Nguyễn Viện: Những suy nghĩ về
ngày 30/4 (phỏng vấn)
28.04.2012
Bài phỏng vấn dưới đây do nhà thơ Nguyễn Thị Thanh
Bình thực hiện. Một bản câu hỏi đã được gửi đến nhiều văn nghệ
sĩ trong và ngoài nước. Tiền Vệ sẽ lần lượt đăng tải loạt bài này.
Tiền Vệ
-------------------------
NGUYỄN
VIỆN: NHỮNG SUY NGHĨ VỀ NGÀY 30/4
Nguyễn Thị Thanh
Bình:
Tôi cố tình dành một khoảng trống cho tên gọi ngày 30-4. Bạn là một cây viết
cừ khôi, xin bạn thử tìm một tên gọi khác cho ngày này, ngoài những chữ vẫn
được gọi kêu thông thường như ngày Quốc Hận, Tháng Tư Đen, ngày Giải Phóng hay
ngày Đại Thắng Mùa Xuân...? Và tại sao bạn lại muốn gọi như thế?
Nguyễn Viện: Tôi thật sự cầu
mong rằng ngày 30 tháng 4 cũng sẽ như bất cứ ngày nào trong năm. Một ngày của
sự bình an và dung thứ. Bởi vậy không cần phải gọi nó là ngày gì.
Nguyễn Thị Thanh
Bình:
Nhà thơ Nguyễn Duy ở Việt Nam, với bài thơ “Nhìn từ xa... Tổ quốc” mà nhiều
người vẫn tâm đắc, đã có lần viết câu thơ sau đây trong bài “Đá ơi”: “Nghĩ cho cùng mọi cuộc chiến
tranh / Phe nào thắng thì nhân dân đều bại”. Không biết bạn đồng cảm
như thế nào với thi sĩ về hai câu này, cũng như liệu bạn có thể cảm tác thêm
một vài câu “lấy liền” cho dòng thơ tháng 4 không?
Nguyễn Viện: Tôi không có khả
năng làm vè, cho nên xin được “tha” cho cái vụ ứng tác này. Dù sao thì cũng cám
ơn anh Nguyễn Duy về câu thơ đó. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng trong tất cả mọi cuộc
chiến tranh, nhân dân đều là tốt thí.
Nguyễn Thị Thanh
Bình:
Cứ mỗi 365 ngày, vào thời điểm này, chúng ta lại có dịp nghe thấy hoặc chứng
kiến “người anh em” trong nước tưng bừng giăng thêm khẩu hiệu, biểu ngữ, và cờ
phướn tung bay ngập lối, cùng pháo hoa kèn trống diễn binh... như một thứ men
say chiến thắng, trong khi đó ở hải ngoại thì những người lữ thứ kỷ niệm ngày
30/4 như một tưởng nhớ đau thương quốc hận. Như thế liệu tâm hồn bạn lúc này
đang bay bổng ở đâu, khi gõ lại từng đường dây biến cố lịch sử mỏi mòn ấy? Bạn
có nhớ tại sao lúc ấy bạn quyết định ở lại hay ra đi không?
Nguyễn Viện: Lúc nào tôi cũng
cảm thấy mình bị mắc kẹt trong lịch sử. Vì thế lúc này, hay lúc khác tôi đều là
một nạn nhân tan nát.
Khi
ngày 30.4.1975 đến, tôi 26 tuổi và đang làm công chức, sống chung với bố mẹ và
các em. Tôi cũng nghĩ đến chuyện đưa cả gia đình đi vì anh tôi là một hạm
trưởng hải quân ở Phú Quốc. Nhưng tôi chần chừ và cuối cùng biết là không kịp
nữa.
Một
trong những lý do của sự chần chừ là tôi cũng muốn được sống như những đồng bào
khác của mình với tất cả thân phận nổi trôi của nó. Bởi vì tôi là một nhà văn.
Nguyễn Thị Thanh
Bình:
Vào những lúc cuối đời, thường thì trong lòng người ta vẫn dấy lên một chút
lương tri đạo đức làm người gì đó, và những câu nói sau đây của ông Võ Văn Kiệt
được xem như là những điển hình đáng ghi nhận: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc
lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết
thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó
thêm rỉ máu”. Là một người dân Việt, mà lại là một người cầm bút tử
tế, bạn nghĩ chúng ta phải làm thế nào để có thể băng bó vết thương chung của
dân tộc, khi hiểm họa của người phương Bắc càng ngày càng phủ chụp đất nước sau
37 năm Việt Nam vỗ ngực xưng hòa bình thống nhất?
Nguyễn Viện: Vâng, sau 37 năm,
“vết thương chung của dân tộc” như chị nói, vẫn chảy máu.
Tôi
đã có dịp được đọc về cuộc nội chiến Nam – Bắc Mỹ. Và cái cách của người thắng
đối xử với người thua trong cuộc chiến tranh đó của người Mỹ vẫn làm tôi cảm
thấy xấu hổ về dân tộc mình, khi chúng ta nói rằng chúng ta có 4000 năm văn
hiến.
Làm
thế nào để băng bó vết thương ư?
Tôi
vừa đọc lại cuốn Chuông gọi hồn ai của Hemingway, cũng là cuốn sách viết
về cuộc nội chiến Tây Ban Nha, và tôi nhớ có đoạn Hemingway để cho nhân vật của
mình nói, đại ý: Cần phải có một cuộc giải tội tập thể cho cả dân tộc, bất kể
anh ở phe nào.
Vâng,
tôi ước ao có một ngày mọi người dân Việt dù đang sống ở bất cứ đâu, cùng dành
ra một giờ để xưng tội với nhau và xin tha thứ cho nhau. Cho cả những người đã
chết, đang sống và sẽ sinh ra làm người Việt.
Chỉ
trong sự khoan dung, tha thứ và tin cậy lẫn nhau, chúng ta mới có thể làm lành
vết thương và tạo nên một sức sống mới cho dân tộc.
Nguyễn Thị Thanh
Bình:
Nếu bảo “thất bại trong hòa bình” mới là điều đáng lên tiếng luận bàn cho
một lộ trình tương lai đất nước khả quan hơn, thì thử hỏi bạn có dám nói, dám
viết, dám kiến nghị để lương tâm và chức năng của một người cầm bút không bị
kiến cắn, kiến bò không? Và cho dẫu bạn không hề là một trong 75 vạn người mẹ
đớn đau của những người con được phong tước anh hùng liệt sĩ gì đó, hoặc bị xem
là “có nợ máu với nhân dân”, thì liệu bạn có phải bịt tai, bịt mắt để khỏi phải
nghe hay thấy những bài ca rỗng tuếch nhai đi nhai lại ngợi ca xương máu chiến
thắng?
Nguyễn Viện: Với riêng tôi, tôi
chưa bao giờ cảm thấy mình là người thua hay thắng trong cuộc chiến vừa qua. Cá
nhân tôi chỉ là kẻ mắc kẹt trên đường ray khi chiếc xe lửa lịch sử lao tới. Tôi
không mang một mặc cảm hay thành kiến gì. Dù sau ngày 30.4.1975, tôi cũng phải
học tập cải tạo tại chỗ 3 ngày và buộc phải viết lời thú nhận “tội ác” của mình
với “nhân dân”. Chúng ta đã phải chứng nghiệm quá nhiều cài kiểu “khôi hài đen”
đó trong đời sống xã hội xã hội chủ nghĩa. Những cái “khôi hài đen” cho đến tận
nay vẫn không thiếu những ví dụ. Mà điển hình nhất có lẽ là bài nói chuyện của ông Tổng bí
thư Nguyễn Phú Trọng ở một trường Đảng của Cuba vừa qua.
Tôi
nghĩ điều quan trọng nhất hiện nay là con người cần phải biết tự trọng. Bởi vì,
người ta đã đánh mất sự tự trọng của nhân cách, khi tự xóa bỏ mình vừa trong tư
cách cá nhân vừa trong mối tương quan xã hội.
Nguyễn Thị Thanh
Bình:
Ông Lê Duẩn đã từng biện bạch rằng “Đây là thắng lợi của cả dân tộc,
không phải là của riêng ai”. Vậy thử hỏi nỗi đau của “triệu người buồn” kia,
cũng hệt như nỗi đau của nước sắp mất, và (ngôi) nhà Việt Nam sắp tan, không lẽ
không phải là niềm đau chung của dân tộc? Đất nước chắc chắn nào phải của riêng
ai, vậy tại sao lại chỉ có thứ độc quyền yêu nước hay bán nước? Sự kiện tiếp
tục bỏ tù những trí thức yêu nước độc lập có phải là thái độ sợ hãi của một nhà
cầm quyền chỉ muốn củng cố quyền lực hay không? Liệu bạn có thấy phấn khởi khi
giới trẻ cũng bắt đầu quan tâm và muốn gánh vác phần nào câu chuyện lịch sử
30/4/1975 của cha ông mình?
Nguyễn Viện: Tôi không biết giới
trẻ Việt Nam ở hải ngoại ra sao. Còn ở trong nước, tôi đã thấy một thế hệ mới
mà tôi vẫn gọi là thế hệ tự thức, họ vô can trong cuộc chiến vừa qua, mặc dù
vẫn có những hệ lụy ít nhiều với từng con người trong số họ. Nhưng họ không
nhìn về quá khứ, họ chỉ nhìn về phía trước và họ biết họ phải làm gì bây giờ.
.
.
.
Cảm tưởng về ngày 30/4
(tiểu luận / nhận định)
Tháng
4/1975 với quá lắm những cuộc đời mất mát thương đau. Hơn 3 triệu những người
con từ hai phía anh em có chung một Mẹ Việt Nam đã bỏ mình lãng phí hiến dâng.
Trên 600 ngàn người chết không một nấm mồ vùi sâu dưới biển đông và hải tặc,
cho những khát vọng không cùng của tự do. Cả 300 ngàn người thất trận trong
chớp nhoáng một tháng đã lãnh đòn thù, cho những cấm cố tù đày hoặc biền biệt
rừng sâu.
Danh
sách giết người vẫn còn dài dài, mà chúng ta vẫn chưa sắm nổi cái quan tài để
đậy nắp bè lũ “trời không tha, đất không dung” này. Vâng, vẫn còn dài, vượt xa
cả những con số tàn độc của một Tần Thủy Hoàng và có một không hai của phát-xít
Hitler. Cứ thử mở lại lịch sử 4000 năm... dựng nước, đã phải đụng ngay con số
cả trăm ngàn oan khiên rớt xuống trong cuộc đấu tố Cải Cách Ruộng Đất, rồi thì
trên dưới 5000 những cái đầu già trẻ lớn bé, đàn bà đàn ông bị chôn sống thảm
sát trong Tết Mậu Thân...
Ờ
nhỉ, không lẽ những cái Đầu của chúng ta cứ tiếp tục mất đi, để cho sự gian ác
chễm chệ ngự trị “Còn Đảng còn mình”, khi tứ chi của hình hài chữ S đã lăn lóc
tận phương Bắc thống lĩnh là bởi đâu? Như thế này rồi chúng ta ai cũng sẽ phải
bước ra khỏi cuộc đời. Có lập đàn giải oan cho đời này thì đời sau con cháu mới
thoát nổi oan khiên chăng?
Tháng
4 đến. Niềm hoài cổ nhớ nước cũng đến và càng sâu đậm hơn. Mây tím bay. Lạc dấu
chim di trở về. Nỗi nhớ niềm thương hoài đời là những vết thương chưa thể lấp
miệng. Có dịp khuấy động thì mưng mủ xót xa vậy thôi.
30/4/75
vẫn không thiếu những giọt lệ thầm lặng bên lề đường Sài Gòn. Dương Thu Hương
đã mang nghiệp văn thực sự khi những giọt nước mắt vỡ oà ở vỉa hè Sài Gòn lúc
ấy, khi vừa biết tiếc thương chén thanh xuân bỗng vơi cho những đánh tráo hy
sinh hoang đường (hay Thiên Đường Mù). Một thứ lý tưởng lãng mạn không hề có
thật. Tôi khóc khi biết mình phải đoạn lìa thành phố hoa lệ Sài Gòn, nơi có con
đường mang tên Tự Do và sách vở cũng ê hề tự do bị kết án “đồi trụy”. Chúng ta
khóc vì không biết đời sống sẽ trôi nổi long đong đến đâu. Ôi những phương trời
đi mãi về những bến bờ lưu lạc.
Đã
có cả ngàn trang viết về ngày cuối tháng tư bảy lăm. Nhắc hoài một tan rã, một
từ biệt vẫn chưa yên nguôi. Trong suốt 37 năm lữ thứ, hay 37 năm chợt làm du
thủ, du thực, du khách trên chính quê hương mình.
Thôi
được, giờ đây chắc hẳn là có những người muốn biết giới cầm bút nghĩ gì về
30-4-1975. Những người trong giới cầm bút có sẽ đi biểu tình trước các sứ quán
của CHXHCNVN? Có làm đêm không ngủ thắp nến nguyện cầu, hát nhạc đấu tranh, hay
ăn vận toàn trắng để gởi thông điệp khăn tang hay chim trắng hòa bình?
Với
tấm lòng của một nhà thơ thì cuối cùng có lẽ chúng ta cũng chỉ muốn như Cao Tần
có dịp được lùa cả nước đi cải tạo yêu thương.
Nghĩ
gì hay nhớ về là những nghĩ tưởng, hồi tưởng không tài nào bôi xóa. Nhất là một
khi chúng ta chưa thể yên lòng xếp lại mớ lịch sử nhàu nát mỗi ngày một tội
tình hơn. Chí ít đây là cảm nhận của riêng tôi. Nói vậy nhưng tôi vẫn chắc như
bắp, là những đồng hương trong đợt di tản đầu tiên cùng tôi, thì trong số
khoảng 100.000 người cũng sẽ không thiếu 100.000 vọng tưởng ngút ngàn cho ngày
đời ly biệt 30/4/75.
37
năm xin bạn một lần gầy lại mùi hương của những tàn y cũ dĩ vãng. Dù thế nào,
dù có ném chúng vào ngăn kéo ký ức thì cũng phải giữ mãi nguyên vẹn. Có phải?
Ơi,
nghĩ mà tủi thân tủi phận nước mình. Sau 37 năm cho cái gọi là đất nước thống
nhất, chúng ta lại tha hồ “đội sổ” về nhiều thứ, ngay cả quyền căn bản làm
người cũng đã hụt hẫng trầm trọng, nói chi đến những chi tiêu phát triển kinh
tế này nọ. Tôi chịu không thể mường tượng nổi bức dư đồ chữ S sẽ bị những “đầy
tớ nhân dân” này vênh váo đổ thêm bao nhiêu mực tàu nữa. Ô, phải nói là những
chủ nhân ông quá giỏi điêu ngoa, đã đưa đất nước vào tình trạng lỏng tay lái
không phanh nổi.
37
năm nhìn lại với tôi là một chặng đường tuột dốc thê thảm: tước đoạt của mọi
tước đoạt, tham tàn trên cả tham tàn, lừa mỵ phản trắc không diễn tả nổi.
Những
chiếc bánh vẽ to tướng mà đến cuối đời nhà thơ Chế Lan Viên mới tuồng như thấu
hiểu, thì người ta vẫn thay phiên nhau tọng vô họng nhân dân. Coi như dân trí
bị dìm thấp, để họ dễ nắm đầu cai quản, nhưng liệu họ có lấy được vải thưa che
mắt thánh trong nội bộ về những con số xếp hạng bệ rạc so với láng giềng quốc
tế? Sự kiện đau lòng của Văn Giang mới đây nhất hay hàng loạt xâm chiếm, cưỡng
chế, lật lọng luật đất đai mà bản chất lừa bịp vẫn trơ tráo, lại còn giả mời
mọc cái bánh vẽ định hướng công nghiệp hóa hầm bà lằng. Thú thật, tôi muốn bạn
nghĩ ngợi thêm điều này, vì càng ngày càng thấy những viễn tượng quá đen tối
cho quê hương mà sợ mà lo.
30/4,
chúng ta cũng đã quẩn quanh những tháng tư cắt dán vụng về 37 mảng ước mơ. Vẫn
chưa làm được một điều gì cho ra hồn ra vía. Những nhà văn nhà báo nhà dân chủ
tự do vẫn lãnh đủ những bản án dàn dựng, phi lý. Điếu Cày có bị họ diễn trò bịp
bợm chặt tay hay không hòng dò đo phản ứng răn đe, thì lồng ngực chúng ta vẫn
chỉ biết nổ tung những bất kham, và Điếu Cày rồi cũng phải ôm ấp những dòng
viết dở dang nơi chốn lao tù.
Cuối
cùng vẫn là những tiếng hú của bầy ngựa hoang. Không còn nơi đâu một cánh thảo
nguyên mà bắt đầu vó nhịp, mà trở về thật sao?
Nào,
bây giờ xin mời bạn cứ hí vang trời đất. Mênh mông một tháng tư. Mênh mông một
tấm lòng.
dieu khac chan may
ReplyDeletedieu khac chan may nam
dieu khac chan may nu
điêu khắc chân mày
điêu khắc chân mày nam
điêu khắc chân mày nữ
dieu khac long may
điêu khắc lông mày
dieu khac long may nam
dieu khac long may nu