Sunday, 29 April 2012

GIÁ MÀ THÁNG TƯ ĐỪNG ĐẾN (Blogger Đinh Tấn Lực)




28-4-2012

“Có bao nhiêu vô ích làm nên lịch sử”
Lê Bi – 1990 – Tự thân

Năm nhuần, theo lịch tây, chỉ thêm mỗi ngày 29 cho tháng Hai. May thay! Bằng không, tính theo lịch ta, năm nhuần nhồi thêm nguyên cả tháng, mà như năm nay, đến những 2 tháng Tư. Chết dở, với biết bao hoài niệm!

Người ta thường nháy mắt pha trò: Bao giờ cho tới tháng Mười? Lại lắm kẻ nghiêm mặt hỏi: Bao giờ cho hết tháng Tư? Nghe thoáng cứ như thêm một vết dao cùn cứa thành sẹo mới, trong tim, hàng năm.

Mọi chữ “nếu” đều có cái giá của nó. Có cái có thể trả ngay bằng tiền tươi. Có cái được trả bằng tương lai (bị nhấn ngược vào quá khứ) của một dân tộc. Thành ra, mơ rằng “Nếu VN chẳng có 30 tháng Tư” thì không khác nào nằm mộng “Nếu Kampuchia chẳng có những cánh đồng sọ người”.

Song, cứ thử đi (chẳng thiệt đồng xu teng nào đâu mà ngại), hãy mường tượng thử một bối cảnh khác: “Nếu, sau khi ký Hiệp ĐịnhParis1973, VN ta ai về chăm lo nhà nấy, thì mặt mày đất nước bây giờ ra sao nhỉ?”.

*

“Mỗi ngày tôi để lại một vạt lo toan, một niềm khắc khoải”
Hoàng Trần Cương – Dấu vết tháng ngày

Trước tiên, hẳn rằng đã không có “triệu người vui và triệu người buồn”. Vui/buồn vẫn đó, vẫn vậy, như vốn hằng phải có, cả từ những điều nhỏ nhặt trong đời sống, nhưng nhất định là người Việt không chia phe vui/buồn, trên cùng một biến cố.

Trong suốt hai năm 73-75, đã không có thêm máu đổ xương rơi. Các nghĩa trang dọc Trường Sơn đỡ chật. Bức tượng đồng Thương Tiếc ở Biên Hòa vẫn còn nguyên. Một phần quân đội (cả hai bên) buông súng về quê cầm cuốc, hay vào khu chế xuất cầm chuột vi tính…

Dân số hai miền ắt đã chênh lệch hẳn, bởi chủ trương “gia đình hai con” tránh nhân mãn (nhân tiện, tránh cả ùn tắc giao thông) ở miền ngoài; và bởi miền trong “giàu của chẳng bằng giàu con”, lại chẳng bị “mất tích” gần hai triệu người ngoài biển khơi và hàng chục vạn khác trong rừng Kăm.

Gần nửa triệu nhân tài người Việt cũng đã chẳng phải thui thân chột phận nơi rừng sâu nước độc của các trại tù lao cải. Hoặc, hơn nửa triệu khác đã nghiến răng cắn lợi đóng góp nguồn vốn tri thức để giúp phát triển các đại công ty... nước ngoài.

Thanh niên VN đã chẳng bị xuất khẩu thành lao nô trả nợ chiến phí cho Liên Xô và các nước Đông Âu. Cũng chẳng bị Liên Xô xuất khẩu sang ngăn chận hiểm họa diệt vong dân tộc xứ Chùa Tháp, và tất nhiên, nhờ vậy, chẳng phải điều quân đón đỡ trận chiến “giáo trừng” của bọn bá quyền phương Bắc đến long trời lở đất suốt sáu tỉnh dọc biên. Biết đâu chừng đã tránh nốt được trận bão Gạc Ma.

Phân nửa thác Bản Giốc, nguyên ải Nam Quan, một phần lãnh thổ dọc biên cùng một phần Vịnh Bắc bộ có thể vẫn không khỏi trở thành miền đất “lạ”, nhưng ngược lại, giặc Bắc không có lý cớ và quyền lực gì để chiếm thêm mấy đảo thuộc cụm Trường Sa. Cũng chẳng biết chừng miền trong đã giải quyết êm đẹp việc thu hồi các đảo thuộc cụm Hoàng Sa.

Những cách biệt khác?

Dựa trên bản phóng chiếu vị trí và khả năng của Miền Nam Việt Nam so với láng giềng trước 1975, có thể nào người ta kể ra đại loại sự cách biệt trọng một số lãnh vực gần gạnh trước mắt của miền trong:

* Các viện đại học Vạn Hạnh, La San, Hòa Hảo… sánh vai cùng cấp và ra sức cạnh tranh với viện đại học quốc gia.

* Các giảng viên, giáo sư và giáo viên “biệt phái” kỳ tổng động viên trong Nam được giải ngũ, tu nghiệp và trả về trường cũ dạy tiếp.

* Các kỹ sư, cán sự, chuyên viên “biệt phái” cũng được giải ngũ, tu nghiệp, trả về các ty/sở gốc tái thiết hạ tầng cơ sở kinh tế cấp tỉnh/thành/quận…

* Các y/nha/dược sĩ từ các quân y viện được giải ngũ bớt về đời sống dân sự, hiệp lực đẩy mạnh chính sách y tế cộng đồng cho quảng đại quần chúng.

* Học sinh cấp trung học, cao đẳng, đại học và hậu đại học đều không phải lo điểm Mác Lê cho kỳ tốt nghiệp.

* Bệnh nhân ở các bệnh viện cũng chẳng phải học tập văn hóa phong bì trong lúc phải thực diễn đội hình cá hộp.

* Báo chí không mất 700 tờ đăng cùng bài xã luận, hay cùng bản tin, ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm qua năm…

* Sách in không nhất thiết phải đồng hướng tiến vươn lên Lỗ Tấn hoặc tuột xuống Sợi Xích.

* Phim ảnh miệt trong có lẽ thích Hollywood hơn, và chẳng cần quanh quẩn tới thuộc lòng những Tam quốc diễn nghĩa (三国演 – Sān Guó Yăn Yì ) 1994 tới Tam Quốc Chí 2010; hay Hồng lâu mộng (紅樓夢) 1987 tới Hồng lâu mộng 1996…

*

“Mẹ em đây người dân công tải đạn
Mẹ em đây người nữ cứu thương
Cha em đây giữa chiến trường
Mặt đen khói đạn, chặn đường giặc lui”
Tố Hữu – Em bé Triều Tiên

Dễ mường tượng (và có nhiều xác suất xảy ra) nhất cho trường hợp mọi bên cùng tôn trọng Hiệp Định Paris 1973, cho dù chưa hẳn một giải pháp tối ưu, chính là mô thức Nam-Bắc Hàn.

Vẫn dựa trên bản phóng chiếu vị trí và khả năng của miền Nam Việt Nam so với Mã Lai/Thái Lan/Đài Loan/Nam Hàn trước 1975, đặc biệt là dựa trên dữ kiện nghiên cứu công phu của cố GS Đặng Phong, trong suốt chiều dài 1975-2010, thì ngoài những cách biệt cơ bản nói trên, tình hình có thể còn thêm một số điểm có thể ghi nhận được từ miền trong:

Người Việt không gửi quà về cho thân nhân từ nước ngoài, mà gửi từ miền trong ra miền ngoài, xuyên qua một quốc gia trung lập nào đó. Dần dần hình thành một hệ thống chuyển ngân thông qua một cơ quan phi chính phủ và phi lợi nhuận ở Sài Gòn.

Vùng phi quân sự DMZ tại vĩ tuyến 17, nếu được Hà Nội đồng thuận, sẽ cùng thành lập một ký túc xá “Vãng Lai/Tao Ngộ” (nếu cần sẽ do Sài Gòn đài thọ kinh phí), nhằm giúp cho thân nhân hai miền được gặp gỡ thăm viếng và đỡ đần nhau chính thức/công khai, dưới sự giám sát của chính quyền cả hai phía.

Không bị phủ chụp bởi bóng râm Trung Nam Hải, và chẳng hề vướng víu “ơn nghĩa bầu bạn quốc tế” hỗ trợ “đánh Mỹ cho tới người VN cuối cùng”, miền trong không cần phải có những khu biệt lập của người TQ như miền ngoài. Ngay cả vùng Chợ Lớn cạnh Sài Gòn cũng chẳng bao giờ trở thành khu biệt lập gần như tự quản (thông qua hệ thống bang hội) như bây giờ.

Chương trình Cải cách điền địa (1955-1960) đổi sang Người cày có ruộng (1969-1971 – đệ nhị cộng hòa miền Nam bán công khố phiếu mua lại 1triệu rưỡi hecta ruộng của điền chủ rồi chia đều miễn phí cho 800.000 hộ tá điền, tức khoảng 5 triệu nông dân) đã hoàn tất từ 1971, thêm giống lúa Thần Nông IR3 được canh tác trên gần ba triệu hecta ruộng từ 1972, miền Nam mau chóng lấy lại danh hiệu Vựa lúa của Đông Nam Á.

Các đồn điền trồng cây kỹ nghệ (mía đường/thuốc lá/cà phê/cao su…) được phục hồi khả năng sản xuất và chế biến thành phẩm (hãng lốp xe Châu Bá-Michelin), cùng nhịp với công nghiệp nuôi trồng và biến chế thủy sản (hợp tác với New Zealand) có nhiều cơ hội chiếm lĩnh thị trường Âu Mỹ từ cuối thế kỷ 20.

Các kế hoạch thăm dò khai thác dầu hỏa của miền Nam suốt từ những năm 1963-1973 đã đi vào giai đoạn thu hoạch. VNCH cấp giấy phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa được khai thác 13 địa điểm trong một khu vực 82.000 km² (mới chỉ là 16% của thềm lục địa). Tới tháng 10, 1974, hãng Mobil khoan mỏ Bạch Hổ, tại lô 04-TLD, tìm được dầu dưới độ sâu trên 2,7 km. Ước tính là vào cuối 1975, sẽ có ít nhất 20 giàn khoan. Vũng Tàu có nhiều xác suất có nhà máy lọc dầu đầu tiên của VN. Tất cả là của VN, không bị chi phối hay bị buộc phải hợp doanh bởi Cty Soviet nào.

Các khu kỹ nghệ Biên Hòa/Phong Dinh/Quảng Ngãi/SONADEZI… và các xí nghiệp đơn lẻ được hỗ trợ tín dụng từ Quốc Gia Doanh Tế Cuộc/Trung Tâm Khuếch Trương Kỹ Nghệ/Quỹ Tái Thiết Cơ Sở Sản Xuất, đồng thời, cũng là hướng giải quyết tỷ lệ thất nghiệp và nạn nhân chiến cuộc, nhờ đó thu ngắn giai đoạn gia công của công nghiệp VN để tiến lên cùng nhịp với Đài Loan, Nam Hàn từ những năm đầu thập niên 1980s.

Một số trọng điểm chọn lọc trong bản Kế hoạch kinh tế hậu chiến, do Kinh tế gia David Lilienthal dự thảo, được khai triển, kết hợp với các quỹ Viện trợ Phát triển (kỹ thuật/ngân hàng/quản trị), đặc biệt nhắm vào các lãnh vực viễn thông, tàu hỏa, nhiệt điện… sẽ làm nền giúp miền Nam cất cánh cùng thời với các tiểu hổ Á châu.

Những nhân tố nền tảng cộng hưởng vào tiến trình đó là nhờ miền Nam đã có sẵn: a) một nền sinh hoạt chính trị dân chủ, dù còn là non trẻ; b) động lực tư hữu và kinh nghiệm kinh tế thị trường đích thực; c) một nền báo chí khá tự do và tương đối đáp ứng nhu cầu thông tin của độc giả và đặc biệt là doanh gia; d) một hướng giáo dục nhân bản, trọng pháp và cầu tiến; e) một tình trạng tham nhũng còn có giới hạn (nhờ báo chí và luật pháp); g) sớm áp dụng các tiến bộ kỹ thuật Tây phương; h) sớm kinh qua mô hình kinh tế dịch vụ (chiếm hơn phân nửa GDP 1973; i) một hãng hàng không dân dụng đã có những đường bay quốc tế; k) một hệ thống đường bộ và đường thủy khá tốt; l) một hệ thống công đoàn độc lập hoạt động theo tiêu chuẩn Âu Mỹ; m) những hội và hiệp hội ngành nghề tự lập tự quản sinh hoạt có hiệu quả…

Mặt khác, miền Nam đã có sẵn 4 yếu tố quan trọng:

1. Một dàn chuyên viên vi tính (bộ Giáo dục/bộ Tổng tham mưu/bộ Tư lệnh Hải quân) từ thời IBM mainframe S360-67 chạy bằng CPU IBM2030 trên OS/VS1 với hệ nhập dữ kiện đầu vào bằng thẻ đục lỗ (Herman Hollerith punch cards), đầu ra băng từ IBM 2401 (to bằng cái tủ lạnh), sử dụng hệ mẫu tự EBCDIC và các loại ngôn ngữ vi tính căn bản Assembler, Basic, Pascal, Fortran, RPG, Cobol, online CICS…;

2. Một đội ngũ hàng vạn sinh viên du học hàng năm nhiều ngành nghề ở các nước tân tiến (Âu/Mỹ) và cả chương trình Colombo (Australia/New Zealand). Với nhịp độ đó, nhân suốt chiều dài 39 năm gộp lại và đào tạo thêm trong nước, tỷ lệ chuyên viên kỹ thuật cao của VN không thể kém hơn Nam Hàn/Đài Loan… và có khi đuổi kịp Nhật Bản (như Nam Hàn đang đạt, nhân cơ hội 2 thập niên đình động của Nhật).

3. Một hãng xe LaDalat-Citroën, đi vào hoạt động cùng thời với Hyundai Motor của Nam Hàn;

4. “Đôi khi ta thấy trong cùng một quốc gia có sự phối hợp giữa tài nguyên phong phú, một hệ thống hành chính có quyết tâm với những chính sách kinh tế hợp lý một dân tộc thông minh, khéo léo, và hết sức dẻo dai, với một khả năng cố gắng bền vững, một quyết tâm mãnh liệt và tha thiết bảo tồn tự do của mình… Khi có một kết hợp như vậy, như hiện đang có ở Việt Nam, thì chỉ cần một nguồn tài chính từ ngoài vào làm vai trò tác động, để nối kết tất cả những yếu tố này lại với nhau thì có thể có những kết quả thật là xuất sắc”. Đại sứ Martin – 1973 – trả lời phỏng vấn US News & World Report

Với ngần đó ưu thế, người ta không ngại ngoa ngữ khi bảo rằng danh sách các tiểu hổ châu Á vào cuối thế kỷ 20 hẳn phải có thêm VNCH.

Nghĩa là, Sài Gòn vẫn vang danh Hòn ngọc Viễn đông.

Nghĩa là, giờ này, cạnh tranh với Asus Zenbook hẳn đã có VietBook; với Acer Iconia Tab ắt có VietTab; với Samsung Galaxy Note ắt có VietNote; với Toyota Innova biết đâu đã có LaDalat Prenn v.v…

*

“Không ai có thể sống an lành với một đất nước chia đôi”
Wim Winders – 1986 – Tác giả cuốn phim quay lén Những Đôi Cánh Ham Muốn (về đời sống Đông Bá Linh, 3 năm trước khi bức tường ô nhục sụp đổ)

Cũng không khó mường tượng, nhưng chẳng ai dám nói biết rõ xác suất khả thi cao thấp ra sao, là trường hợp hai miền Việt Nam, sau vài thập niên chân thật gìn giữ những cam kết trong hiệp ước Paris 1973, đã thống nhất theo mô thức Đông Đức – Tây Đức.

Giả thiết Sài Gòn đạt được vị thế tiểu hổ châu Á như nói trên.

Giả thiết Hà Nội không cực đoan và hiếu chiến như Bình Nhưỡng.

Giả thiết Hà Nội bước cùng nhịp với Nam Vang/Vạn Tượng, và đi trước La Habana một bước.

Giả thiết tình hình miền ngoài có một số “đổi mới”, nghĩa là mọi thứ thực tiễn gần điểm chốt sẵn sàng (như hiện giờ), chỉ cần bỏ cái đuôi “định hướng XHCN”, thì xác suất “Việt Nam thống nhất như nước Đức” đó phải được coi là khá cao.

Chao ôi! Phải biết vị thế của VN trong ASEAN bảnh nào có kém gì Đức trong EU.

Và đố có thằng hàng xóm “lạ” nào dám ho he càn rỡ!

*

Tiếc thay.

Thực tế ngược hẳn.

Nhà thơ Lê Bi, như được trích ở dòng đầu bài, hoàn toàn đúng, nhưng chưa đủ. Có những vô ích (chen lẫn vô học/vô hậu/vô lối và lắm thứ vô duyên khác nữa đã) làm nên lịch sử. Nó cào bằng miền Nam, cả kinh tế, chính trị, xã hội, lẫn tính/tình người, cho bằng miền Bắc muôn năm vung tay dậm chân hô hào tiến lên XHCN.

Tiếc thay.

Lịch sử không cho lật ngược trang, mà chỉ đòi/đợi những con người dám đứng lên/bước tới.

Bởi, đã 2012, đã quá trễ cho chuyến tàu thần long mãnh hổ bên mép Thái Bình Dương.

Chỉ mong là không một ai phải chép miệng/thở dài lần nữa vào những năm 2022 hay 2032, rằng, giá mà lãnh đạo Hà Nội tỉnh giấc, dám đặt tương lai đất nước và dân tộc lên trên chính mình hay những biệt thự dát vàng có vườn rau sạch hoặc những nhà thờ họ nguy nga… từ thời 2012…

“Vì đã nghe ra từ xương máu muôn dân
Là thương cả bốn ngàn năm đang cùng bước tới
Những bước hài hòa từ một xuất xứ lương tâm”
Lê Bi – 1982 – Sử mai


28-04-2012 – Kỷ niệm tròn 56 năm lễ hạ cờ Pháp lần cuối tại phủ Cao Ủy Sài Gòn trước khi rút hết quân đội thực dân về nước.

.
.
.

1 comment:

View My Stats