Trúc Giang, Minnesota
Monday, 30 April 2012 17:32
1* Mở bài
Mỗi năm, ngày 30 tháng tư
gợi lại vết thương đau buồn và mất mát của người Việt hải ngoại, người Việt mất
nước, người Việt tỵ nạn, người Việt chạy trốn chế độ độc tài Cộng Sản.
2* Chiến dịch
“Gió lốc” (Operation Frequent Wind)
2.1. Chiến dịch Frequent
Wind
Chiến dịch Gió lốc
(Operation Frequent Wind) là một cuộc di tản bằng trực thăng của Hoa Kỳ và của
Việt Nam Cộng Hòa, diễn ra từ ngày 29 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Có 50,493 người, trong đó
có 2,548 trẻ mồ côi được di tản từ phi trường Tân Sơn Nhất. Các phi công đã bay
tổng cộng 1,054 giờ, với 682 chuyến bay trong chiến dịch. Đã có hơn 7,000 người
được di tản bằng trực thăng tại nhiều địa điểm khác nhau ở Sài Gòn.
Chiến dịch có 4 phương án:
1. Phương án 1. Di tản bằng
phi cơ dân sự tại phi trường Tân Sơn Nhất
2. Phương án 2. Di tản bằng
phi cơ quân sự
3. Phương án 3. Di tản bằng
tàu thuyền từ cảng Sài Gòn
4. Phương án 4. Di tản bằng
trực thăng, bóc người đưa đến các chiến hạm ngoài khơi.
Ngày 28-4-1975, phi trường
Tân Sơn Nhất bị pháo kích và bị 5 phi cơ A-37 ném bom, nên di tản bằng phi cơ
cánh cố định chấm dứt, và phương án Operation Frequent Wind, di tản bằng trực
thăng bắt đầu.
2.2. Giai đoạn chuẩn bị
Đây là một chiến dịch được
chuẩn bị trước rất tỉ mỉ. Cả một hạm đội gồm 50 chiến hạm được huy động từ
nhiều tháng trước ngày 30-4-1975.
Đầu tháng 3 năm 1975, khu
trục hạm USS Kirk được lịnh nhổ neo từ căn cứ San Diego, để đi hộ tống hàng
không mẫu hạm USS Hancock. Hàng không mẫu hạm Hancock được lịnh cặp bến Hawaii,
để đưa những chiến đấu cơ lên bờ và thay vào đó bằng những trực thăng vận tải
của TQLC/HK, rồi trực chỉ đến Biển Đông.
Chiếc USS Kirk bắt đầu vào
cuộc, với Chiến dịch Eagle Pull để di tản 300 người Mỹ rời khỏi Phnom Penh.
Campuchia thất thủ ngày 17-4-1975. Sau đó, chiếc USS Kirk xuôi xuống phía nam,
hướng về Singapore để cùng với khu trục hạm USS Cook hộ tống hàng không mẫu hạm
Midway, thả neo chờ tham gia chiến dịch Frequent Wind.
2.3. Kế hoạch bí mật, không
chỉ cứu những con tàu
Chiến dịch Frequent Wind do
ông Richard L. Armitage phụ trách. Ông nguyên là một sĩ quan HQ/HK, lúc đó là
đặc phái viên của Bộ QP/HK, thực hiện nhiệm vụ lập kế hoạch di tản những chiến
hạm của HQ/VNCH, cụ thể là giải cứu những chiến hạm và kỹ thuật công nghệ được
trang bị trên những chiến hạm đó. Nếu không giải cứu được thì phá hủy, để không
bị lọt vào tay CSBV làm chiến lợi phẩm. Nhiệm vụ chính của ông Armitage là cứu
những con tàu, không để lọt vào tay VC.
Khu trục hạm USS Kirk cùng
thủy thủ đoàn 200 người, được lịnh đến đảo Côn Sơn, là nơi được chọn để tập
trung tàu bè và người di tản tại đó.
Một vài tuần lễ trước ngày
30-4-1975, ông Armitage đã có mặt tại văn phòng của người bạn thân là đại tá Đỗ
Kiểm, Tư lịnh phó HQ/VNCH. Hai người lập kế hoạch giải cứu những chiến hạm của
HQ/VNCH.
Đại tá Kiểm cho ông
Armitage biết rằng, muốn đưa những con tàu rời VN, thì phải cần thủy thủ đoàn,
nhưng thủy thủ VN sẽ không đi, nếu gia đình của họ không được đi theo. Kế hoạch
cứu thoát những con tàu đưa đến việc di tản người lánh nạn Cộng Sản. Ông Armitage
không báo cáo với thượng cấp về việc nầy, vì lo ngại chính quyền Mỹ có thể
không giải cứu họ.
Cả hai ông, đại tá Kiểm và
Armitage không ước lượng được con số người di tản là bao nhiêu.
2.4. Chiến hạm USS Kirk bắt
đầu tiếp nhân trực thăng di tản
Khu trục hạm USS Kirk là
mục tiêu cho trực thăng đáp xuống.
Từ sáng sớm ngày 29-4-1975,
USS Kirk loan báo, có một sân đáp dành cho trực thăng trên boong, nhưng suốt
buổi sáng không có trực thăng nảo đến cả. Mãi đến xế chiều, một trực thăng UH-1
của KQ/VNCH dẫn theo 16 chiếc UH-1, 1 chiếc CH-47 Chinook khổng lồ với 2 chong
chóng và 1 chiếc vũ trang Cobra, cùng với 200 người di tản đã có mặt trên chiếc
Kirk. Trong số UH-1, có 1 chiếc của Air America, là hảng hàng không của CIA.
2.5. Hỗn loạn ở Côn Sơn
Ngày 1-5-1975, chiếc Kirk
đã có mặt ở Côn Sơn từ hừng sáng. Đã có 30 tàu HQ/VNCH, hàng chục tàu đánh cá
và tàu chở hang, đầy khẳm những người tỵ nạn ở khu tập trung nầy.
Ông Kent Chipman, một người
thợ máy, lúc đó 21 tuổi, thuật lại: “Những con tàu nhồi nhét đầy người, tôi
không thể xem bên dưới lòng tàu, nhưng trên boong tàu thì chật cứng, người san
sát nhau”.
Một tài liệu lịch sử cho
rằng có khoảng 30,000 người.
Một số tàu không còn chạy
được, nên họ cùng lôi kéo nhau đi. Một chiếc quá khẳm nên đang chìm. Nhiều
người trên tàu nhảy xuống biển. Một trung úy HQ/VNCH nổ lực giúp hành khách rời
khỏi chiếc tàu đang chìm. Hành khách được chuyển sang tàu kế bên bằng một tấm
ván gỗ hẹp. Cảnh hỗn loạn xảy ra.
Một người đàn ông ra tay
đánh ngã một phụ nữ phía trước anh ta, cô bị rơi xuống biển, và được cứu vớt.
“Người trung úy VN không hề
lưỡng lự, anh ta đến ngay sau anh chàng đó, rút súng bắn một phát vào đầu giết
chết anh ta, rồi đá xác qua một bên, tiếp tục cứu người. Cú bắn thật kinh
hoàng, nhưng ngăn chặn được hỗn loạn”. Ông Stephen Burwinkel, người y tá trên
chiếc Kirk thuật lại như thế.
2.6. Các chiến hạm Hải quân
Việt Nam Cộng Hòa tự giải giới
Đến thứ ba, ngày 6-5-1975,
toàn thể hạm đội di tản của HQ/VNCH gần đến cảng Subic (Philippines).
Lịnh ban ra: “Tất cả những
chiến hạm phải tự giải giới hoàn toàn”. Tàu chiến Mỹ cho những Cano cặp vào
những chiếc tàu nầy để hốt hết súng ống, đạn dược.
Trên đường đi, thủy thủ và
y tá Mỹ cung cấp nước uống, thức ăn, thuốc men và khám bịnh cho người tỵ nạn.
Trên đại dương, ở hải phận
quốc tế, chiếc tàu nào đăng ký ở quốc gia nào, mang cờ nước nào, thì được xem
như là lãnh thổ của quốc gia đó. Vì thế, một đứa trẻ được sinh ra trên tàu, thì
có quyền xin được mang quốc tịch của quốc gia của chiếc tàu.
Qua 6 ngày trên biển, trong
30,000 người tỵ nạn, đã có 3 người thiệt mạng và được thủy táng, vì Philippines
không cho phép mang xác chết lên nước họ.
Khi đoàn tàu đến gần
Philippines thì thuyền trưởng chiếc Kirk, nhận được một tin không tốt lành gì.
Đó là chính phủ của Tổng thống Ferdinand Marcos e ngại rằng sự hiện diện của
tàu HQ/VNCH có thể gây khó khăn về ngoại giao của họ, đối với chính quyền CSVN.
Hạm trưởng Jacobs của chiếc Kirk kể lại: “Chính phủ Philippines không cho phép
chúng tôi vào cảng Subic và đề nghị những con tàu nên trở về Việt Nam”.
Đại tá Đỗ Kiểm và ông
Armitage đưa ra một giải pháp buộc Tổng thống Ferdinand Marcos phải chấp nhận.
Đó là cờ VNCH được hạ xuống và trương cờ Mỹ lên, chứng tỏ những con tàu nầy là
của Hoa Kỳ.
Mà thật, những con tàu nầy
là của HK. Cơ sở lý luận là, trong chiến tranh, tàu HK được trao cho VNCH như
là một khoản cho mượn để chống Cộng Sản, nhưng bây giờ chiến tranh kết thúc, HK
thu hồi những chiếc tàu nầy trở lại. Thế là một cuộc tìm kiếm khó khăn, làm sao
có đủ 30 lá cờ Mỹ trong lúc ở trên mặt biển.
Buổi lễ hạ cờ chính thức.
Hàng chục ngàn người VN
trên các con tàu bắt đầu hát quốc ca. Cờ VNCH hạ xuống trong những tiếng bật
khóc. Khóc. Và khóc… Chưa bao giờ có một buổi lễ hạ cờ đầy xúc động đến như
thế.
Lãnh thổ VNCH cuối cùng đã
mất thật sự. Cái đau gậm nhấm khôn nguôi của người Việt miền Nam là mất nước.
Những người còn lương tri thì không nên quên nổi nhục đó.
3* Chiến dịch
di tản trẻ sơ sinh (Operation Babylift)
3.1. Chiến dịch
Tháng 4 năm 1975, miền Nam
đang sụp đổ dưới sự tấn công của Cộng Sản Bắc Việt, Tổng thống Gerald Ford lý
lịnh cho thực hiện chiến dịch di tản để cứu trẻ “mồ côi”, cho rằng, có thể VC
sẽ không nương tay, vì một số là con lai Mỹ.
Hoàn cảnh buộc phải di tản
trẻ thơ
Những trẻ mang tên là trẻ
“mồ côi”, thật ra là đã có cha hoặc mẹ còng sống, nhưng vì hoàn cảnh nào đó, họ
đã từ bỏ các em, đưa vào cô nhi viện, mang tên trẻ mồ côi.
Một số những người chăm sóc
các em là những người ngoại quốc vào VN làm công tác thiện nguyện cho các nhà
thờ và các tổ chức từ thiện nước ngoài. Họ phải rời VN. Trong hoàn cảnh vô củng
hỗn độn của những ngày gần cuối tháng 4 năm 1975, hàng chục ngàn gia đình VN
đang chờ di tản. Trẻ mồ côi cũng không thể bị bỏ rơi trong hoàn cảnh hỗn độn đó
được. Những người thiện nguyện HK đã nổ lực vận động, đưa các em ra khỏi VN để
tiếp tục được chăm sóc và nuôi dưỡng. Các em đã bị cha mẹ bỏ một lần rồi, không
thể bị bỏ lần thứ hai, cho nên việc di tản trẻ mồ côi là đầy lòng nhân đạo.
Một điển hình là bà Betty
Tisdale, đã nổ lực chạy đôn chạy đáo để hoàn thành thủ tục làm hồ sơ xuất cảnh
cho 219 trẻ sơ sinh rời VN. Bà Tisdale thuật lại: “Tôi chạy đến bịnh viện Nhi
đồng, xin 225 mẫu giấy khai sanh, rồi điền vào ngày giờ và nơi sanh một cách
nhanh chóng. Tôi hoàn toàn không biết những em bé nầy là con của ai, sinh ra
lúc nào, nơi nào. Những ngón tay của tôi cứ viết đại để tạo ra những bản khai
sanh. Tôi tức tốc đến gặp đại sứ Graham Martin xin phương tiện di tản cho các
em. Đại sứ bằng lòng với điều kiện các thủ tục giấy tờ phải được chính phủ VN
chấp thuận.”
Ông Edward Daly, chủ tịch
World Aiways đang có mặt ở VN, trong lúc đó, thì con gái của ông là một thiện
nguyện viên đang ở Colorado, đánh điện xin ông giúp đở cho trẻ mồ côi được ra
đi.
Chiến dịch Babylift được
thực hiện trong 3 tuần lễ, từ ngày 2-4-1975 đến ngày 26-4-1975. Tổng cộng có 26
chuyến bay, đã đưa 2,548 trẻ mồ côi đến Hoa Kỳ. Sau đó, các em được các gia
đình Mỹ nhận làm con nuôi.
3.2. Bắt đầu bằng tang tóc
Chiếc Lockheed Martin C-5A
Galaxy, được xem là phi cơ vận tải lớn nhất thế giới, đã từng chở xe tăng và
cầu quân sự nặng 70 tấn, từ căn cứ không quân Clark (Philippines) được phái đến
Sài Gòn, trong nhiệm vụ di tản trẻ thơ, bắt đầu từ ngày 4-4-1975.
Ngày 4-4-1975, lúc 4:15
chiều, sau khi 328 trẻ em và người lớn, trong đó có nhân viên sứ quán Mỹ và
nhiều nhân viên của các đơn vị Mỹ, được đưa lên máy bay. Chiếc C-5 bắt đầu rời
đường băng.
Khoảng 12 phút sau, cách
phi trường Tân Sơn Nhất 64km, thì một biến cố xảy ra. Cửa sau, nằm dưới bụng
phi cơ, là nơi đưa hành lý lên tàu, đã bung ra và bị thổi bay mất. Hành khách
bị xô ngã, nhiều người bị thương. Một nhân viên phi hành ngồi gần cửa bị hút
bay ra khỏi phi cơ. Những người còn lại bất tĩnh do thiếu dưỡng khí. Hai phi
công chính và phụ không còn điều khiển được phi cơ, nên quyết định trở lại Sài
Gòn.
C-5 không phải là phi cơ
chở hành khách, cho nên những mặt nạ tiếp dưỡng khí không được thiết kế cho trẻ
em, vì thế, các em được bế lên cao để gắn mặt nạ dưỡng khí vào. Linda Adam, một
y tá quân y kể lại như thế.
Khi còn cách Sài Gòn 5km,
phi cơ mất độ cao, lao mình ầm ầm xuống cánh đồng lúa ngập nước, đụng phải con
đê, gãy làm 4 khúc, và bình xăng phát cháy.
Trên cánh đồng lúa thuộc
khu vực Cát Lái, cảnh tang tóc với những xác người nằm vương vãi trên bùn đất.
153 người thiệt mạng, trong
đó có:
98 trẻ em. 34 nhân viên bộ
QP/HK. 5 dân sự. 11 nhân viên KQ/HK. Và những y tá của nhiều quốc gia.
175 người sống sót.
Có nhiều giả thuyết về lý
do xảy ra tai nạn: cho rằng bị phá hoại do những người thân Cộng muốn phá kế
hoạch di tản trẻ thơ, do lỗi thiết kế của công ty Lockheed, và cho rằng phi cơ
không được bảo trì chu đáo.
Người chị của một y tá
thiệt mạng, đại diện cho các nạn nhân, đâm đơn kiện tập thể, đòi công ty
Lockheed bồi thường 200 triệu USD. Việc điều tra được tiến hành, và cho mãi tới
năm 1990 vẫn chưa có kết quả.
4* Những di
sản của chiến dịch Babylift
4.1. Không có hồ sơ lý lịch
cá nhân
Ngày 5-4-1976, tờ Time cho
biết, nhiều trẻ em hoàn toàn không có hồ sơ về lý lịch cá nhân, đó là những con
người không có họ và tên, không có giấy tờ chứng minh ngày và nơi sinh, quốc
tịch…cho nên không thực hiện hồ sơ con nuôi.
Cục di trú và nhập tịch cho
biết, có 1,671 em hợp lệ, và 353 không hợp lệ.
4.2. Bi kịch gia đình
Nhiều trường hợp đau lòng
khó xử xảy ra.
- Bà Hà Thị Võ
Người từng đưa 3 đứa con đi
theo chương trình Babylift, khi đến Mỹ, đưa đơn kiện, khi nhận ra đứa con út 3
tuổi tại một gia đình nhận con nuôi, bà đòi con lại. Cậu bé không nhận bà,
khiến cho nhà chức trách bác bỏ yêu cầu của bà.
- Bà Doãn Thị Hoàng An
Bà An ở bang Montana, nhận
mình là mẹ ruột của cậu bé Ben, 4 tuổi, được vợ chồng Johnny và Bonnie Nelson
nhận làm con nuôi từ chương trình Babylift.
Khi ra toà, cậu bé Ben
không nhận bà Hoàng An, không có phản ứng trước những cử chỉ triều mến và
thương yêu của bà Hoàng An, dù vậy, tòa phán quyết cậu Ben thuộc về bà mẹ Việt
Nam.
Thế là vợ chồng Nelson tiếp
tục đưa đơn kiện lên toà thượng thẩm.
5* Trở về cố
hương
5.1. Trẻ mồ côi trở về Việt
Nam trong vai trung tá Mỹ
Cô Kimberly Mitchell có
chuyến về Việt Nam trong vai một trung tá Mỹ.
Gần 40 năm sau khi được một
trung sĩ Mỹ, thuộc KQ/HK và vợ ông, nhận làm con nuôi năm 1972, cô Mitchell
được biết là một trẻ sơ sinh mang số 899, bị bỏ rơi tại cô nhi viện Thánh Tâm,
Đà Nẳng.
Trung tá Mitchell hiện là
Phó giám đốc văn phòng Trợ giúp Quân nhân và Thân nhân tại Bộ QP/HK, cho biết:
“Tôi muốn cố gắng nối kết lại với quá khứ còn chưa biết của mình. Trung tá
Mitchell đã thăm Sài Gòn và Đà Nẳng trong chuyến đi một tuần lễ về VN.
Chuyến thăm tại trại mồ côi
Thánh Tâm, nay là một tu viện, được coi là phần xúc động nhất của chuyến đi.
Tại tu viện, Mitchell gặp “Sơ” Mary, là người đã từng làm việc trong thời gian
tiếp nhận em bé số 899 vào cô nhi viện. “Sơ Mary cho biết, cái tên mà họ đặt
cho tôi là Trần Thị Ngọc Bích, nghĩa là viên ngọc quý. Đây là chuyến thăm của
một đời người, nghĩa là một lần duy nhất. Tôi chắc chắn sẽ không chờ 40 năm nữa
để quay trở lại”, Mitchell thuật lại.
5.2. Phim Ngưòi con gái Đà
Nẳng (The daughter from Da Nang)
Phim tài liệu The daughter
from Da Nang được đề nghị lãnh giải Oscar về loại phim tài liệu. Phim đã chiếm
nhiều giải nhất trong các Đại Hội Điện Ảnh (Film Festival) Hoa Kỳ năm 2002:
Sundane Film Festival, San Francisco International, Ojai Film Festival,
Durango, Colorado, Texas, New Jersey International, Nashville, Cleveland.
Nội dung phim
Vào những ngày sau cùng của
cuộc chiến VN, chính phủ Gerald Ford đã bỏ ra 2 triệu USD để mở chiến dịch
Babylift. Gần 3,000 trẻ mồ côi từ VN sang Hoa Kỳ, Canada, Pháp và Úc để làm con
nuôi.
Cuộc di tản bắt đầu bằng
một tai nạn kinh hồn làm chết hàng trăm trẻ em.
Cuốn phim xoay chung quanh
cuộc đời của Heidi Bub và trong chuyến đi tìm mẹ ruột sau 22 năm.
Heidi Bub sinh năm 1968 tại
Đà Nẳng, con của bà Mai Thị Kim và một quân nhân Hoa Kỳ.
Chồng bà Kim là Đỗ Hữu
Vinh, từ năm 1964, đã bỏ vợ và 3 con ở lại Đà Nẳng, nhảy núi theo Việt Cộng
chống Mỹ.
Bà Kim vào làm công nhân
trong căn cứ Mỹ ở Đà Nẳng. Ở đó, bà đụng một ông lính Mỹ rồi sanh ra Mai Thị
Hiệp (Heidi)
Khi VC đánh vào Đà Nẳng, vì
sợ con lai Mỹ bị VC khủng bố, nên bà đưa con vào Hội Cha Mẹ Nuôi lúc Heidi 6
tuổi.
Khi sang Mỹ, Mai Thị HIệp
được bà Ann Neville, một phụ nữ độc thân, khoa trưởng ở một trường đại học,
nhận làm con nuôi, tên là Heidi Bub.
Bà Ann Neville sinh sống ở
bang Tennessee, thánh địa của kỳ thị chủng tộc Klu Klax Klan. Bà che dấu nguồn
gốc và cố làm cho Heidi giống 101% như Mỹ để bảo vệ con.
Về vật chất, Heidi không
thiếu thốn gì cả, nhưng tình cảm giữa hai mẹ con rất khô khan cằn cỗi, thiếu
hẳn những bộc lộ tình thương mẹ con. Bà Ann quá nghiêm khắc. Cuối cùng, bà đuổi
Heidi ra khỏi nhà mà không giải thích lý do.
Lúc 6 tuổi, Heidi tưởng
rằng mình không ngoan nên bị mẹ ruột từ bỏ. Lúc 22 tuổi, cô có mặc cảm, có lẻ
mình quá tệ hại nên đã bị mất mẹ hai lần.
Năm 22 tuổi, Heidi bắt đầu
tìm mẹ ruột. Trong lúc đó, ở VN, bà Mai Thị Kim cũng ra sức tìm lại đứa con.
Năm 1991, mẹ con bắt liên
lạc được, qua một nhân viên của sứ quán HK. Heidi bắt đầu học tiếng Việt.
Năm 1997, ký giả Trần Tương
Như, người VN đầu tiên mà Heidi tiếp xúc tại Mỹ. Trần Tương Như giúp Heidi
trong chuyến về VN gặp lại mẹ ruột.
Tại phi trường Đà Nẳng,
Heidi gặp lại mẹ ruột và các anh chị cùng mẹ khác cha. Tiếp theo là những tổ
chức, như những bữa cơm đại gia đình, viếng thăm hàng xóm, đi chợ…
Chỉ vài ngày sau, Heidi cảm
thấy khó chịu, bị sốc vì khác biệt văn hoá. Biên giới riêng tư của mình bị xâm
phạm.
Bà Kim muốn ngủ chung
giường với Heidi để tâm sự suốt đêm, không muốn rời con, nhưng đối với Heidi
thì đó là một cuộc tấn công, lấn át không gian cá nhân. Heidi không có thì giờ
để suy nghĩ về những sự việc quá mới, quá xa lạ đối với mình.
Heidi thật sự bị sốc khi
các anh chị cho rằng cô có bổn phận phải cung cấp tiền bạc và làm đơn bảo lãnh
cho gia đình sang Mỹ.
Heidi nghĩ rằng cô bị bóc
lột và bị lợi dụng, nên đã đổi vé máy bay về Mỹ sớm hơn lịch trình ấn định.
Khi về đến Mỹ, cô nhận được
thơ của các anh chị khác cha, chủ yếu vẫn là tiền bạc và bảo lãnh. Cô cảm thấy
không sốt sắng để trả lời những búc thơ đó.
6* Trí thức
Việt kiều giữa hai lằn đạn
6.1. Quê hương là chùm khế
ngọt
Người tỵ nạn Cộng Sản đã
nhận đất nước đã mở rộng vòng tay cứu giúp và cưu mang mình là quê hương thứ
hai. Quê hương nầy, cụ thể là Hoa Kỳ, đã trợ giúp tài chánh bước đầu để xây
dựng cuộc sống mới. Con cái người tỵ nạn được có nền giáo dục rất tiến bộ, và
nhất là đất nước nầy đã cho ngưòi tỵ nạn một đời sống bình đẳng với người bản
xứ, nhân quyền được tôn trọng.
Sống ở quê hương thứ hai,
nhiều người cho đó là nơi tạm dung, nên không bao giờ quên quê hương mà mình
được sinh ra. Quả thật đó là chùm khế ngọt. Quê hương VN cụ thể là 84 triệu
đồng bào của mình trong nước.(Không kể 3 triệu đảng viên CSVN)
Có hai quan niệm và hình
thức phục vụ quê hương. Đó là đấu tranh đòi tự do, dân chủ và nhân quyền cho
đồng bào trong nước, và một hình thức khác là về nước, phục vụ đảng CSVN góp
phần xây dựng quê hương.
6.2. Trí thức Việt kiều bị
kẹt giữa hai lằn đạn
Ngày chạy trốn chế độ độc
tài CS bằng di tản, vược biên, vượt biển, người tỵ nạn bị VC chửi tơi bời. Tôi
xin trích nguyên văn lời của tác giả Tống Phước Hiến như sau:
Trích nguyên văn. “Cộng Sản
xem những người vượt biên, vượt biển chạy trốn chúng là bọn phản quốc, phản
động, là cặn bã, bọn ăn bám, vong bản, lười biếng…” (hết trích)
Thế rồi Nghị Quyết 36 của
đảng CSVN ra đời. Người trí thức tỵ nạn được hoan nghênh khi trở về thành Việt
Kiều Yêu Nước.
Những trí thức Việt Kiều
Yêu Nước nầy lại bị một lằn đạn thứ hai, cũng không kém nặng nề như những lời
chửi bới của Việt Cộng trước kia.
Phục vụ quê hương là không
có điều kiện. Tổng thống Kennedy có nói một câu đại ý như sau, ta không nên đòi
hỏi tổ quốc phải làm gì cho ta, mà tự hỏi, ta phải làm làm gì cho tổ quốc. Một
vị trí thức về nước góp phần xây dựng quê hương, chưa làm được gì mà xin được
mua nhà ở VN. Suốt mấy năm không được đáp ứng, bèn than phiền nầy nọ lung tung,
khiến cho trí thức chân chính trong nước xem thường ra mặt.
6.3. Câu chuyện mất quyền
tỵ nạn của một Việt kiều Pháp
Bài viết của ký giả Xuân
Mai trên báo áp phê số 4 tại Paris như sau:
“Ông Nguyễn Văn Tuyền, 59
tuổi đến định cư tại Pháp năm 1980. Với lá đơn thống thiết như sau: “Nếu tôi
ở lại, nhà cầm quyền CSVN sẽ bắt giam, đánh đập và bỏ tù không có ngày ra. Vì
lý do nhân đạo, tôi trân trọng thỉnh cầu nước Pháp, vui lòng chấp thuận cho tôi
được tỵ nạn chính trị, sống tạm dung trên mảnh đất tự do nầy, và tôi chỉ trở về
quê cũ khi nào quê hương tôi không còn chế độ độc tài Cộng Sản.”. Nhưng ông
Tuyền đã phản bội tư cách tỵ nạn của ông đến 7 lần từ năm 1995 đến năm 2000.
(Theo tài liệu của OFPRA=Office Francais de Protection des Réfugiés et
Aptride-Cơ quan Bảo vệ Người Tỵ nạn và Vô Tổ quốc).
Ngày 27-6-2000, ông Tuyền
và 544 Việt kiều Pháp bị OFPRA gởi thơ thông báo rút lại thẻ tỵ nạn, với lý do
trở về quê cũ khi còn chế độ độc tài Cộng Sản.
“Chiếu theo điều 1, khoản
2A của Hiệp Định Genève ngày 28-7-1951, chúng tôi thu hồi thẻ tỵ nạn. Đồng thời
cũng trình lên Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ, kể từ nay, OFPRA không còn chịu trách nhiệm
với ông, về tình trạng cư trú, xin việc làm, hưởng trợ cấp xã hội theo diện
người tỵ nạn chính trị”.
Được biết, từ năm 1988 đến
năm 2000, tổng số người Việt ở Pháp bị truất bỏ quyền tỵ nạn và quyền lợi, với
con số là 22,417.
Bài viết ghi như sau:
“Chính phủ Việt Cộng qua các đại sứ từ Võ Văn Sung, Mai Văn Bộ, Trịnh Ngọc Thái
đến Nguyễn Chiến Thắng đã coi người Việt Nam là thành phần cực kỳ phản động,
cần phải triệt hạ, hoặc áp dụng chính sách gậy ông đập lưng ông. Đó là, dễ giải
trong việc cấp chiếu khán cho họ, để họ bị OFPRA cắt quyền tỵ nạn và trợ cấp xã
hội. Sau khi cấp chiếu khán, tòa đại sứ thông báo danh sách cho Bộ Nội vụ Pháp
biết tên họ của những người vi phạm luật tỵ nạn. Một khi mất thẻ tỵ nạn, thì
mất luôn thẻ thường trú (Carte de Séjour) nên không xin được việc làm. Trường
hợp đó, muốn sống ở Pháp trên 3 năm, thì phải có Passport của chính phủ CSVN,
để trở thành công dân Việt Cộng cho đến mãn kiếp.
Cái thâm độc của VC là như
thế.
Việt Cộng nhìn con người ở
bản chất. Một bản chất bị cho là “Phản động, phản quốc, cặn bã…” thì khó gột
rửa được. Nếu không có tiền gởi về hàng tỷ đô la mỗi năm, thì cái bản chất đó
vẫn tồn tại trong đầu óc của VC. Khúc ruột thừa ngàn dậm vẫn luôn luôn là như
thế.
Có những câu hỏi cho “trí
thức Việt Kiều Yêu nước”:
Quý vị về phục vụ quê hương
với thân phận nào đây?
- Quý vị có được đối xử bình
đẳng với người dân trong nước không? Tại sao, người dân được tự do mua nhà, còn
quý vị thì không.?
- Có ai được giữ chức quản
lý, như trưởng toán, trưởng phòng, trưởng ban hay giám đốc không? Quý vị chỉ là
những người thừa hành dưới quyền sai bảo của cán bộ đảng viên Việt Cộng mà
thôi.
- Quý vị có được tự do phát
biểu ý kiến riêng của mình không? Có được quyền binh vực cho công lý, công
bằng, lẻ phải, sự thật hay không? Khi thấy những cảnh bất công, đàn áp đánh đập
người yêu nước…quý vị có dám đứng về phía đồng bào của mình không? Nếu không,
thì quý vị có thể bị xem như a tòng với tội phạm.
- Về nước phục vụ quê hương
mà không dám đứng về phía công lý, lẽ phải của đồng bào mình, thì lương tâm quý
vị ra sao?
Hỏi, tức là trả lời vậy.
7* Kết
Ngày 30 tháng 4 mở ra một
trang sử đau buồn của dân tộc. Trí thức Việt Kiều nên đồng tâm hiệp lực với trí
thức chân chính trong nước, để đòi lại những quyền công dân và quyền con người
mà dân tộc 84 triệu người Việt Nam xứng đáng được hưởng ở thế kỷ 21 nầy. Đó là
cách phục vụ dân tộc đúng đắn.
Trí thức trong nước rất
kiên cường, bất khuất, đã can đảm đòi tự do dân chủ cho đồng bào của mình, thì
trí thức Việt Kiều không nên “Áo gấm về làng”, phát biểu linh tinh vô tổ chức
để được nhận bằng khen hoặc xin được mua nhà…
Tấm gương của những trí
thức chân chính trong nước như: Nguyễn Quang A, Nguyễn Xuân Diện, Lê Đăng
Doanh, Trần Vũ Hải, Nguyễn Huệ Chi, Hoàng Tụy, Chu Hảo, Lê Hiếu Đằng trong việc
đòi tự do, dân chủ và nhân quyền cho dân tộc Việt Nam, cần được nên theo.
Làm người, nhất là trí
thức, thành phần ưu tú của dân tộc, phải nên có tư cách tối thiểu để có thể
ngữa mặt nhìn thiên hạ, ở trong cũng như ở ngoải nước.
Trúc
Giang
Minnesota
ngày 28-4-2012
.
.
.
Rất cảm ơn về bài viết của bạn, bài viết rất hay và ý nghĩa.
ReplyDeleteNếu có các nhu cầu về thiết kế, thi công các sản phẩm nội thất như: bàn ghế sofa, giường tủ, thi công trọn gói có thể liên hệ bên Mozza mình nhé.
Click vào đây để xem chi tiết nhé các bạn:sofa da thật nhập khẩu
bộ sa lông da
ghế sofa da thật
sofa da hà nội
bán sofa da
hãy liên hệ cho mình nhé.
Cảm ơn !
_______________________________________________
SIÊU THỊ GHẾ SOFA MOZZA
Địa chỉ: 38 - Tương Mai - Hai Bà Trưng - Hà Nội
Điện thoại: 093 628 3333 - 04 6674 9999
dieu khac chan may
ReplyDeletedieu khac chan may nam
dieu khac chan may nu
điêu khắc chân mày
điêu khắc chân mày nam
điêu khắc chân mày nữ
dieu khac long may
điêu khắc lông mày
dieu khac long may nam
dieu khac long may nu