29-4-2012
Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ý
nghĩa mà chúng ta đã biết, còn là ngày để mỗi người nhìn lại chính mình, ngày
để mỗi chúng ta tự hỏi mình đã làm gì cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc
vận hành của lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác nhau,
quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể những thương tích
khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải vượt
qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không ai có quyền
bắt đất nước phải đau nỗi đau của mình hay bắt đất nước phải đi ngược chiều kim
lịch sử như mình đang đi lùi dần vào quá khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam
không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong
tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam
quyết định. Và do đó, con đường để đến một điểm hẹn lịch sử huy hoàng cho con
cháu, chính là con đường dân tộc và không có một con đường nào khác...
*
Những ngày còn nhỏ, tôi bị ám ảnh
bởi câu hỏi tự mình đặt ra “Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không
phải tại một quốc gia nào khác?”
Tôi lớn lên ở Đà Nẵng. Đường phố
quê hương tôi trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1972 có rất nhiều lính Mỹ.
Những chiến tàu nhập cảng Tiên Sa chở đầy chiến xa và súng đạn mang nhãn “Made
in USA”. Những đoàn xe vận tải hiệu Sealand, RMK gần như chạy suốt ngày đêm từ
nơi dỡ hàng ngoài bờ biển đến các kho quân sự chung quanh Đà Nẵng. Tiếng gầm
thét của các phi cơ chiến đấu có đôi cánh gắn đầy bom, lát nữa, sẽ được ném
xuống một nơi nào đó trên mảnh đất Việt Nam. Những câu lạc bộ, được gọi là “hộp
đêm”, mọc đầy hai bên bờ sông Hàn. Mỹ đen, Mỹ trắng chở hàng quân tiếp vụ đi
bán dọc chợ Cồn, chợ Vườn Hoa.
Phía trước tòa thị chính Đà Nẵng,
trước rạp hát Trưng Vương hay trong sân vận động Chi Lăng, gần như tháng nào cũng
có trưng bày chiến lợi phẩm tịch thu từ các cuộc hành quân. Những khẩu thượng
liên có nòng súng cao, những khẩu pháo nòng dài, rất nhiều AK 47, B40, súng
phóng lựu đạn và hàng khối đạn đồng vàng rực. Sau “Mùa hè đỏ lửa” trong số
chiến lợi phẩm còn có một chiếc xe tăng T54 được trưng bày rất lâu trước tòa
thị chính. Không cần phải giỏi ngoại ngữ, chỉ nhìn nhãn hiệu tôi cũng biết ngay
chúng là hàng của Trung Quốc và Liên Xô.
Nhìn viên đạn của Nga và Tàu, tôi
nghĩ đến trái tim của người lính trẻ miền Nam, giống như khi nhìn chiếc chiến
đấu cơ của Mỹ cất cánh tôi chợt nghĩ đến các anh lính từ miền Bắc xấu số đang
di chuyển bên kia sông Thu Bồn. Vũ khí là của các đế quốc. Không có khẩu súng
nào chế tạo ở miền Nam hay miền Bắc. Các bà mẹ Việt Nam chỉ chế tạo được những
đứa con và đóng góp phần xương máu.
Vũ khí của các đế quốc trông khác
nhau nhưng nạn nhân của chúng dù bên này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu
tháo đi chiếc nón sắt, chiếc mũ vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen,
vầng trán hẹp, đôi mắt buồn hiu vì nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác gì nhau. Dù “con
đường Duy Tân cây dài bóng mát” hay “mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời”
cũng là quê hương Việt Nam và nỗi nhớ trong tâm hồn người con trai Việt ở đâu
cũng đậm đà tha thiết.
Người lính miền Nam chết vì phải
bảo vệ chiếc cầu, căn nhà, xóm làng, góc phố thân yêu của họ. Nếu ai làm một
thống kê để hỏi những lính miền Nam còn sống hôm nay, tôi tin không ai trả lời
muốn “ăn gan uống máu quân thù” miền Bắc. Họ chỉ muốn sống yên ổn trong hòa
bình để xây đắp lại mảnh đất họ đã “xin chọn nơi này làm quê hương” sau khi
trải qua quá nhiều đau thương tang tóc. Họ phải chiến đấu và hy sinh trong một
cuộc chiến tự vệ mà họ không chọn lựa.
Dân chủ không phải là lô độc đắc
rơi vào trong túi của người dân miền Nam mà phải trải bằng một giá rất đắc.
Tham nhũng, lạm quyền, ám sát, đảo chánh diễn ra trong nhiều năm sau 1960. Có
một dạo, tấm hình của vị “nguyên thủ quốc gia” chưa đem ra khỏi nhà in đất nước
đã có một “nguyên thủ quốc gia” khác. Nhưng đó là chuyện của chính quyền và
nhân dân miền Nam không dính líu gì đến đảng Cộng Sản miền Bắc.
Dân chủ ở miền Nam không phải là
sản phẩm của Mỹ được đóng thùng từ Washington DC gởi qua nhưng là hạt giống do
Phan Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An
Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng nửa thế kỷ trước
đã mọc và lớn lên trong mưa bão. Không chỉ miền Nam Việt Nam mà ở đâu cũng vậy.
Nam Hàn, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Phi Luật Tân và nhiều quốc gia khác, dân chủ đã phải
trải qua con đường máu nhuộm trước khi đơm bông kết trái.
Khác với người lính miền Nam, người
lính miền Bắc chết vì viên thuốc độc bọc đường “thống nhất đất nước”. Bác sĩ
Đặng Thùy Trâm bị giết ở Quảng Ngãi đã uống viên thuốc đó. Anh Nguyễn Văn Thạc,
tác giả của hồi ký “Mãi mãi tuổi hai mươi” bị giết ở Quảng Trị đã uống
viên thuốc đó. Cô bé Trần Thị Hường 17 tuổi và chín cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc bị
bom Mỹ rơi trúng ngay hầm đã uống viên thuốc đó. Họ không biết đó là thuốc độc.
Không biết thì không đáng trách. Nhà văn Dương Thu Hương trải qua một thời
thanh niên xung phong nhưng chị may mắn còn sống để nhắc cho các thế hệ trẻ
Việt Nam hôm nay biết “chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt
con người, bịt lỗ tai con người.”
Tại sao chiến tranh diễn ra tại
Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?
Thật không công bằng cho đảng nếu
tôi chỉ dùng tài liệu trong các thư viện ở Mỹ để chứng minh âm mưu xích hóa
Việt Nam của đảng. Tôi sẽ trích những câu do đảng viết ra. Theo quan điểm lịch sử của đảng CSVN chiến
tranh đã xảy ra bởi vì “Ở miền Nam,
lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để
thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự
của Mỹ.”
Không ai hình dung “thuộc địa kiểu
mới” hình dáng ra sao và đảng cũng chưa bao giờ giải thích một cách rõ ràng.
Sau Thế chiến thứ hai, hàng loạt
quốc gia trong đó có những nước vốn từng là đế quốc, đã nằm trong vòng ảnh
hưởng kinh tế và cả chính trị của Mỹ. Chẳng lẽ 18 nước châu Âu bao gồm Tây Đức,
Áo, Bỉ, Pháp, Ý, Anh, Hòa Lan v.v... trong kế hoạch Marshall chia nhau hàng
trăm tỉ đô la của Mỹ để tái thiết đất nước sau thế chiến thứ hai đều trở thành
những “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao? Chẳng lẽ các nước Á châu như Nam Hàn,
Nhật Bản, Đài Loan được viện trợ không những tiền của mà còn bằng cả sức người
để xây dựng lại đất nước họ là “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao?
Chuyện trở thành một “căn cứ quân
sự” của Mỹ lại càng khó hơn.
Chính sách vô cùng khôn khéo của
chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dùng Đệ Lục Hạm Đội Mỹ làm hàng rào bảo vệ đất nước Thổ
ngăn chặn làn sóng đỏ Liên Xô xâm lược là một bài học cho các lãnh đạo quốc gia
biết mở mắt nhìn xa. Mặc dù là một nước trung lập trong thế chiến thứ hai, để
lấy lòng Mỹ, lãnh đạo Thổ đã tình nguyện gởi 5500 quân tham chiến bên cạnh Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên.
Quân đội Thổ chiến đấu anh dũng nhưng cũng chịu đựng tổn thất rất nặng nề. Một
nửa lực lượng Thổ đã chết và bị thương trong ba năm chiến tranh. Ngày 18 tháng
2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành hội viên của NATO
và hùng mạnh đến ngày nay.
Nhật Bản là một ví dụ khác. Trong
cuốn phim tài liệu Thế Giới Thiếu Mỹ (The World Without US) đạo diễn Mitch
Anderson trích lời phát biểu của Thủ tướng Nhật
Yasuhiro Nakasone “Nếu Mỹ rút khỏi Nhật Bản, chúng tôi phải
dành suốt mười năm tới chỉ để lo tái võ trang trong nhiều mặt, kể cả sản xuất
võ khí nguyên tử”. Một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới với
Tổng Sản Lượng Nội Địa năm 2011 lên đến 5855 tỉ đô la nhưng dành vỏn vẹn một
phần trăm cho ngân sách quốc phòng chỉ vì Nhật dựa vào khả năng quốc phòng của
Mỹ và sự có mặt của 35 ngàn quân Mỹ. Khác với chủ trương “đánh cho Mỹ cút ngụy
nhào” của Hồ Chí Minh, trong một thống kê mới đây, 73 phần trăm công dân Nhật biết ơn
quân đội Mỹ bảo vệ họ.
Đứng trước một miền Bắc điêu tàn
sau mấy trăm năm nội chiến và thực dân áp bức, một giới lãnh đạo nếu thật tâm
thương yêu dân tộc trước hết phải nghĩ đến việc vá lại những tang thương đổ vỡ,
đưa đất nước ra khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Ngay cả thống nhất là một ước mơ
chung và có thật đi nữa cũng cần thời gian và điều kiện. Con người trước hết
phải sống, phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, học hành trước khi nghĩ đến chuyện
đoàn tụ với đồng bào và bà con thân thuộc.
Ngoại trừ các
lãnh đạo Cộng Sản, trên thế giới chưa có một giới lãnh đạo thể hiện lòng yêu
nước bằng cách giết đi một phần mười dân số, đốt cháy đi một nửa giang sơn của
tổ tiên để lại, dâng hiến hải đảo chiến lược cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc
mà gọi đó là “thống nhất đất nước” và “hòa hợp dân tộc”.
Cũng trong tài liệu chính thức của
đảng, ngay cả trước khi ký hiệp định Geneve và khi Việt Nam chưa có một dấu
chân người lính Mỹ nào, hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng CSVN
từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng CSVN
đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ “Hiện nay
đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù
chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm
chống đế quốc Mỹ".
Vào thời điểm trước 1954, dân tộc
Việt Nam thật sự có một mối thù không đội trời chung với Mỹ sâu đến thế sao hay
giới lãnh đạo CSVN chỉ vẽ hình ảnh một “đế quốc Mỹ thâm độc đầu sỏ” như một lý
do để chiếm toàn bộ Việt Nam bằng võ lực, và cùng lúc để phụ họa theo quan điểm
chống Mỹ điên cuồng của chủ nô Mao Trạch Đông sau cuộc chiến Triều Tiên?
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau gần
một thế kỷ với bao nhiều tổn thất máu xương, tù ngục, mục tiêu Cộng Sản hóa
Việt Nam của đảng cuối cùng đã đạt được. Lê Duẩn, trong diễn văn mừng chiến
thắng vài hôm sau đó đã nói “vinh quang này thuộc về đảng Lao Động Việt Nam quang vinh, người tổ
chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Lời phát biểu của họ Lê nhất quán
với nghị quyết của đại hội Đảng Cộng sản
Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm, ghi rõ: "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc
cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc
và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và
sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”
Mới đây, Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN, trong
chuyến viếng thăm Cu Ba, cũng lần nữa khẳng định “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu
tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội
là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa
xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam....
Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực
đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong
trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất
nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân
dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Nhiều người cho rằng Nguyễn Phú
Trọng nói những câu lạc hậu, lỗi thời mà không biết mắc cỡ. Tôi tin y nói một
cách chân thành và hãnh diện. Nhờ tài lãnh đạo mà đảng CSVN đã tồn tại dù cả
một hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh như Liên Xô đã phải sụp đổ.
Đối diện với thời đại toàn cầu hóa, nội chung chủ nghĩa
Mác về mặt kinh tế đã phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu tồn tại của đảng nhưng
cơ chế nhà nước toàn trị sắc máu theo kiểu Lê Nin, Stalin chẳng những được duy
trì mà còn củng cố chặt chẽ và nâng cấp kỹ thuật cao hơn. Dù ngoài miệng có hát bài hòa hợp hòa giải thắm đượm
tình dân tộc, bên trong, các chính sách của Đảng vẫn luôn kiên trì với mục tiêu
toàn trị và bất cứ ai đi ngược với mục tiêu đó đều bị triệt tiêu một cách tàn
nhẫn.
Dưới chế độ Cộng Sản, không những
người dân bị ràng buộc vào bộ máy mà cả các lãnh đạo cũng sinh hoạt trong khuôn
khổ tổ chức và nghiêm chỉnh thực thi các nguyên tắc lãnh đạo độc tài sắt máu do
đảng của họ đề ra. Điều đó giải thích lý do giọng điệu của những cựu lãnh đạo
Cộng Sản như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn An, Nguyễn Khoa Điềm sau khi rời chức vụ
giống như những người vừa được giải phẫu thanh quản, nói dễ nghe hơn nhiều so
với thời còn trong bộ máy cầm quyền. Họ không phải là những người “buông dao thành
Phật” nhưng chỉ vì họ đã trở về với vị trí một con người bình thường, ít bị
ràng buộc trong cách ăn cách nói, cách hành xử, cách khen thưởng và trừng phạt
như khi còn tại chức.
Giới lãnh đạo Cộng Sản được trui
rèn trong tranh đấu, được huấn luyện chính trị từ cấp đội, cấp đoàn trước khi
giữ các vị trí then chốt trong đảng và nhà nước CS. Họ nắm vững tâm lý và vận
dụng một cách khéo léo tâm lý quần chúng để phục vụ cho các chính sách của đảng
trong từng thời kỳ. Sau biến cố Thiên An Môn, để đánh lạc hướng cuộc đấu tranh
đòi dân chủ của thanh niên sinh viên, nhà cầm quyền Cộng Sản Trung Quốc khai
thác lòng căm thù chính sách quân phiệt của Nhật đã xảy ra từ thế kỷ trước. Lợi
dụng việc Bộ Giáo dục Nhật bản liệt kê biến cố tàn sát Nam Kinh như một tai nạn
trong sách giáo khoa, nhà cầm quyền Trung Quốc đã khuyến khích hàng chục ngàn
thanh niên sinh viên Trung Quốc biểu tình suốt 3 tuần lễ trước tòa đại sứ Nhật.
Việt Nam cũng thế. Trong chiến tranh biên giới 1979, các lãnh đạo CSVN đã lần
nữa sử dụng thành công viên thuốc độc bọc đường “bảo vệ tổ quốc”. Máu của hàng
vạn thanh niên Việt Nam đổ xuống dọc biên giới Việt Trung phát xuất từ tình yêu
quê hương trong sáng và đáng được tôn vinh, tuy nhiên, nếu dừng lại một phút để
hỏi, họ thật sự chết vì tổ quốc hay chỉ để trả nợ xương máu giùm cho đảng CSVN?
Với tất cả thông tin được phơi bày,
tài liệu được giải mật cho thấy, cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” mà giới lãnh
đạo CSVN đưa ra thực chất chỉ là cái cớ. Không có một người lính Mỹ nào đến
Việt Nam, đảng vẫn cộng sản hóa miền Nam cho bằng được. Bộ máy tuyên truyền
tinh vi của đảng thừa khả năng để nghĩ ra hàng trăm lý do khác để đánh miền
Nam.
Đảng CSVN là
nguyên nhân khiến cho nhiều triệu người Việt vô tội ở hai miền đã phải chết một
cách oan uổng, bao nhiêu thế hệ bị suy vong, bao nhiêu tài nguyên bị tàn phá và
quan trọng nhất, chiếc còng Trung Quốc mà đảng thông đồng để đeo trên cổ dân
tộc Việt Nam mỗi ngày ăn sâu vào da thịt nhưng không biết làm sao tháo gỡ xuống
đây.
Nói theo cách viết của nhạc sĩ Việt
Khang “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời, và ta đã tỏ tường rồi”, chiến
tranh xảy ra tại Việt Nam mà không ở đâu khác chỉ vì Việt Nam có đảng Cộng Sản.
Ngoại trừ các em, các cháu bị nhào
nặn trong nền giáo dục ngu dân một chiều chưa có dịp tiếp xúc với các nguồn
thông tin khách quan khoa học, nếu hôm nay, những người có học, biết nhận thức
mà còn nghĩ rằng cuộc chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cuộc chiến
“chống Mỹ cứu nước”, những kẻ đó hoặc bị tẩy não hoàn toàn hoặc biết mình sai
nhưng tự dối lòng để tiếp tục sống cho hết một kiếp người.
Cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ đất
nước hiện nay, do đó, còn rất khó khăn, đôi gánh non sông còn rất nặng và hành
trình tự do còn khá xa xôi.
Sau 37 năm, “hàng triệu người buồn”
như ông Võ Văn Kiệt nói, nếu chưa qua đời, hôm nay vẫn còn buồn.
Nhưng người buồn không phải chỉ từ
phía những người lính Việt Nam Cộng Hòa bị buộc buông súng, từ phía nhân dân
miền Nam bị mất tự do mà còn là những người miền Bắc, cả những người trong đảng
CS đã biết ra sự thật, biết mình bị lừa gạt, biết mình đã dâng hiến cả một cuộc
đời trai trẻ cho một chủ nghĩa độc tài, ngoại lai, vong bản.
Gần mười năm trước tôi kết luận bài
viết về ngày 30 tháng 4 bằng ba phân đoạn dưới đây và năm nay, tôi kết luận một
lần nữa cũng bằng những dòng chữ đó để chứng minh một điều, tuổi trẻ của tôi có
thể qua đi nhưng niềm tin vào tuổi trẻ trong tôi vẫn còn nguyên vẹn.
Như lịch sử đã chứng minh, chính
nghĩa bao giờ cũng thắng. Không có vũ khí nào mạnh hơn sức mạnh đoàn kết dân
tộc. Chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc, chúng ta mới có khả năng bảo vệ được chủ
quyền và lãnh thổ Việt Nam, chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có
khả năng vượt lên những hệ lụy quá khứ để hướng vào tương lai tươi sáng cho đời
đời con cháu mai sau và chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả
năng phục hồi sự kính trọng Việt Nam trong lân quốc cũng như trong bang giao
quốc tế.
Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ý
nghĩa mà chúng ta đã biết, còn là ngày để mỗi chúng ta nhìn lại chính mình,
ngày để mỗi chúng ta tự hỏi mình đã làm gì cho đất nước, và đang đứng đâu trong
cuộc vận hành của lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác
nhau, quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể những thương
tích khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải
vượt qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không ai có
quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau của mình hay bắt đất nước phải đi ngược
chiều kim lịch sử như mình đang đi lùi dần vào quá khứ. Sức mạnh của dân tộc
Việt Nam không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không
nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân
dân Việt Nam quyết định. Và do đó, con đường để đến một điểm hẹn lịch sử huy
hoàng cho con cháu, chính là con đường dân tộc và không có một con đường nào
khác.
Ba mươi bảy năm là một quảng đường
dài. Chúng ta đã hơn một lần trễ hẹn với non sông, nhưng không phải vì thế mà
không còn cơ hội. Cơ hội vẫn còn đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được hướng
đi chung của dân tộc và thời đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng đất nước chỉ
có một tương lai, đó là tương lai tự do, dân chủ, nhân bản và khai phóng cho
những ai, sau những điêu tàn đổ vở, còn biết nhận ra nhau, còn biết yêu thương
mảnh đất thiêng liêng, vinh quang và thống khổ Việt Nam.
.
.
.
dieu khac chan may
ReplyDeletedieu khac chan may nam
dieu khac chan may nu
điêu khắc chân mày
điêu khắc chân mày nam
điêu khắc chân mày nữ
dieu khac long may
điêu khắc lông mày
dieu khac long may nam
dieu khac long may nu