Vương Mộng Long
Posted
on April 23, 2012
Tác giả- Vương Mộng
Long
-
Cựu học sinh Trung-Học Trần Quý Cáp, Hội-An.
- Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
- Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
- Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.
- Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.
- Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B.A SocialSciences and Communication.
- Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.
- Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
- Chức vụ sau cùng: Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân.
- Từ 1975 tới 1988 tù “cải tạo” (13 năm) từ Nam ra Bắc.
- Từ 1993 định cư tại Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington, USA.
- Năm 2003 tốt nghiệp University of Washington, cấp bằng B.A SocialSciences and Communication.
- Gia cảnh hiện nay: Một vợ, 4 con, 1 cháu nội, 3 cháu ngoại.
---------------------------------
Một
chiều cuối năm 1998 tôi vào Trường University of Washington (UW) để đón đứa con
gái áp út tan giờ học. Tình cờ tôi nhìn thấy một ông già đứng chờ xe bên bến
Bus. Có lẽ ông cụ lớn tuổi hơn tôi nhiều. Hỏi chuyện, tôi mới hay, ông cụ đã qua
tuổi bảy mươi, ăn tiền hưu, và đang học môn Truyền Thông (Communication) năm
Senior. Tôi chợt nghĩ, thời gian này mình cũng không bận lắm, tại sao không trở
lại trường? Ít ra cũng học thêm được vài điều hay. Thế là, hôm sau tôi nộp đơn
xin trắc nghiệm trình độ Toán và Anh Văn để xếp lớp tại Shoreline Community
College (Shoreline C. C.).
So
với các trường đại học cộng đồng quanh vùng, thì học phí của Shoreline C. C.
tương đối nhẹ.Thật là, không có gì diễn tả nổi niềm vui sướng tột cùng của tôi
buổi đầu được cắp cặp trở lại trường làm học trò. Ba mươi lăm năm sau khi rời
ghế nhà trường (1963) để tình nguyện vào quân ngũ, tôi đâu ngờ còn có ngày được
ngồi dưới lớp nghe lời thầy giáo giảng? Xung quanh tôi là những người trẻ tuổi
vừa qua bậc trung học.Tôi làm việc mười tiếng đồng hồ một ngày, bốn ngày một
tuần lễ. Ngày, ngày, vừa tan sở, tôi lại vội lái xe tới lớp. Từ ấy, tôi làm
việc full-time, đi học full-time, bận bịu vô cùng. Học kỳ (quater) đầu tiên,
tôi ghi danh một lớp Toán, và hai lớp Anh Văn, mỗi lớp 5 tín chỉ (credit). Tôi
miệt mài trong công việc suốt ngày, và chuyên cần trong học tập mỗi đêm. Vào
mùa thi, tôi thức trắng hai, ba đêm là thường. Tôi ghi danh full-time để thúc
đít thằng con út. Thằng nhỏ sợ ông bố theo kịp, nên phải gắng chạy có cờ để thoát
lên đại học bốn năm.
Một
niên khóa trôi qua. Con đường học hành của tôi đang có vẻ rộng mở thênh thang,
thì bỗng dưng lại quẹo vào một khúc quanh, chỉ vì mùa Fall 2000 tôi đã ghi danh
lớp History 274 “U.S. and Vietnam”.
Tôi “lấy” lớp Sử Ký này với mục đích tìm hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua đã được các sử gia Mỹ ghi chép lại như thế nào? Từ đó, hy vọng biết được phần nào, nguyên nhân vì sao, giữa đường, Mỹ đã bỏ rơi Việt-Nam, vì sao chúng ta đã thua trận.
Người
từ lâu độc quyền phụ trách lớp Sử 274 là thầy Dan. Trong thời gian dài cả chục
năm qua, ông giáo kỳ cựu này đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Những học trò của
ông sau khi chuyển tiếp lên trường đại học bốn năm, đã trở thành những Thạc Sĩ,
Tiến Sĩ. Lâu lâu họ lại ghé về trường xưa, thăm ông thầy cũ.
Lớp
“U.S. and Vietnam” mùa Fall 2000 có chừng hơn hai chục học viên, trong đó da
trắng chiếm đa số. Có bốn học trò gốc Châu Á, gồm hai anh Tàu lục địa, một cậu
bé H’Mong và tôi. Bạn đồng lớp với tôi còn nhỏ lắm. Họ trẻ hơn mấy đứa con tôi
nhiều.
Tôi
cứ tưởng rằng những tài liệu lịch sử mà các thầy giáo đem truyền bá, phải nằm
trong chương trình đã kiểm duyệt và cho phép của Bộ Giáo-Dục Hoa-Kỳ. Nhưng thực
tế không phải vậy. Nền giáo dục của Mỹ đã đi vào tự trị từ lâu. Thầy giáo có
toàn quyền lèo lái, hướng dẫn con thuyền học vấn chở học trò mình tới bất kỳ
bến bờ nào mà thày đã chọn. Thầy giáo chỉ định sách giáo khoa nào thầy sẽ dạy
để chúng tôi mua. Thầy phổ biến những tài liệu nào mà thầy ưng ý.Trong hai phần
ba thời gian đầu của học kỳ Fall 2000, mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh,
ông giáo sư dạy Sử không ngớt ca tụng HCM như một lãnh tụ tài ba, và vô cùng
sáng suốt đã khôn khéo hướng dẫn dân tộc Việt -Nam tới chiến thắng thoát ách đô
hộ của Đế-Quốc Pháp.
Thầy
khẳng định rằng, chính phủ Hoa-Kỳ là nguyên nhân cuộc chiến tranh Đông-Dưong
lần thứ hai (1954-1975). Vì theo lời thầy, thì HCM đã năm lần gửi mật thư cho
Tổng Thống Harry Truman để xin thần phục và hợp tác, nhưng Tổng Thống Harry
Truman đã từ chối. Thầy cho rằng người Mỹ đã lầm lẫn trợ giúp quân Pháp trở lại
tái chiếm Đông-Dương trong khi cao trào dân chủ, đấu tranh giành độc lập đang
lan tràn trên toàn thế giới, và chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời.
Chúng
tôi đã được cho xem những đoạn phim cũ về trận Điện-Biên Phủ, về Hiệp- Định
Geneve, và về cuộc di cư năm 1954. Với những trận có âm vang quốc tế như
Plei-Me, Khe- Sanh, Kontum, Bình-Long, Long-Khánh vân vân… chúng tôi chỉ được
thấy những cảnh thương vong của quân đội Đồng-Minh và Việt-Nam-Cộng-Hòa. Trận
Mậu-Thân, chỉ là cảnh …nhà cháy, dân chạy loạn. Tất cả những “tư liệu” này đều
có thực, nhưng thầy Dan chỉ trưng bày những phần có lợi cho Việt-Cộng. Tôi chưa
nghe được từ miệng thầy một lời nói tốt nào cho phía Việt-Nam Cộng-Hòa. Thầy mô
tả Quân- Lực Việt-Nam Cộng-Hòa như một đội quân kém cỏi về cả tổ chức lẫn khả
năng tác chiến. Với thầy Dan, chiến tranh Việt-Nam chỉ là một gánh nặng cho
ngân sách Quốc- Phòng Hoa-Kỳ, một sự phí phạm công quỹ. Đã có đôi lần tôi dơ
tay nêu ý kiến bênh vực quân đội ta, chính quyền ta, thì ông chỉ cười, chỉ tay vào
quyển Sử dày cộm,
“Book said!”
Cứ
cái điệp khúc “Sách dạy!” đó, ông thầy phản chiến đã lịch sự gián tiếp nhắc nhở
cho tôi hay rằng, tôi là một học trò, còn ông là một vị giáo sư nói có sách,
mách có chứng.
Thầy
hùng hồn thuật lại những lần thầy tham gia biểu tình chống chiến tranh thời
1960s và nặng lời đả kích lệnh động viên ngày đó, đã đưa hàng trăm ngàn thanh
niên Hoa-Kỳ vào chỗ chết.
Kết
quả hai lần khảo hạch giữa học kỳ (Mid-Term) tôi đều lãnh điểm (F) bởi vì tôi
chỉ làm trót lọt phần A, B, C khoanh, còn về bài tiểu luận (essay) thì tôi bị
loại thẳng tay.
Cả
hai bài đều lãnh điểm KHÔNG (0) chỉ vì tôi đã viết không hợp ý ông thày. Ngặt
một điều là, lớp History 274 này bị tính điểm đem lên trường đại học bốn năm.
Bị đánh rớt lớp này thì giấc mơ chuyển tiếp lên University of Washington của
tôi sẽ thành mây khói.
Tôi
theo học lớp này đúng vào lúc nhà trường đang sôi sục với cuộc vận động bầu cử
Tổng Thống. Ông thầy dạy Sử không phải là người độc nhất có ác cảm với chiến
tranh, mà Tiểu-Bang Washington tôi đang cư ngụ cũng là thành trì của Đảng
Dân-Chủ. Tâm sự này kiếm cả trường chắc cũng chẳng có ai thông cảm!
Thời
gian này lòng tôi thật muộn phiền. Tôi tự trách rằng, mùa Fall 2000 có thiếu gì
lớp tương đương với History 274 mà sao tôi lại nộp mạng vào cái lớp chết tiệt
này? Đúng là bỏ tiền ra ghi danh để ngồi nghe người ta chửi mình, chửi quân đội
mình. Càng nghĩ tôi càng thấy tức! Thằng con trai thấy ông bố rầu rầu bèn lân
la hỏi chuyện. Khi hiểu nguồn cơn nỗi buồn của tôi, nó mới cho tôi hay, năm ngoái
nó cũng ghi danh học lớp này, và đã bị một “vố” đau. Để thoát thân, từ bài thi
thứ nhì nó phải viết theo ý ông giáo. Vất vả lắm nó mới kiếm được đủ điểm.
Sau
ngày có kết quả khảo hạch kỳ thứ nhì, tôi bỏ công xuống thư viện nghiên cứu,
sao chép những tài liệu sử liên quan tới chiến tranh Việt-Nam. Tôi không màng
đến vấn đề chuyển tiếp lên University of Washington nữa. Tôi chờ, nếu có cơ hội
là tôi sẽ “choảng nhau” với ông giáo phản chiến này một trận, rồi muốn ra sao
thì ra.Tôi lục lạo kệ sách loại chọn lọc (preference) và tìm được một quyển
Sử-Ký, trong đó, chứa đựng nhiều tài liệu ghi chép rõ ràng những thành quả mà
Việt-Nam Cộng-Hòa đã thực hiện được. Trong số những tài liệu quý giá đó, có cả
một bài đề cập tới đơn vị tôi, Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi vui mừng và cẩn
thận photo copy những c thu nhận được để dùng làm bằng chứng khi cãi lý với ông
giáo sư dạy Sử. Tôi cũng tận dụng thời gian rảnh cuối tuần để sắp xếp cho có
thứ tự những điều cần tranh luận. Tôi ghi sẵn những câu phê bình, những câu chất
vấn thẳng thắn với thầy Dan về cung cách giáo dục học trò của ông, và về những
tài liệu mà ông đã dùng để trợ huấn.Buổi học áp chót của mùa Fall chúng tôi có
một giờ đầu thi A, B, C khoanh. Sau đó thày giáo phát đề bài làm ở nhà. Thời
gian còn lại, thày sẽ giảng gợi ý cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận sẽ phải giao
nộp vào đầu giờ buổi học cuối cùng.Vừa nghe chuông giải lao, tôi tiến tới bàn
ông giáo Sử. Dù trong bụng đã chuẩn bị sẵn một mớ ngôn từ đao to búa lớn cho
một cuộc đấu khẩu sống mái, nhưng tôi vẫn dằn lòng, nhỏ nhẹ,
-
Thưa giáo sư. Xin giáo sư vui lòng cho phép tôi được trình bày với ông đôi điều
liên quan tới sự giảng dạy của ông trong thời gian vừa qua. Tôi có thể làm
phiền ông vài phút được không?
Thầy
Dan niềm nở,
- Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
- Dĩ nhiên là được. Ông có điều gì cần cứ nói.
Thấy
câu chuyện đã mở đầu trót lọt, tôi mạnh miệng,
- Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.
- Thưa giáo sư, tôi là một người Việt-Nam tị nạn. Tôi là một cựu sĩ quan của Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi còn nhớ trong bài giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi, nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên của pháo đài bay B 52 trên Cao Nguyên Việt-Nam là vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang.Thầy có biết không? Cũng vào ngày hôm đó, tôi đang tập dượt lễ mãn khóa sĩ quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam. Và mười năm sau, trước khi tàn cuộc chiến, vùng đất mà tôi chịu trách nhiệm trấn giữ cũng bao gổm cả cái Thung Lũng Ia-Drang đó.
Thầy
chỉ biết tới những trận đụng độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo chí,
truyền thanh, và truyền hình. Còn tôi là người đã lặn lội mười năm ở đó, đã
nhiều lần bị thương đổ máu ở đó, đã rơi lệ vuốt mắt cho nhiều đồng đội nằm
xuống ở đó. Trong số những người nằm xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ
đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng tôi chiến đấu quên mình từng ngày, vì nền
độc lập của đất nước tôi, và vì quyền lợi của nước Mỹ.Thầy chưa từng khoác áo
nhà binh, chưa một lần có mặt trên chiến trường. Suốt đời thầy không hiểu nổi
thế nào là niềm kiêu hãnh của một người lính chiến, thế nào là lòng khát khao
chiến thắng, thế nào là tình huynh đệ chi binh.
Suốt
đời thầy không hiểu được vì sao hơn hai chục thương binh què quặt của một đơn
vị Biệt Động Quân Việt-Nam Cộng- Hòa phải mở đường máu rút lui mà vẫn cưu mang
theo ba người lính Mỹ, trong đó có hai người bị trọng thương; và vì sao một đại
tá Hoa-Kỳ đã đưa thân che chở cho một thương binh Việt-Nam để rồi ông bị mảnh
đạn vỡ đầu.Mạng lưới truyền thông thiên Cộng khổng lồ của Hoa-Kỳ đã tiếp tay
với bộ máy tuyên truyền của Cộng-Sản Quốc-Tế cố tình xuyên tạc, bóp méo tất cả
những c liên quan tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả của cuộc Chiến-Tranh
Việt-Nam. Từ đó, tên Việt-Cộng khát máu HCM đã được tô vẽ, đánh bóng thành một
vị lãnh tụ đức độ anh minh.
Chính
tên sát nhân này và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã giết oan không biết bao nhiêu
đồng bào vô tội của tôi trong suốt thời gian ba mươi năm chiến tranh. Nằm trong
số hàng trăm ngàn nạn nhân bị giết, tù đầy, thủ tiêu, cha tôi và chú tôi cũng
bị chặt đầu trôi sông trong thời gian đó. Nếu chế độ Cộng-Sản là tốt đẹp, thì
đã không có một triệu dân miền Bắc di cư vào Nam sau Hiệp-Định Geneve năm 1954,
và sẽ chẳng có những cuộc vượt biên bi thảm của hàng triệu thuyền nhân trên
biển bỏ quê hương sau khi Miền Nam rơi vào tay Cộng-Sản năm 1975. Thầy chỉ mới
thấy hình bé gái Kim Phúc trần truồng, vừa khóc vừa chạy, thân mình phỏng cháy
vì bom Napalm của quân Đồng-Minh đánh lầm vào nhà dân, mà thầy đã thấy xót xa,
cho rằng quân Đồng-Minh tàn ác.
Nếu
thầy ở vào vị trí của tôi, không hiểu thầy sẽ nghĩ sao? Ngày 18 tháng Tư năm
1974, sau khi tái chiếm Căn Cứ Hỏa-Lực 711, Pleiku, tôi đã tận mắt chứng kiến
một cảnh dã man chưa từng thấy. Trong một căn hầm trú ẩn đầy ruồi nhặng, trên
chiếc giường tre là cái xác trần truồng của một người vợ lính. Chị bị Việt-Cộng
lột hết quần áo, bị hãm hiếp, rồi bị đâm chết bởi nhiều nhát lưỡi lê, ruột gan
lòi lòng thòng. Trên nền đất, máu đọng thành vũng. Trong góc hầm là xác đứa con
trai hai tuổi của nạn nhân. Cháu bé bị trói hai tay, hai chân bằng dây dù và
cũng bị hàng chục nhát lưỡi lê đâm vào bụng, vào ngực. Hai người này vừa theo
chuyến xe tiếp tế của đơn vị lên thăm chồng và cha của họ được vài ngày. Họ đã
không kịp chạy khi Việt-Cộng tràn ngập căn cứ trưa 15 tháng Tư năm 1974.
Câu
chuyện vừa tới đây thì hết giờ giải lao, học trò trở lại lớp. Ông giáo vỗ vai
tôi,
- Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
- Ông cứ ngồi đây, ta sẽ tiếp tục.
Rồi
ông lớn tiếng cho phép lớp nghỉ sớm, để học trò có thời gian chuẩn bị bài thi
viết. Chờ cho người học trò sau cùng ra khỏi cửa, thầy Dan nói nhỏ với tôi,
-
Ông hãy tiếp tục câu chuyện của một nhân chứng sống. Tôi mong được nghe thêm.
Tôi
không ngần ngại, tiếp lời,
-
Cám ơn giáo sư. Tôi chỉ nói những gì thấy tận mắt, nghe tận tai, và những gì
xảy ra cho chính bản thân và gia đình tôi để thầy có một nhận định chính xác về
cuộc chiến tranh Việt-Nam đã ảnh hưởng như thế nào đối với người dân Việt.
Tôi
tâm sự với thầy Dan rằng, tôi là một học trò tốt nghiệp trung học vào đúng thời
điểm đất nước lâm nguy nên tôi đã tình nguyện vào quân ngũ để cứu nước. Tôi tóm
lược cuộc đời chinh chiến của mình cho ông giáo nghe. Tôi thấy thầy Dan đặc
biệt lưu tâm tới những chiến dịch xảy ra trên Tây-Nguyên, và ông có vẻ rất quen
thuộc với những địa danh Ban-Mê-Thuột, Pleiku, Plei-Me, Đức-Cơ, Kontum. Nghe
tôi nói ở Tây-Nguyên chiến trận, chết chóc xảy ra hàng ngày, ông vội hỏi,
“Mỗi
lần ra trận, ông có sợ không?”
Tôi
cứ tình thực trả lời,
Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.
Sợ chứ! Vào chỗ chết, ai mà không sợ? Nhưng tinh thần trách nhiệm đã làm cho tôi quên cái sợ.
Thấy
ông giáo sư có vẻ muốn nghe truyện chiến trường, muốn hiểu tâm tư người đi trận
ra sao, tôi đã không ngần ngại thuật lại hoàn cảnh của tôi trong trận Dak-Tô
năm 1969. Cuối trận này tôi đã phải mở khói đỏ yêu cầu máy bay đánh ngay trên
đầu mình để cùng chết với quân thù. Vào giờ phút tuyệt vọng nhứt của trận đánh
đó, tôi đã nghĩ gì, tôi cũng thổ lộ cho ông giáo biết. Ông giáo sư đã từng nghe
nói tới cái tên “Đường Mòn HCM” nhưng chưa bao giờ ông ngờ rằng đó là cả một hệ
thống đường giao thông chằng chịt che dấu dưới rừng già dọc Trường-Sơn. Tôi đã
chia sẻ với ông những cảm giác hồi hộp, căng thẳng của người có cái kinh nghiệm
đi toán Viễn-Thám săn tin dọc biên giới Việt-Miên-Lào từ Khâm-Đức tới Bu-Prang
vào những năm 1972-1973.
Ông
cũng rất hứng thú khi nghe tôi thuyết trình về kỹ thuật bắn xe tank mà Tiểu
Đoàn 82 Biệt Động Quân đã áp dụng trong trận Xuân-Lộc tháng Tư năm 1975. Trận
Xuân-Lộc này ông có nghe qua, nhưng ông không ngờ, một trong những cấp chỉ huy
trực tiếp của trận đánh lừng lẫy ấy đang ngồi trước mặt ông. Tôi không quên nói
tới những lần dừng quân bên xóm làng quê nghèo nàn, nhận những bát nước chè
xanh, những củ khoai luộc của đồng bào tôi đem ra mời mọc. Tình quân dân cá
nước ấy đã là những liều thuốc bổ giúp tinh thần chúng tôi mạnh mẽ hơn khi đối
mặt với quân thù.Tôi thuật lại cho thầy nghe, trong tình thế hoàn toàn tuyệt
vọng, chúng tôi đã chiến đấu kiên cường như thế nào.
Và
sau khi biết rằng chỉ trong vòng một tháng cuối cùng, chín mươi phần trăm của
quân số hơn năm trăm người thuộc Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân đã chết vì tổ
quốc, thì ông giáo đã giơ hai tay lên trời, lắc đầu thốt ra hai tiếng,
“Trời
ơi!”
Thầy
Dan cũng muốn tìm hiểu xem, sau khi mất nước thì số phận của tôi và gần một
triệu quân nhân, công chức chính quyền Việt-Nam Cộng-Hòa ra sao. Ông đã trố mắt
ngạc nhiên khi biết ra rằng, từ sau tháng Tư năm 1975, khắp đất nước tôi, “Trại
Cải Tạo” đã mọc lên như nấm. Cái tên “Re-Education Camp” mà ông đã nghe qua,
trên thực tế chỉ là những trại tù khổ sai. Những “học viên” trong các trại đó
sống không khác gì những con vật, quằn quại với cái đói. Họ bị ép buộc làm việc
tới kiệt lực. Tinh thần bị khủng bố, căng thẳng liên miên bởi những buổi ngồi
đồng học tập, phê bình, bầu bán. Tôi thú thật với ông giáo rằng, trong thời
gian đó, tôi chỉ nghĩ tới tự do; làm sao để tìm lại được tự do, dù có chết cũng
cam lòng. Ông giáo đã tỏ ra say mê theo dõi truyện hai lần tôi trốn trại thất
bại, cùng những cực hình mà tôi phải gánh chịu. Tôi cũng không ngần ngại thuật
lại hoàn cảnh của vợ tôi ngày đó, một nách bốn đứa con thơ dại, vất vả, tảo tần
nuôi con, chờ chồng trong 13 năm tôi bị giam giữ, tù đầy.
Tôi
cho ông giáo biết tôi là người sinh ra tại Miền Bắc Việt-Nam. Tháng 7 năm 1954
gia đình tôi đã cùng gần một triệu người khác di cư vào Nam để trốn lánh
Cộng-Sản. Tôi cặn kẽ phân tích cho thầy rõ, sau Hiệp-Định Geneve năm đó, hai
miền Nam, Bắc Việt-Nam đã thành hai quốc gia, độc lập và có chủ quyền, có biên
giới. Chính HCM và đảng Cộng-Sản Việt-Nam đã chủ trương, phát động và điên rồ
theo đuổi một cuộc chiến tranh tiến chiếm Miền Nam . Quân đội và nhân dân
Việt-Nam Cộng-Hòa chỉ làm nhiệm vụ tự vệ. Quân Mỹ và Đồng-Minh vào Việt – Nam
là để phụ giúp chúng tôi chống lại một cuộc xâm lược từ phương Bắc.
Chúng tôi thất trận
không phải vì chúng tôi kém khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu, mà vì người Mỹ
đã phản bội, nửa đường rút quân, cắt viện trợ. Từ khi người Mỹ rút
lui, chúng tôi bị bó chân bó tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu. Trong khi đó,
Miền Bắc lại tràn ngập lương thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện trợ từ
khối Cộng. Thời gian khởi đầu chương trình Việt-Nam- Hóa chiến tranh, còn được
cung ứng vũ khí, lương thực dồi dào, chúng tôi đã chứng tỏ khả năng có thể cáng
đáng bất cứ nhiệm vụ nào của quân đội Đồng-Minh bàn giao lại. Để chứng minh
điều này, tôi mở tờ copy từ quyển History của thư viện, trong đó có sơ đồ các
cánh quân Việt-Nam Cộng-Hòa vượt biên tiến chiếm miền Bắc Cam-Bốt trong chiến
dịch Bình Tây 1, 2, 3 cuối năm 1970 của Quân Đoàn II. Tôi chỉ cho ông cái dấu
hiệu quân sự hình tam giác có chữ R ở giữa, cạnh trên có ba cọng râu, bên trái
là con số 2,
-
Đây! Thưa thầy, cuối năm 1970, tại vùng 2 Chiến Thuật, chúng tôi đã đánh đuổi
quân Bắc Việt tới bờ đông của sông Mê-Kông trên đất Miên. Ngày đó tôi là người
chỉ huy một đơn vị trực thuộc Liên-Đoàn 2 Biệt-Động-Quân. Tôi đã đánh chiếm
thành phố Ba-Kev, và đóng quân tại nơi này một thời gian. Chúng tôi đã chứng tỏ
rằng khả năng chiến đấu của chúng tôi đã hơn hẳn quân đội Bắc Việt. Nhưng những
năm sau, viện trợ cắt giảm dần. Mặc dầu tinh thần của chúng tôi không suy giảm,
nhưng chiến đấu trong cảnh thiếu thốn thường xuyên, chúng tôi vất vả lắm. Tôi
xin đan cử ra đây một so sánh để thầy thấy rõ sự khác biệt.
Trước
khi Mỹ rút, tháng 6 năm 1968, có một lần tôi đang dàn quân tiến chiếm một ngọn
đồi thì Bộ Chỉ Huy Task Force South của Mỹ ở Đà -Lạt đã bắt tôi ngừng lại để
chờ pháo binh và không quân yểm trợ. Tôi đã nhận được một phi tuần hai phi xuất
F4C và sau đó là một hỏa tập tám trăm quả đạn đại bác 105 ly trên mục tiêu
trước khi xung phong. Mục tiêu đó chỉ rộng bằng diện tích khuôn viên trường
Shoreline C. C. này. Chỉ hơn một năm sau khi Mỹ rút, tháng 8 năm 1974, tiền đồn
Plei-Me do tôi trấn giữ đã bị một lực lượng địch đông gấp chín lần vây hãm 34
ngày đêm. Plei-Me cũng chỉ rộng bằng trường Shoreline C.C. thôi. Vậy mà mỗi
ngày chúng tôi đã hứng chịu từ một ngàn tới hai ngàn viên đạn pháo cối của
địch. Để chống lại, ngoài hai khẩu 155 ly của quân bạn yểm trợ từ xa, tôi chỉ
có hai khẩu đại bác 105 ly. Vì tình trạng khan hiếm, tôi chỉ được phép bắn theo
cấp số đạn giới hạn là bốn viên cho mỗi khẩu súng một ngày. Chiến đấu trong
tình trạng thiếu thốn như thế, chúng tôi vẫn chiến thắng. Thầy nghĩ sao về
chuyện này?
Chúng
tôi đã chiến đấu cho chính nghĩa như thế đấy, chúng tôi đã hy sinh như thế đấy,
và chúng tôi đã bị bỏ rơi như thế đấy. Tôi cũng không hiểu vì sao người Mỹ phản
chiến, trong đó có thầy, lại xuống đường tranh đấu, cổ vũ cho kẻ thù của chúng
tôi, và ngược đãi chiến binh của chính nước Hoa-Kỳ? Thầy ơi! Sao thầy lại nỡ
nhẫn tâm như thế! Thầy đã tiếp tay với kẻ thù, đâm sau lưng thân nhân và bạn bè
đồng minh của thầy. Nhân dịp này, tôi cũng chuyển lại cho thầy nghe tâm sự của
anh Bill, một bạn cựu quân nhân Mỹ trở về từ Việt-Nam năm 1973. Anh Bill hiện
nay (2000) là Supervisor của hãng mà tôi đang làm việc. Đây là lời của anh ấy,
“Bạn có cảm thông
nỗi đau đớn của chúng tôi ngày đó không? Hôm chúng tôi cặp bờ Everett ,
Washington, dân chúng Mỹ, kể cả những người thân, tiếp đón chúng tôi bằng cách
dơ cao ngoắc ngoắc ngón tay giữa! Đi đâu chúng tôi cũng bị nhìn với đôi mắt
khinh khi. Bao nhiêu ê chề nhục nhã đổ lên đầu người thua trận. Thua trận đâu
phải lỗi của chúng tôi? Có bạn tôi đã buồn mà tự tử. Rồi tôi bị giải ngũ. Thời
gian ấy kiếm được một việc làm là điều khó khăn trần ai. Hãng xưởng nào cũng
không mặn mà với những hồ sơ xin việc của những cựu chiến binh. Cũng may, có
người bạn học thời Mẫu Giáo đã giới thiệu tôi vào làm việc cho hãng này. Lương
hướng thời ấy chỉ có 3 USD một giờ cũng đã khiến tôi mừng quá lắm rồi.”
Sau câu chuyện này, tôi chuyển sang phê
bình cách giảng dạy của ông thầy, tôi nói thẳng với ông giáo sư rằng, bao năm
nay ông đã bóp méo lịch sử của cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc
Việt-Nam, làm như thế ông đã phạm tội
đối với lịch sử.
Cách giảng dạy của ông đã gieo vào trí óc học trò những thành kiến sai lầm đối
với Việt-Nam Cộng-Hòa, làm giảm giá trị sự trợ giúp của chính phủ và nhân dân
Hoa-Kỳ đối với nước tôi.Cuối cùng, tôi hỏi ông giáo,
-Thầy
còn nhớ, năm ngoái, có một cậu bé Việt-Nam, mặt mày sáng sủa, lông mày rậm, tóc
hớt kiểu nhà binh theo học lớp Sử 274 này không?
-
Nhớ chứ! Mỗi lớp chỉ có vài học trò Á Châu, dĩ nhiên là tôi nhớ!
-
Cậu bé Việt-Nam đó chính là thằng con út của tôi! Năm ngoái, bài tiểu luận đầu
của nó bị điểm KHÔNG (0) vì nó viết theo quan điểm của một người dân Miền Nam.
Những bài sau nó phải đổi cách viết, để thầy cho điểm khá hơn. Tôi là cha nó;
tôi là một trong những người chứng kiến, tham gia và trực tiếp gánh chịu hậu
quả của cuộc chiến tranh vừa qua;tôi không thể làm như con tôi được. Tôi đã nói
hết những điều cần nói với giáo sư, và tôi sẵn sàng chấp nhận hậu quả.
Ông
thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ,
-
Tôi tin lời ông, vì chẳng có lý do gì để ông nói dối. Có điều là, từ đó tới
nay, hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày những gia đình Việt-Nam đầu tiên tới định
cư ở Hoa-Kỳ, chưa ai nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người ta muốn
quên đi quá khứ, hoặc là người ta không có can đảm nói ra. Tôi đã hiểu, và tôi
phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến binh thực thụ.
Nghe
được những lời nói chân tình từ miệng ông giáo sư, lòng tôi cảm thấy ấm áp lạ
lùng. Trước mắt tôi, ông đã thành một người bạn đồng minh, ông đưa bàn tay hộ
pháp ra cho tôi bắt,
“Thưa
người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Đêm
ấy trên đường về nhà, lòng tôi rộn ràng như thuở nào giữa sân vận động Pleiku,
sau chiến thắng Plei-Me, tôi đã đứng trước một đoàn hùng binh, quần áo hoa
rừng, nhận những vòng hoa rực rỡ, tai nghe bản nhạc “Bài Ca Chiến Thắng” do ban
quân nhạc Quân-Đoàn II hòa tấu.
Ngày
chấm dứt mùa Fall năm 2000 ông thầy dạy Sử tươi cười trao cho tôi bản tổng kết
cuối khóa, trên đó điểm trung bình (GPA) lớp History 274 của tôi ghi 4 chấm
(4.00).
Cuối
mùa Spring 2001 tôi dự lễ cấp văn bằng tốt nghiệp A. A. nơi vận động trường có
mái che của Shoreline Community College. Khán đài đông nghẹt thân nhân. Vợ tôi
và bốn đứa con tôi cũng có mặt ngày hôm ấy. Khi người điều hành gọi tên tôi lên
bục để nhận văn bằng, cả hội trường đều ngạc nhiên vì thấy nơi hàng ghế giữa
của khu giáo sư có tiếng ai gào lên như tiếng sấm,
“Long!
I’m proud of you!”
Đến
lúc bà Hiệu Trưởng bắt tay tôi thì ông giáo Dan đứng dậy, bắc loa tay hướng về
sân khấu,
“My soldier! I’m loving you!”
“My soldier! I’m loving you!”
Ông
là một người cao lớn. Trong chiếc áo thụng đen, trông ông dềnh dàng như nhân
vật chính trong phim “Người Dơi”.
Những
người có mặt trong hội trường buổi ấy đều quay mặt nhìn về hướng ông giáo, ai
cũng ngạc nhiên vì hành động phá lệ của một ông thầy xưa nay nổi tiếng là mô
phạm. Thấy ông giáo Dan réo tên tôi ầm ầm, vợ con tôi và những khán giả ngồi
trên khán đài cũng vỗ tay, reo hò, la hét theo. Hai năm sau, khi tốt nghiệp
B.A. từ University of Washington, tôi về thăm và báo cho ông biết, ông vui lắm.
Từ
đó cho tới khi tôi ngồi viết lại những giòng này (2011) hàng chục ngàn học trò
đã tới, rồi giã từ Shoreline Community College. Và chắc chắn, hàng trăm lượt
người trẻ tuổi đã đi qua lớp History 274. Mười một năm qua, tôi vẫn nhớ buổi
tối năm nào, tôi với ông giáo sư dạy Sử đã ngồi tâm sự với nhau. Lời khen của
ông, mà tôi quý như một tấm huy chương, vẫn còn văng vẳng,
“Thưa
người chiến binh. Ông vừa lập một chiến công!”
Seattle
tháng 7 năm 2011
Vương Mộng Long-K20
Vương Mộng Long-K20
.
.
.
dieu khac chan may
ReplyDeletedieu khac chan may nam
dieu khac chan may nu
điêu khắc chân mày
điêu khắc chân mày nam
điêu khắc chân mày nữ
dieu khac long may
điêu khắc lông mày
dieu khac long may nam
dieu khac long may nu