Giáo sư
Nguyễn Khắc Nhẫn
Gửi
cho BBC Việt ngữ từ Pháp
Cập nhật: 08:16 GMT - chủ nhật, 29 tháng 4, 2012
Thảm
họa kinh hoàng Chernobyl, xếp hạng 7 theo thang INES, xảy ra tại Ukraina, Liên
Xô cũ, ngày 26-4-1986, là sự kiện khơi mào cho nhận thức của nhân loại về sự
nguy hiểm tiềm tàng của hạt nhân dân sự.
Tai
nạn này là do ở những sai sót trong thiết kế nhà máy điện hạt nhân và một loạt
lỗi lầm của con người, nhất là thái độ quan liêu không thể tả.
Chính
lò phản ứng số 4 RBMK của Liên Xô, 1000 MW, kiểu lò nước sôi nhẹ, kiềm hãm bằng
than và được làm giàu thấp với uranium, đã gánh chịu vụ nổ (không phải hạt
nhân) và chảy tâm lò. Lò này, dạng trụ với đường kính là 12 m và cao 8 m, chứa
190 tấn uranium làm giàu 2%. Những điểm yếu của kiểu lò này là không có vỏ bọc
(enceinte de confinement) hay mái vòm bảo vệ.
Công
suất yếu, tâm lò không ổn định, nước dùng để truyền nhiệt có mặt khắp nơi,
nhưng nó cũng là nguồn hấp thụ nơtron và do đó hơi nước rất là nguy hiểm và các
cần điều khiển (barres de contrôle) không hoàn toàn dễ sử dụng.
Chính
thao tác của một vài kỹ sư điện, không biết gì về hạt nhân, đến từ Moscow, với
mục tiêu là chứng tỏ khả năng khởi động lại nhà máy cùng với động năng của
turbin khi có sự cố bên ngoài về điện, là nguồn gốc gây ra thảm họa. Nguyên
nhân là do sự bịt kín và sự gãy đổ các cần điều khiển đối với than kiềm chế.
Chế độ siêu cấp (công suất lò phản ứng tăng lên 100 lần) gây ra một loạt các vụ
cháy nổ.
Vụ
nổ lớn đầu tiên là nổ hơi nước làm tung lên trời 1200 tấn bê tông phủ lò phản
ứng. Vụ nổ thứ hai hoặc là do hydro, hoặc do vượt quá giới hạn và phản ứng dây
chuyền xảy ra. Ngoài một lượng khổng lồ các chất phóng xạ tung vào không khí
(cao hơn 3000 m); người ta ước tính rằng gần 100 kg plutonium (trên tổng số 400
kg chứa trong lò) đã lan tỏa vào môi trường lúc xảy ra vụ cháy.
Sự
chảy tâm lò và các cấu trúc kim loại tạo nên một lớp corium nằm dưới lò phản
ứng. Trong chất thải này có chứa 300 kg plutonium.
Theo
một chuyên gia là giáo sư Vassili Nesterenko, sự lắng đọng của plutonium nóng
chảy này có thể gây nên một vụ nổ nguyên tử nhiều chục năm sau đó! Các chuyên
gia của Viện hàn lâm Khoa học Belarus tính toán rằng một vụ nổ nguyên tử mạnh
từ 50 đến 80 lần bom Hiroshima có thể xảy ra 2 tuần sau vụ nổ Chernobyl!
Những
người vận động lobby cho giải pháp điện hạt nhân cho rằng xác suất xảy ra một
tai nạn lớn như vậy (chảy tâm lò) là khoảng 1 phần triệu.
Người
ta thường nhầm lẫn giữa xác suất và kỳ vọng toán học (espérance mathématique).
Con số rất nhỏ này không thể tin được, bởi vì xác suất phụ thuộc vào rất nhiều
giả thiết.
Mặt
khác, phần lớn, chính con người là nguyên nhân chứ không phải máy móc! Do đó
phải tính đến tần suất lỗi của con người. Đừng quên rằng chỉ trong vòng 50 năm
qua mà đã xảy ra năm vụ cháy tâm lò: một ở Three Mile Island, một ở Chernobyl
và ba ở Fukushima. Thế giới hiện có 437 lò, với tổng công suất là 370.500 MW.
Khái
niệm về rủi ro rộng hơn khái niệm xác suất. Năm nay, nhân kỉ niệm 26 năm
Chernobyl, người ta bắt đầu xây dựng một cái Sarcophage (cái quách) khổng lồ
thứ 2, trị giá 1,5 tỷ euros, bao trùm lò Chernobyl, với mục đích cấm phóng xạ
thoát ra ngoài trời. Thiết nghĩ, thực không có một công nghệ nào “quái lạ” như
thế này.
Ai nghiêm trọng hơn?
Khi
so sánh mức độ nghiêm trọng giữa hai thảm họa Chernobyl và Fukushima, cũng như
nhiều chuyên gia khác, tôi cho rằng thảm họa Fukushima nghiêm trọng hơn nhiều
lần so với Chernobyl, bởi vì nó được gây ra bởi thiên nhiên và phức tạp hơn
nhiều, tuy rằng có nhiều lỗi về thiết kế. Nó đã làm chảy tâm lò phản ứng số 1,
2, và 3 của nhà máy Fukushima 1 Daiichi và gây thấm bể chứa và đáy của một số
lò (melt-out).
Thật
ra, tập hợp những thanh nhiên liệu chứa trong hồ, tương đương với hai chục tâm
lò, cũng có thể bị nóng chảy. Kịch bản này còn nguy hiểm hơn việc nóng chảy một
tâm lò bởi vì nó không chỉ liên quan đến nhiều lò phản ứng mà còn nhiều hồ làm
mát các thanh nhiên liệu phóng xạ.
Trong
khi ở Chernobyl, phản ứng dây chuyền không kiểm soát được đã gây nên sự hoạt động
quá mức của lò phản ứng và từ đó là nhiệt độ cao bất thường, dẫn đến vụ nổ hơi
nước hoặc là hydro; tại Fukushima, phản ứng dây chuyền được tắt một cách tự
động khi xảy ra động đất, điều này hạn chế mức độ thải ra các sản phẩm của quá
trình phân hạch. Điều may mắn là ở Chernobyl, tâm lò nóng chảy không thấm qua
đáy lò trong khi ở Fukushima, tâm lò nóng chảy đã xuyên qua bể chứa và vỏ bọc
để đi vào lòng đất.
Cũng
cần biết thêm rằng ở Fukushima có 877 tấn nhiên liệu trong các lò phản ứng và
3.400 tấn nhiên liệu đã qua sử dụng nằm trong 7 hồ chứa, tổng cộng là 4.277
tấn. Để so sánh, nên nhớ rằng ở Three Mile Island con số này là 30 tấn và ở
Chernobyl là 190 tấn.
Ước
tính lượng chất phóng xạ thoát vào không khí ở Fukushima là 770.000
terabecquerels, tức gần 5 lần ít hơn ở Chernobyl (4 triệu terabecquerels ). Nhưng
con số này không tính đến chất thải đi vào đất và nước biển, và cũng không nên
quên rằng việc ô nhiễm vẫn tiếp tục ở Fukushima. Lượng cesium 137 thải vào biển
nhiều hơn khoảng hai lần số lượng gây ra bởi các vụ thử bom nguyên tử ở Thái
Bình Dương vào những năm 1960.
Nhưng
tai họa rất nguy hiểm đối với Nhật Bản nằm ở sự ô nhiễm gây ra bởi cesium 137
đối với mặt đất, tầng dưới mặt đất, các lớp nước giếng, nói chung là cả hệ
thống lưu chuyển nước ngọt. Một phần nước ngọt, mà rất khó có thể biết con số
chính xác, có thể không thể dùng cho sinh hoạt và nông nghiệp được trong vòng
hơn 2 thế kỷ!
Trái
với Tepco vốn tìm mọi cách khẳng định rằng chỉ có sóng thần là nguyên nhân của
thảm họa Fukushima, Ủy ban điều tra Nhật Bản đã đưa ra giả thuyết là đường ống
chính của nhà máy điện hạt nhân đã bị hư hại nghiêm trọng, ngay trước trận động
đất dữ dội (9 độ Richter) xảy ra.
Tham vọng vô ích
Nhân
những bài học thảm họa kể trên, trở lại các kế hoạch phát triển điện hạt nhân ở
Việt Nam, chúng tôi tự đặt ra câu hỏi vì cớ gì Việt Nam lại muốn xây dựng một
loạt tới 10 lò hạt nhân? Liệu nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận có thể trở
thành một Tchernobyl khác không?
Và
như tôi đã có dịp trình bày ở một số diễn đàn, tôi cho rằng chương trình điện
hạt nhân của Việt Nam không những quá tham vọng mà thật là vô ích, vừa phí của,
phí thì giờ, làm chậm trễ việc khai thác cấp tốc năng lượng tái tạo.
Ngoài
Trung quốc, không có một nước nào xây dựng nhà máy điện hạt nhân với một tốc độ
cao như thế, coi thường khía cạnh an toàn, khoa học, kinh tế, nhân sự, môi
trường.
Mặt
khác, nhu cầu điện lực của Việt Nam được thổi phồng từ lâu, không thực tế chút
nào. Theo dự báo, Việt Nam sẽ cần 329 đến 362 TWh (tỷ kWh) năm 2020 và từ 695
TWh đến 834 TWh năm 2030.
Tôi
cam đoan rằng những con số này không thể nào đạt được. Nếu cứ chạy theo mức
tăng trưởng lũy thừa nhu cầu điện, 15%- 16% mỗi năm ( dù sẽ hạ dần xuống 11,5%
đi nữa ), thì thế nào ta cũng sẽ gặp một cuộc khủng hoảng trầm trọng!
Ở
Pháp hiện nay nhu cầu khoảng 500 TWh. Có kịch bản đề nghị hạ con số này xuống
360 TWh trong tương lai, với điều kiện tiết kiệm và tăng gia hiệu suất năng
lượng, đồng thời sử dụng tối đa năng lượng tái tạo.
Người
ta hạn chế, Việt Nam lại khuyến khích tiêu thụ. Trong lúc người ta đặt biệt chú
trọng đến mô hình cầu (modèle de la demande) thì Việt Nam lại quan tâm đến mô
hình cung (modèle d’offre) gây rất nhiều lãng phí. Theo đà này thì không khéo
Việt Nam sẽ dư điện.
Làm bom nguyên tử?
Các
bạn ngoại quốc hỏi tôi có phải Việt Nam muốn làm bom nguyên tử như Iran hay
Triều Tiên. Tôi trả lời là nên đặt câu hỏi đó với Thủ tướng Chính phủ. Trên lý
thuyết, mỗi năm 1 lò PWR 1000 MW có thể cho 200 kg tương đương plutonium. Nhưng
kỹ thuật chế bom không phải dễ, cần một số điều kiện tối thiểu. Các lò RBMK của
nhà máyTchernobyl, ngoài việc cung cấp điện, cũng có mục đích gia tăng lượng
plutonium cho Liên Xô.
Một
số chuyên gia cũng nghi là Việt Nam bị một áp lực kinh tế và chính trị nào đó,
nên mới câp tốc xây dựng một loạt 10 – 12 lò trong một khoảng thời gian rất
ngắn (đến 2030), bất chấp nguy hiểm và những khó khăn sẽ chồng chất lên nhau,
khó lường trước được.
Ninh
Thuận có thể trở thành Chernobyl, không phải vì máy móc, vì lò có vỏ bọc
(enceinte de confinement) nhưng vì thiếu chuẩn bị chu đáo và vì nhân viên vận
hành, thiếu trình độ, kinh nghiệm hay kỷ luật. Mặc khác, vùng Ninh Thuận cũng
có thể bị động đất và sóng thần. Đó là chưa nói đến sự cẩu thả có thể có của
tập đoàn Rosatom (Nga) và cuộc khủng hoảng trầm trọng của công nghệ điện hạt
nhân Nhật Bản!
Muốn tránh một thảm họa xảy ra ở Ninh Thuận, theo tôi dễ
nhất là Việt Nam phải hủy bỏ ngay chương trình điện hạt nhân. Nếu không, Việt Nam
sẽ bị phóng xạ ngàn năm ô nhiễm, làm tê liệt kinh tế lâu dài và gây bao nhiêu
đau thương cho đồng bào vô tội.
Không đủ nhân lực
Một
vấn đề khác có thể đặt ra là nhân lực. Ngân sách Việt Nam dành cho chương trình
giáo dục và đào tạo chuyên viên dự tính khoảng trên 3.000 tỷ đồng. Số lượng dự
kiến đến năm 2020 cả thảy là 3000 người được đào tạo.
So
với nhu cầu, con số này tương đối quá nhỏ. Một nhà máy điện hạt nhân 1000 MW,
trung bình, cần khoảng 800 đến 1000 người đủ mọi ngành nghề, trong đó một nửa
là nhân viên vận hành. Hiện nay trong nước có khoảng 500 chuyên viên trong lĩnh
vực hạt nhân và số chuyên viên có kiến thức thực nghiệm kỹ thuật hạt nhân có lẽ
không quá 100 người. Số chuyên gia cao cấp có kinh nghiệm về nhà máy điện hạt
nhân thì rất hiếm.
Việt
Nam đã bắt đầu chương trình đào tạo về khoa học công nghệ hạt nhân từ thang 6 –
2011. Mỗi năm dự kiến đào tạo ở 5-6 trường đại học trong nước khoảng 250 sinh
viên. Theo kế hoạch nhà nước, đến năm 2020 sẽ đào tạo được 350 tiến sĩ và thạc
sĩ, 24.00 kỹ sư trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân. Riêng cho lĩnh vực quản lý,
ứng dụng và an toàn hạt nhân, phải đào tạo 250 tiến sĩ và thạc sĩ, 650 kỹ sư.
Hàng trăm sinh viên trong các con số trên, sẽ du học và tu nghiệp ở ngoại quốc
Hiện
nay phần lớn các đại học Âu Châu chú trọng đến việc đào tạo chuyên viên để tháo
gỡ nhà máy hơn là để xây cất.
Tháo
gỡ là một kỹ thuật tương đối mới nên người ta thiếu chuyên gia có kinh nghiệm
để giảng dạy. Mặc khác, một số đông giáo sư chuyên ngành hạt nhân đã nghỉ hưu.
Nếu
hàng trăm triệu đô-la chúng ta phung phí trong việc đào tạo này để dành cho
lĩnh vực năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng, nâng cao hiệu suất năng
lượng có phải ích lợi cho đất nước và hợp thời, thì có hợp lý hơn không?
Lẽ
cố nhiên, tôi hoàn toàn không tán thành việc phung phí tiền của dân để đào tạo
sinh viên như thế này, vì điện hạt nhân đã lỗi thời, vô cùng nguy hiểm, không
kinh tế và cũng không có chút triển vọng nào.
Chúng
ta không có quyền khuyến khích thế hệ trẻ đi ngược trào lưu thế giới, mất thì
giờ vàng ngọc của họ. Tôi cho rằng Việt Nam cần xét lại gấp chiến lược năng
lượng dài hạn trước khi quá muộn!
------------------------
Điện
hạt nhân là một chủ đề gây tranh cãi ở Việt Nam. Bài viết nhân tuần lễ kỷ niệm
26 năm sự cố Chernobyl phản ánh quan điểm riêng của GS Nguyễn Khắc Nhẫn, Viện
kinh tế, chính sách năng lượng và Đại học Grenoble, Pháp, nguyên cố vấn nha
kinh tế, dự báo, chiến lược EDF Paris.
TÀI LIỆU :
.
.
.
dieu khac chan may
ReplyDeletedieu khac chan may nam
dieu khac chan may nu
điêu khắc chân mày
điêu khắc chân mày nam
điêu khắc chân mày nữ
dieu khac long may
điêu khắc lông mày
dieu khac long may nam
dieu khac long may nu