kiến trao giải Nobel Hòa bình tôi mới có dịp tìm hiểu tương đối kỹ và mới ngộ
ra rằng hòa thượng Thích Quảng Độ không chỉ là một cao tăng Phật giáo ưu thời
mẫn thế, dũng cảm can trường mà còn là một trí thức thật sự uyên thâm, uyên bác
đã từng là giảng sư đại học, một nhà văn, một dịch giả với một kho tác phẩm rất
đáng kính nể:
Kinh Mục Liên Sám Pháp
Kinh Đại Phương tiện Phật Báo Ân
Thoát vòng tục lụy, Sài Gòn 1962;
(truyện dịch từ Hán văn của Tinh Vân)
Dưới mái chùa hoang, Sài Gòn 1962;
(truyện)
Truyện cổ Phật giáo, Sài Gòn 1964;
Từ điển Phật học Hán Việt (2 tập)
Phật Quang Đại Từ điển (9 tập)
Chiến tranh và bất bạo động
Thơ trong tù 06.04.1977-10.12.1978 (tháng 3 năm Đinh Tỵ đến tháng 11 Mậu Ngọ)
Thơ lưu đày 25.02.1982-22.03.1992 (tháng 2 năm Nhâm Tuất đến tháng 2 năm Nhâm Thân)
Vậy mà báo chí của Đảng không ngừng
bôi xấu kết tội Ngài, thậm chí họ còn loan tin đã bắt gặp TQĐ trong động lắc,
TQĐ đã làm hai ni cô có chửa, một cô đã tự tử... Thật là bỉ ổi, đê tiện hết chỗ
nói!
Xin dẫn ra một trong những bài viết
đó đăng trên báo Sài Gòn Giải phóng số ra ngày 26 tháng 8 năm 2007:
“Như đã đưa tin, các lực lượng bảo
vệ pháp luật của Nhà nước ta vừa chặn đứng một âm mưu gây rối an ninh, trật tự
do các thế lực thù địch và bọn phản động lưu vong ở nước ngoài cấu kết với một
số đối tượng cơ hội chính trị và các phần tử phản động lợi dụng tôn giáo trong
nước tiến hành. Các đối tượng này đã tung tiền dụ dỗ, mua chuộc những người
khiếu kiện nhằm kích động họ tham gia biểu tình chống chính quyền ở Hà Nội và
TPHCM. Vậy đâu là bộ mặt thật của những kẻ chủ mưu xúi giục hoặc cầm đầu kích
động người khiếu kiện gây rối?
Một trong những tên chủ mưu kích
động người khiếu kiện gây rối an ninh, làm mất trật tự xã hội là Thích Quảng
Độ, kẻ cầm đầu cái gọi là Viện hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất,
một tổ chức tôn giáo không được thừa nhận ở nước ta.
Ngày 18-7-2007, đích thân Thích
Quảng Độ đã đi phát tiền cứu trợ cho những người khiếu kiện từ một số tỉnh phía
Nam tụ tập về TPHCM, trực tiếp cầm loa tay kích động họ gây rối an ninh, trật
tự, gây bức xúc trong dư luận. Cũng chính Thích Quảng Độ cử Thích Không Tánh
mang 300 triệu đồng ra Hà Nội để mua chuộc, kích động người khiếu kiện biểu
tình chống chính quyền và sáng 23-8-2007, Thích Không Tánh đã bị các lực lượng
bảo vệ bắt quả tang khi đang chuẩn bị phát tiền cho dân khiếu kiện tập trung
trước trụ sở tiếp công dân tại số 110 Cầu Giấy.
Vậy Thích Quảng Độ là ai?
Thích Quảng Độ tên thật là Đặng Phúc
Tuệ, sinh năm 1927 tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, hiện đăng ký nhân khẩu
thường trú tại chùa Thanh Minh Thiền Viện, số 90 phố Trần Huy Liệu, phường 15,
quận Phú Nhuận, TPHCM. Xuất gia từ thuở còn trẻ, đáng lý ra nếu cứ tiếp tục quá
trình tu tập như một nhà sư phụng đạo, giúp đời thì có lẽ ông ta sẽ thấm nhuần
lòng từ bi, bác ái và truyền thống yêu nước của Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên,
nhà tu hành cá biệt này lại ngộ ra một tư tưởng đi ngược với lợi ích dân tộc,
ngoan cố, chống đối đến cùng chế độ chính trị, thành quả của cuộc cách mạng mà
hàng triệu người con của dân tộc Việt Nam đã ngã xuống mới giành được.
Theo các tài liệu và chứng cứ mà cơ
quan công an có được, trong thời gian từ tháng 4-1977 đến tháng 12-1978, Thích
Quảng Độ đã có thái độ bất mãn, chống đối chính quyền nhân dân, dọa tự thiêu và
lợi dụng việc tổ chức Đại giới đàn để thuyết giảng, vu cáo chính quyền đàn áp
Phật giáo như: Ra thông tư kêu gọi và kích động tăng, ni sinh sẵn sàng tử vì
đạo nếu cần; đồng thời nhân vụ sư cô Như Hiền uống thuốc tự vẫn (vì có hoang
thai), Thích Quảng Độ cùng một số đối tượng khác tung tin sư cô Như Hiền chết
để phản đối chính quyền.
Vì có hành vi tổ chức các hoạt động
chống đối Nhà nước, y đã bị Công an TPHCM bắt giữ, truy tố trước pháp luật. Tuy
nhiên, xét thấy mức độ vi phạm chưa nghiêm trọng, Tòa án Nhân dân TPHCM đã xử
khoan hồng, trả y về Thanh Minh Thiền Viện. Nhưng cũng kể từ đó, Thích Quảng Độ
công khai chống lại chủ trương thống nhất Phật giáo toàn quốc.
Thích Quảng Độ cùng một số đối
tượng chống đối trong cái gọi là Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất
(GHPGVNTN) tiến hành nhiều hoạt động nhằm cản trở việc chuẩn bị cho Đại hội
thống nhất Phật giáo toàn quốc, tiếp tục duy trì các hoạt động mang danh nghĩa
GHPGVNTN.
Vì lẽ đó, UBND TPHCM đã phải ra
quyết định cấm y cư trú trên địa bàn; UBND tỉnh Thái Bình cũng đồng thời ra
quyết định buộc Quảng Độ cư trú tại chùa Đông Xoài, tỉnh Thái Bình. Tuy nhiên,
từ năm 1992 đến nay, Thích Quảng Độ tự ý vào cư trú tại TPHCM và liên tục tiến
hành các hoạt động chống đối, viết và phát tán nhiều tài liệu xuyên tạc tình
hình trong nước Liên tiếp từ sau năm 1993, Quảng Độ nhân danh cái gọi là Viện
trưởng Viện Hóa đạo - GHPGVNTN ký, phát tán rộng rãi trong và ngoài nước hàng
chục loại tài liệu có nội dung đả kích, chống đối chế độ, yêu sách với Nhà nước
đòi phục hồi GHPGVNTN. Trực tiếp chỉ đạo Không Tánh, Đồng Ngọc, Nhật Thường,
lợi dụng một số đoàn khách nước ngoài đến Việt Nam tổ chức tiếp cận đưa các văn
thư, kiến nghị, nhờ những người này chuyển cho Liên hiệp quốc và các cá nhân,
tổ chức nhân quyền quốc tế can thiệp, gây sức ép với Nhà nước ta cho phép
GHPGVNTN tái phục hoạt như trước năm 1975.
Tháng 10-1994, Quảng Độ, Đức Nhuận
chỉ đạo Thích Không Tánh, Nhật Ban, Hồng Ngọc, Nguyên Lý thành lập cái gọi là
Tăng đoàn bảo vệ chánh pháp và Ban công tác từ thiện xã hội GHPGVNTN để tiến
hành các hoạt động tuyên truyền, lôi kéo, kích động tăng ni, phật tử chống lại
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Cũng trong năm 1994, lợi dụng tình
hình lũ lụt ở các tỉnh miền Tây Nam bộ, Quảng Độ đã chỉ đạo một số đối tượng
trong nhóm Tăng đoàn bảo vệ chánh pháp và Ban công tác từ thiện xã hội GHPGVNTN
tổ chức cho khoảng 150 tăng ni, phật tử trương cờ, băng rôn, khẩu hiệu mang
danh GHPGVNTN và lợi dụng việc cứu trợ để phô trương lực lượng và tuyên truyền
nhằm công khai hóa các hoạt động của GHPGVNTN.
Do Thích Quảng Độ liên tiếp có
những hành vi chống đối, ngang nhiên lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng để vi phạm
pháp luật, nên tháng 1-1995, Công an TPHCM đã thực hiện lệnh bắt tạm giam đối
với Quảng Độ. Tháng 8-1995, Tòa án Nhân dân TPHCM đã xét xử, tuyên phạt Quảng
Độ cùng nhóm của y (Không Tánh, Đồng Ngọc, Nhật Thường, Trí Lực) 5 năm tù giam
và thời hạn quản chế 5 năm về tội phá hoại chính sách đoàn kết và lợi dụng
quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước. Tuy nhiên, thực hiện chính sách
nhân đạo của Đảng, Nhà nước ta đối với người phạm tội biết ăn năn, hối cải, có
thành tích cải tạo tốt, nhân dịp Quốc khánh 2-9-1998, Chủ tịch nước đã quyết định
đặc xá, tha tù trước thời hạn cho Quảng Độ, trả về nơi cư trú cũ của y tại
Thanh Minh Thiền Viện.
Nhưng ngựa quen đường cũ, ngay sau
khi về TPHCM, Quảng Độ lại cùng Huyền Quang, Đức Nhuận được sự hậu thuẫn của số
chống đối cực đoan trong Phật giáo người Việt lưu vong hải ngoại như Võ Văn Ái
(ở Pháp), Hộ Giác và Viên Lý (ở Mỹ) lộ rõ bản chất chính trị phản động, công
khai thách thức chống chính quyền và pháp luật, kêu gọi phục hồi GHPGVNTN.
Theo những tài liệu mà cơ quan công
an thu giữ được, Quảng Độ cầm đầu, chỉ đạo số tay chân liên tục tiến hành các
hoạt động chống phá Nhà nước; trực tiếp liên lạc, trao đổi, cung cấp tài liệu
thông tin ra ngoài vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo; tổ chức,
sắp xếp nhân sự cho cái gọi là Đại hội GHPGVNTN nhiệm kỳ 9 tại Tu viện Nguyên
Thiều (tỉnh Bình Định) và giữ chức vụ Viện trưởng Viện Hóa đạo.
Liên quan đến lịch sử hình thành và
sự kiện kết thúc quá trình tồn tại của GHPGVNTN, cũng như những hành vi ngang
ngược của vị tu sĩ đặc biệt này, ngày 9-11-2005, trả lời phỏng vấn TTXVN về
việc hòa thượng Thích Quảng Độ nhân danh Viện trưởng Viện Hóa đạo GHPGVNTN ký
quyết định bổ nhiệm Ban đại diện Phật giáo một số tỉnh, thành phố phía Nam, hòa
thượng Thích Thanh Tứ, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật
giáo Việt Nam khẳng định việc làm này của ông Thích Quảng Độ là mạo xưng, không
có giá trị pháp lý, trái với Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam và
trái với pháp luật của Nhà nước Việt Nam.
Hòa thượng Thích Thanh Tứ cho biết:
GHPGVNTN ra đời tháng 1-1964 tại Sài Gòn (nay là TPHCM) với sự hợp nhất của 11
hệ phái, tổ chức Phật giáo ở miền Nam lúc bấy giờ. Tháng 11-1981, các bậc tôn
túc đứng đầu Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất đã cùng các vị đứng đầu
Phật giáo của 8 tổ chức Phật giáo khác tự nguyện gia nhập Giáo hội Phật giáo
Việt Nam.
Trong lời nói đầu của Hiến chương
Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã ghi rõ: Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức
duy nhất đại diện cho Phật giáo Việt Nam về mọi mặt quan hệ ở trong nước và
ngoài nước. Với ý nghĩa đó, về mặt lịch sử cũng như pháp lý, GHPGVNTN không còn
tồn tại theo nguyên nghĩa là một tôn giáo độc lập. Cũng trong phần trả lời
phỏng vấn này, hòa thượng Thích Thanh Tứ khẳng định: Giáo hội Phật giáo Việt
Nam tôn trọng quá khứ lịch sử của GHPGVNTN song không chấp nhận việc một số vị
mạo xưng GHPGVNTN dựng lại tổ chức đã gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam từ
năm 1981, thực chất đấy là việc làm hòng chia rẽ gây mất đoàn kết trong nội bộ
Phật giáo và tổn hại tới lợi ích dân tộc... ”
Bài báo đăng trên báo của Đảng mà
rất vô văn hóa. Tại sao dám hỗn xược, gọi xếch mé trống không: Quảng Độ, Huyền
Quang …?
Chưa kể đến sắc hàm trong giáo hội
chỉ xét tuổi tác, các vị đã xứng tuổi cha, tuổi chú không chỉ của người viết mà
cả tổng biên tập, cả chủ tịch Hội Nhà báo, cả trưởng Ban Tuyên giáo TW Đảng …
Nó lú thì còn chú nó phải biết khôn khi biên tập chứ. Sao các người lăng loàn
thế! Học tập mãi đạo đức Hồ Chí Minh để làm gì? Tốn không biết bao nhiêu tiền
của của nhân dân!
Bài báo muốn làm nhiệm vụ quảng bá
một bản cáo trạng nhằm biện giải cho hành động bạo ngược đối với các vị Hòa
thượng. Nhưng, hãy xét xem ở đây những gì được gán ghép là tội?
1- Tại sao “đích thân Thích Quảng Độ đã đi phát tiền
cứu trợ cho những người khiếu kiện từ một số tỉnh phía Nam tụ tập về TPHCM” lại
bị quy là phạm pháp nếu không được xem là nghĩa cử cao đẹp đáng được biểu
dương?.
Ai cũng biết, do chủ trương chính
sách sai lầm của Đảng đã mở đường cho kẻ chức quyền tạo lập hệ thống mafia tước
đoạt ruộng đất làm cho hàng triệu người bị thiệt thòi, hàng vạn người khiếu
kiện dài ngày hết cấp này đến cấp khác.
Họ không bị oan thì thuê bạc triệu
họ cũng không đời nào bỏ cửa bỏ nhà đi hàng trăm, hàng ngàn kilomét đến nằm vạ
vật đầu đường cuối phố thật thảm thương. Họ vốn không phải kẻ xấu, trong đó rất
nhiều người đã xả thân cho Cách mạng, nhiều thương bệnh binh, bà mẹ Việt Nam
anh hùng...
Hòa thượng chỉ đến được một địa
điểm: trụ sở Vụ Công tác phía Nam của Văn phòng Quốc hội tại số 194 Hoàng Văn
Thụ, thành phố Hồ Chí Minh để phát quà “kích động”, vậy tại hàng trăm địa điểm
khác rải rác suốt trong nam ngoài bắc thì ai kích động? Ai kích động ông Đoàn
Văn Vươn?
Thật là “ngậm máu phun người”, vu
oan giáng họa một cách trâng tráo, độc địa!
2- Do đâu nẩy sinh vấn đề “Quảng Độ nhân danh cái gọi
là Viện trưởng Viện Hóa đạo - GHPGVNTN ký, phát tán rộng rãi trong và ngoài
nước hàng chục loại tài liệu có nội dung đả kích, chống đối chế độ, yêu sách
với Nhà nước đòi phục hồi GHPGVNTN”?.
Trước hết hãy xem có chuyện: “nhân
danh cái gọi là” không?
Tổng hội Phật giáo Việt Nam được thành lập từ năm 1951
gồm các thành phần Phật Giáo Đại Thừa khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Tuy nhiên,
do quy mô phát triển ngày một rộng, ngày 31 tháng 12 năm 1963, một cuộc họp lớn
đã được tổ chức tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn nhằm đoàn kết tất cả các tổ chức Phật
giáo dưới một hiến chương chung thành một giáo hội, lấy tên là Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất. Thành phần gồm:
1. Ủy ban Liên phái Phật Giáo:
Thượng tọa
2. Giáo hội Tăng già Miền Bắc:
Thượng tọa Thích Tâm Giác
3. Thiền tịnh Ðạo tràng: Thượng tọa
Thích Minh Trực
4. Giáo hội Nguyện thủy Việt Nam:
Thượng tọa Thích Pháp Tri
5. Giáo hội Theravada: Lục cả Lâm
Em
6. Giáo hội Tăng già Miền Bắc tại
miền Nam: Thượng tọa Thích Thanh Thái
7. Giáo hội Tăng già Miền Trung:
Thượng tọa Thích Huyền
Quang
8. Giáo hội Tăng già Miền Nam:
Thượng tọa Thích Thiện Hoa
9. Hội Phật học Miền Nam: cư sĩ
Chánh Trí Mai Thọ Truyền
10. Hội Phật giáo Nguyên thủy: cư
sĩ Nguyễn Văn Hiếu
11. Hội Phật giáo Miền Trung:
Thượng tọa Thích Trí
Quang
12. Hội Việt Nam Phật giáo: cư sĩ
Vũ Bảo Vinh
13. Ðại diện Phật tử Theravada: cư
sĩ Sơn Thái Nguyên
Ở Trung ương, Giáo hội được chia
thành hai bộ phận: Viện Tăng thống trông coi hàng giáo phẩm (có thể coi như ban
nội vụ); Viện Hóa đạo đảm nhiệm liên hệ với Phật tử (tức ban ngoại vụ).
Ở cấp tỉnh, Giáo hội có Ban Đại
diện (đôi khi xuống đến cấp tùy theo nhu cầu).
Ở hải ngoại, Giáo hội có 11 chi bộ
trực thuộc Viện Hóa Đạo gồm các nước Anh, Ấn Độ, Canada, Campuchia, Đức, Lào,
Mỹ, Nhật, Pháp, Thái Lan, Thụy Sĩ.
Sinh hoạt dân sự của Giáo hội là
một bước tiến lớn trong việc hiện đại hóa Phật giáo Việt Nam
trong tinh thần nhập thế. Giáo hội đã thành lập được nhiều cơ quan, nhiều tổ
chức dân sự như: Nha Tuyên úy Phật giáo. Nhà xuất bản
Lá Bối, tuần báo Hải triều âm, tuần báo Chánh Đạo, tuần báo
Thiện mỹ, Viện Cao đẳng Phật học, trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, cùng cô
nhi viện, ký nhi viện, bệnh xá, chẩn y viện... Về mặt chính trị Giáo hội lập ra
"Lực lượng Phật giáo Việt Nam", một cơ quan thuộc Viện Hóa đạo để
tranh đấu và đề đạt nguyện vọng của Giáo hội với chính quyền.
Ngày 8 tháng 5 năm 1963, bất chấp
lệnh cấm, Phật tử ở Huế vẫn công khai trương cờ Phật giáo và bị đàn áp. Vụ việc
này đã châm lên ngòi thuốc nổ cho một chuỗi xung đột liên tục giữa chính quyền
và các hội đoàn Phật giáo. Sự kiện Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài
Gòn đã gây chấn động khắp trong và ngoài nước khiến chính phủ Ngô Đình Diệm bị
mất tín nhiệm. Năm tháng sau tổng thống Ngô Đình Diệm bị giết.
Năm 1965 Hòa thượng Thích Quảng Độ
được bầu làm Tổng thư ký Giáo hội Việt Nam Thống nhất. Tháng 5 năm 1999, tại
Đại hội lần thứ 8 của Giáo hội, Hòa thượng được bầu làm Viện trưởng Viện Hóa
đạo. Sau khi hòa thượng Thích Huyền Quang
viên tịch năm 2008, theo chúc thư để lại, hòa thượng Thích Quảng Độ đã được
chọn làm tăng thống thứ 5 của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
(Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất từ khi thành lập đến nay đã có năm vị tăng thống:
- Đệ nhất Tăng thống (1964-1973)
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết (1890-1973).
- Đệ nhị Tăng thống (1973-1979) Hòa
thượng Thích Giác Nhiên (1878-1979).
- Đệ tam Tăng thống (1979-1991) Hòa
thượng Thích
Đôn Hậu (1905-1991).
- Đệ tứ Tăng thống (2003-2008) Hòa
thượng Thích Huyền Quang
(1919-2008),
- Đệ ngũ Tăng thống (2011- ) Hòa
thượng Thích Quảng Độ. ( 1927 - ).
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất là một thực thể có quy mô thực sự lớn, đã từng có đóng góp xứng đáng cho
đất nước, cho dân tộc. Hòa thượng Thích Quảng Độ đã được bầu chọn làm một trong
các lãnh tụ chính danh của Giáo hội. Việc ngài đấu tranh đòi tổ chức được duy
trì để tiếp tục phục cho cả đạo lẫn đời là nghĩa vụ thiêng liêng cao cả mà Giáo
hội trao cho Ngài, sao Đảng, Chính phủ nỡ đàn áp dã man vô lý như vậy!
Hòa thượng Thích Thanh Tứ đã phỉ
báng rất không đúng hòa thượng Thích Quảng Độ và Gíáo hội Việt Nam Thống nhất.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam của quý ông này thì sánh sao được với quy mô, tầm
cỡ và sức cống hiến cho Đạo, cho Đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất.
*
Trên kia đã dẫn mấy bài Tự trào
từng gieo vào tâm tư tôi ấn tượng không đẹp lắm về sa môn Thích Quảng Độ; thực
tế, đây là một người có nhân cách cao vời.
Tuy nương cửa Phật nhưng Ngài vẫn
canh cánh bên lòng nỗi buồn nhân thế:
Non nước nghìn trùng mờ mịt
Cùng ai thao thức những đêm thâu?”
Còn ta nay đã bạc mái đầu
Ngày tháng trơ trơ một khối sầu
Sợ hãi vui mừng như gió thoảng
Nhờ mây nhắn gửi bấy nhiêu câu.
… vẫn nức nở cùng nỗi đau của “muôn
vạn người dân vô tội” vì đi khiếu kiện kêu oan do mất đất, mất nhà, vì xuống
đường phản đối Trung Quốc lấn chiếm Hoàng Sa, Trường Sa … mà bị đàn áp:
Tôi đứng nhìn những giọt mưa rơi
Từ mái nhà đổ xuống
Lênh láng chan hòa
Trông như những dòng nước mắt của
muôn vạn người dân vô tội
Đã chảy ra
Khi trải qua một cuộc đổi đời
Nỗi đau vì nhân dân còn bị “áp
bức đọa đày đời khổ nhục”, và vì “Đạo pháp bao trùm màn ảm đạm” khiến
Hòa thượng không còn biết có mùa xuân:
Rộn ràng tiếng én báo xuân sang
Lòng tôi nguội lạnh nắm tro tàn
Đạo pháp bao trùm màn ảm đạm
Giang sơn phủ kín lớp màu tang
Áp bức đoạ đày đời khổ nhục
Đói nghèo rách nát kiếp lầm than
Thẫn thờ đứng tựa khung cửa ngục
Nhìn bóng xuân sang mắt lệ tràn.
Trước biển khổ của dân tộc, những
giọt nước mắt từ bi của vị sa môn này đã nhỏ xuống đời và hòa tan trong lòng
biển nước mắt dân tộc; trong đó, một giọt dành cho hình ảnh dòng máu đỏ tươi
phun thẳng tắp lên trời của cha Ngài bị đấu tố và bắn chết dã man trước đình
làng hồi CCRĐ mà Ngài không thể nguôi quên.
Hoàn toàn không phải Ngài khóc vì
tấm thân tù ngục. Ngay trong tù Ngài vẫn khẳng định “Tâm ta vằng vặc trăng thu
mặt hồ” kia mà:
Thân ta trong chốn lao tù
Tâm ta vằng vặc trăng thu mặt hồ
Bao trùm khắp cõi hư vô
Lao tù đâu thể nhiễm ô tâm này
Mặc cho thế sự vần xoay
Tâm ta vẫn chẳng chuyển lay được
nào
Phải chăng Ngài đang thực hiện lời
dạy cuối cùng của Đức Phật là: “Hãy tự mình thắp đuốc lên, hãy tự mình nương
tựa nơi mình, nương tựa Chính Pháp, chứ đừng nương tựa vào một nơi nào khác”.
Bởi vì, nền tảng cơ bản về mặt tôn giáo của Đức Phật là sự phản tỉnh tự tâm. Dù
đối với lòng mong muốn một cuộc sống vô hạn hay yêu cầu giải thoát, tất cả đều
phát sinh từ nội tâm của ta.
Chẳng những thế, trong tù Ngài vẫn
bạn được với Trăng, thân thiết đến nỗi ngồi lo Trăng ốm kia mà:
Buồn vui ta vốn có nhau
Giờ đây trăng ốm ta đau buồn nhiều
Cùng mang cái kiếp cô liêu
Giữa khung trời lạnh bao nhiêu đêm
rồi
Đêm nay tâm sự bồi hồi
Thâu canh không ngủ ta ngồi với
trăng
Không chỉ có Trăng, Ngài còn có mây
dương lên cánh buồm đưa tới bến mơ:
Ráng chiều giăng mắc ven trời
Buồm mây một cánh nhẹ trôi lững lờ
Đi tìm nơi đậu bến mơ
Không gian biển rộng cõi bờ mù khơi
Và gió…
Nhưng, khi “Cửa sắt xà lim ngăn
gió lại” thì “Cánh gíó đưa qua lá xạc xào” vẫn làm cho Ngài nghe
thấy “Đêm khuya ai gọi giữa tầng cao” kia mà.
Đêm khuya ai gọi giữa tầng cao?
Cánh gíó đưa qua lá xạc xào
Cửa sắt xà lim ngăn gió lại
Sợ làm ta vỡ cuộc chiêm bao
Cho nên giam hãm tù đầy với Ngài
không nghĩa lý gì:
Những lúc trầm tư nếm vị thiền,
Lâng lâng không bợn chút ưu phiền,
Ngục thất dầu sôi thành cam lộ
Lao tù lửa bỏng hóa hồng liên.
Thậm chí đến Thần Chết cũng được
Ngài đối xử thân thiết như là bạn. (Có lẽ Ngài tin chắc chắn rằng đấy chính là
người sẽ đưa Ngài đến cõi Niết Bàn)
Xà lim trông hệt cái nhà mồ
Mỗi lần mở cửa tôi ra vô
Thấy như chôn rồi mà vẫn sống
Tử thần tôi sợ con cóc khô
Tử thần nghe vậy bèn sửng cồ
Nửa đêm đập cửa, tôi mời: dô
Sẵn có thuốc lào phèo mấy khói
Tử thần khoái trá cười hô hô!
Phật giáo không thừa nhận có một
đấng “Tạo vật Chủ”, nhất là Nguyên thủy Phật giáo, không thừa nhận một linh hồn
cố định của cá nhân, mà lấy sự kết hợp giữa Thần và Người làm bản chất. Thuyết
nghiệp báo và luân hồi cho rằng, các loài sinh vật vì cứ luẩn quản trong vòng
sinh tử nên đều có thể là họ hàng, thân thuộc của nhau, trong nhiều đời kiếp.
Tư tưởng thần thoại lại cho rằng trời, thần, tiên, ma quỷ cho đến các loài ở
địa ngục đều là sinh vật cả. Cho nên hữu tình quan của Đạo đã giúp Ngài mở rộng
được lòng mình với chúng sinh, trời đất.
Gần 200 bài thơ trong hai tập “Thơ
tù” và “Thơ lưu đầy” đậm vị Thiền mà đầy nghĩa khí, mà rất ung dung tự tại, không
bi lụy, không óan trách. Có chăng, Ngài chỉ muốn cảnh báo bọn bá vương công
hầu:
Tranh vương tranh bá với công hầu
Nước chảy tràn sông máu đượm màu
Những tưởng cuộc đời bền vững mãi
Nào ngờ bãi biển hóa nương dâu
Vì chân tu, Hòa thượng thấm nhiễm
luật điển của Bà-la-môn đã quy định: nhiệm vụ của nhà vua là làm công bộc cho
quốc dân, để mưu đồ sự thịnh vượng và công bằng trong nước, nhân dân phải lựa
chọn lấy vua của mình.
Rải rác trong bộ kinh A Hàm có
những bộ kinh nổi tiếng như Vương Pháp Chính Luận kinh (Phật nói cho vua Ưu
Ðiền), Giản Vương kinh, Vương Pháp kinh (Phật nói cho Thắng Quang Thiên Tử),
Ðại Tát Gia Ni Kiền Tử Sở Thuyết kinh (mượn lời Ðại Tát Gia Ca để nói những
điểm chủ yếu về chính trị) … Chính trị quan Phật Giáo, chứa chất trong các bộ
kinh này chủ yếu là những lời giải đáp của Phật về những câu hỏi của các nhà
chính trị, đặc biệt là các quốc vương,
Sa môn Thích Quảng Độ có làm chính
trị cũng chính là do Phật phán bảo.
Vì đấu tranh cho tự do tôn giáo và
cho dân chủ, nhân quyền, Ngài đã bị nhà chức trách tống tù từ tháng 6 năm 1977.
Đến năm 1982, Ngài cùng thân mẫu bị trục xuất về nguyên quán xã Vũ Đoài, huyện
Vũ Thư, tỉnh Thái Bình để quản thúc. Mười năm sau Ngài trở vào Nam hoạt động
công khai đòi duy trì Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tháng 1 năm 1995
Ngài lại bị Công an thành phố HCM bắt giam, kết án 5 năm tù và 5 năm quản chế.
Năm 2002 Ngài được nhận giải thưởng
vê nhân quyền của tổ chức Tiệp Khắc People in Need. Năm 2006 chính phủ Na Uy
trao giải nhân quyền.Tháng 1 năm 2008 tạp chí Different View đặt tại Châu Âu
chọn Ngài là một trong 15 người vô địch về nhân quyền cùng với các tên tuổi như
Nelson Mandela, Aung san Suu Kyi, Lech Walesa...
Từ 1999 đến nay hòa thượng Thích
Quảng Độ liên tục được đề cử xét tặng giải Nobel Hòa Bình.
Hy vọng vinh quang ấy sẽ đến vời
Ngài và cho nhân dân Việt Nam ngày gần đây.
Rút trong cuốn “ĐÊM DÀY LẤP LÁNH”
Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay Trung Văn – Từ
Liêm – Hà Nội
Mobi: 0984 724 165
.
.
.
dieu khac chan may
ReplyDeletedieu khac chan may nam
dieu khac chan may nu
điêu khắc chân mày
điêu khắc chân mày nam
điêu khắc chân mày nữ
dieu khac long may
điêu khắc lông mày
dieu khac long may nam
dieu khac long may nu