Quá
trình chiếm hữu và thực thi chủ quyền của VN tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Hồ Sĩ Qúy*
1. Ít nhất, từ thế kỷ XVII, Hoàng Sa không phải là
lãnh thổ vô chủ (Terra Nullius)
Sử sách Trung Hoa suốt từ các đời Tần, Hán đến tận sau Thế chiến
thứ II, không có tài liệu nào xác nhận, Biển Đông với quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc (Biển Đông được người Trung Quốc
và giới hàng hải gọi là中国南海 Trung Quốc Nam Hải, 花南Hoa Nam,
South China Sea, người Philippines từ 2012 gọi là biển Tây
Philippines, West Philippine Sea; quần đảo Hoàng Sa được người Trung Quốc gọi
là西沙Tây Sa, tiếng Anh: Paracels và Trường Sa người
Trung Quốc được gọi là 南沙 Nam Sa, tiếng Anh: Spratlys). Trong khi đó, không
ít bản đồ phương Tây vẽ trước thế kỷ XIX, thư tịch cổ Trung Hoa do chính người
Trung Hoa viết, lại đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt
Nam.[1]
Phía Trung Quốc thường tuyên truyền chủ quyền của họ đối với biển Đông
có từ hơn 2000 năm trước. Nhưng những chứng cứ chủ yếu lại chỉ là những ghi
chép của người đương thời và người đời sau về các con đường hàng hải từ Trung
Quốc ra nước ngoài, các hoạt động thám hiểm, buôn bán, đánh cá… và qua đó có
ghi chép về địa lý, lịch sử, phong tục… ở các vùng mà những người chứng kiến đã
đi qua. Cũng có tài liệu nói người đánh cá Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam và các
nước khác khi buôn bán, đánh cá hoặc gặp thiên tai trên biển… đã từng sống trên
các đảo tuỳ theo mùa vụ, nhưng cụ thể từ khi nào và mùa vụ là bao nhiêu lâu thì
chưa thấy tài liệu nào ghi chép thật rõ,[2] và chỉ
riêng điều đó thì cũng không có ý nghĩa về mặt chủ quyền. Ở đây các nhà nghiên
cứu đôi khi thường bắt gặp có sự nhầm lẫn hoặc cố tình nhầm lẫn của những người
làm sử thiếu khách quan. Theo luật pháp quốc tế, việc thực thi chủ quyền và quyền
chủ quyền trên các vùng biển đảo, ngày nay, không phụ thuộc vào việc phát hiện,
thám hiểm hay thực thi buôn bán, làm ăn trên biển. Cũng không phụ thuộc vào sự
hiểu biết của người quan sát về biển đảo. Từ thế kỷ thứ VIII, người Bắc Âu, Hà
Lan, Tây Ban Nha, Anh… đã có tiếng là những Viking[3] gồm những
nhà thám hiểm, nhà buôn, chiến binh, và cả những hải tặc đã tung hoành trên nhiều
vùng biển của địa cầu. Những ghi chép của người Anglo-Saxon về hải dương từ lâu
đã là nguồn tra cứu phong phú và quý giá của nhân loại. Tiếp theo là những người
Ấn Độ, Trung Quốc, Philippines, Việt Nam… cũng có mặt ở nhiều vùng trên Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương. Phương Đông không có các Viking, ít các nhà thám hiểm
nên người phương Đông có mặt trên biển chủ yếu là buôn bán, làm ăn, đánh cá…
Trước đây, phía Trung Quốc còn đưa thêm nhà thám hiểm người Hồi là Trịnh
Hòa vào hồ sơ tranh chấp biển đảo. Nhưng thực ra Trịnh Hòa chỉ đi ngang qua biển
Đông và các ghi chép về 7 chuyến đi của ông cũng không thấy nói gì đến Hoàng
Sa, Trường Sa: Từ năm 1405-1433, Minh Thành Tổ cử Đô đốc Thái giám Trịnh Hòa chỉ
huy đoàn thám hiểm “hạ Tây dương” 7 lần đến Ấn Độ Dương và Biển Ả Rập nhằm thiết
lập bang giao với trên 30 quốc gia duyên hải, triển khai Con đường Tơ lụa trên
biển tại Ấn Độ, Phi Châu và Trung Đông. Những chuyến hải hành của Trịnh Hòa
trên thực tế không hề dừng ở Biển Đông. Trạm trú chân duy nhất của đoàn trong
khu vực này là Đồ Bàn (Chaban) thủ phủ Chiêm Thành bấy giờ. Sau khi Minh Thành
Tổ mất, triều Minh đã phê phán những cuộc hải trình này chỉ là phô diễn và làm
suy yếu kinh tế quốc gia.[4] (Gần đây,
khi đụng đến những vấn đề Biển Đông, các chuyến thám hiểm của Trịnh Hòa không
còn được phía Trung Quốc nhắc đến như trước đó nữa).
Trên thực tế, kể từ Định ước Berlin năm 1885, nguyên tắc “quyền phát hiện”
và nguyên tắc “chủ quyền lịch sử” không còn phù hợp và đã bị thay thế bới
nguyên tắc “chiếm hữu thực sự” và “có hiệu lực”. Ngày nay, nguyên tắc chiếm hữu
biển đảo còn được quy định chặt chẽ hơn: thực sự, không gián đoạn, hòa
bình và minh bạch.[5] Nghĩa là,
nếu giả sử luật pháp quốc tế vẫn còn căn cứ vào luận thuyết chủ quyền lịch sử
hay sự phát hiện biển đảo để xác định chủ quyền thì quyền chiếm hữu và sở hữu
các châu lục ngày nay hầu hết đã thuộc về các Viking, các nhà thám hiểm hoặc
các tay cướp biển Tây Âu.
Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa được
các triều đại phong kiến Việt Nam thực thi từ rất sớm. Có tài liệu nói từ thế kỷ
XV. Nhưng rõ nhất là từ đầu thế kỷ XVII đến tận năm 1932, khi Pháp chính thức
tuyên bố kế thừa và tiếp tục chủ quyền tại hai quần đảo này, các triều đại
phong kiến Việt Nam đều đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền thực tế đối với
Hoàng sa và Trường Sa. Quá trình này diễn ra một cách liên tục, với những hoạt
động kinh tế – xã hội rất hòa bình và lúc đó cũng chưa hề có tranh chấp. Về mặt
pháp lý, ít nhất từ thế kỷ XVII, Hoàng Sa đã không còn là lãnh thổ vô chủ nữa
(Terra Nullius).[6]
Năm 1698, Hoàng Sa trở thành địa danh nổi tiếng được các nhà hàng hải
phương Tây biết đến qua các biên niên sử hàng hải với các vụ mắc cạn của tàu
l’Amphitrite dưới thời vua Louis XIV khi đi từ Pháp sang Trung Quốc.[7] Nghĩa là,
Hoàng Sa được biết đến như một bãi cát nguy hiểm ở vùng Biển Đông Việt Nam. Tàu
bè quốc tế đến vùng này nếu không biết có thể mắc cạn, làm mồi cho đói, khát và
chết.
Thời các Chúa Nguyễn, tức là từ giữa thế kỷ XVI cho đến khi Tây Sơn chiến
thắng năm 1777, hàng năm các Chúa nguyễn đều phái người ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ
trên đảo nhằm thực thi chủ quyền và thu hoạch sản vật trên đảo cùng những sản vật
của các tàu bị đắm trôi dạt vào đảo. Trong sách “Lịch triều Hiến chương loại
chí” Quyển “chi Ngũ dư địa chí”, trang 11a, 12a, Phan Huy Chú ghi chép: “Các
vương triều trước (thời các Chúa Nguyễn) đặt đội Hoàng Sa 70 suất, người xã
An Vĩnh luân phiên đi. Hàng năm vào tháng 3 nhận chỉ thị sai đi, mang 6
tháng lương, dùng 5 chiếc thuyền nhỏ, trương buồm xuất dương, 3 ngày 3 đêm
đến đảo. Đến đây mặc tình đánh bắt cá ăn, được đồ quí khí vật trên thuyền
rất nhiều, lại lấy được hải sản rất nhiều. Tháng 8 trở về, vào cửa
Eo (Thuận An) để đến thành Phú Xuân”.[8]
Năm 1753, một sự kiện có liên quan đến chủ quyền Hoàng sa xảy ra với những
người lính của Đội Bắc Hải đã được Lê Quý Đôn ghi chép khá kỹ trong “Phủ biên tạp
lục”: “Hoàng Sa gần Hải Nam, châu Liêm. Người đi thuyền thường gặp người
Bắc quốc (Trung Quốc) đánh cá ngoài biển, hỏi thăm thì được biết họ là
người huyện Văn Xương, Quỳnh Châu. Quan Chính đường sưu tra công văn trong
đó kể rằng vào tháng 7 năm Càn Long thứ 18 (1753), 10 người lính thuộc đội
Cát Liêm, xã An Bình, huyện Chương Nghĩa (Quảng Ngãi ngày nay) đến Vạn Lý
Trường Sa 萬里長沙 thu thập các vật, 8 tên lính
lên bờ thu thập, chỉ có 2 người lưu lại giữ thuyền. Chợt cuồng phong
nỗi lên, đẩy thuyền xa đến cảng Thanh Lan 青瀾港 (Hải Nam,
Trung Quốc). Viên quan tại đây điều tra sự thực bèn cho áp giải trở về.
Nguyễn Phúc Chu sai Cai bạ Thuận Hóa Thức lượng hầu gửi thư phúc đáp”.[9] Sự kiện
này cũng là một dấu hiệu về việc người Trung Quốc không coi Hoàng Sa là của
mình.
Năm 1816, vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo Hoàng Sa, ra lệnh cắm cờ
trên đảo và đo thuỷ trình. Khâm sứ Pháp tại Đông Dương Jules Brevie đã ra lệnh
thành lập cơ quan hành chính quản lý quần đảo Hoàng Sa và cho dựng trên quần đảo
một tấm bia có dòng chữ “Cộng hòa Pháp – Vương quốc An Nam – quần đảo Hoàng Sa,
1816”.[10]
Năm 1835, vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng
cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiệm vụ khai thác, tuần tiễu, thu
thuế trên đảo, và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục
hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương. Từ đó đến năm 1847-1848, việc
quản lý hành chính các đảo này được triều Nguyễn duy trì nhằm giúp đỡ các cuộc
hải trình và cũng để thu thuế ngư dân trong vùng.[11]
Theo nhà nghiên cứu Vũ Quang Việt, các dữ kiện lịch sử chiếm hữu Hoàng
Sa cho thấy “Việt Nam đã có tuyên bố rõ ràng và thực thi quyền của mình ở
Paracels ít nhất suốt 70 năm từ trước 1770 cho tới khi vua Gia Long chính thức
khẳng định chủ quyền năm 1816, và tiếp tục cho đến thời Minh Mạng được ghi rõ
ràng trong chính sử Việt Nam cho đến 1837… Thời gian có mặt của Việt Nam ở
Paracels như thế kéo dài liên tục ít nhất là 74 năm từ 1774 tới ít nhất là (từ
lúc Lê Quý Đôn nói về chuyến đi Hoàng Sa cho tới năm sau khi Minh Mạng ra lệnh
vẽ bản đồ), thời gian này được ghi nhận trong chính sử. Ý chí và hành động nhằm
khẳng định chủ quyền được vua Gia Long và vua Minh Mạng đã thể hiện trong văn bản.
Các chuyến ra đảo dù chỉ kéo dài nhiều nhất là sáu tháng nhưng liên tục năm này
qua năm khác. Và như thế là đủ”.[12]
2. Nước Pháp công nhận việc thực thi chủ quyền của
các triều đại phong kiến Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và chịu
trách nhiệm kế thừa
Năm 1884, Hiệp ước Patenotre Huế áp đặt chế độ thuộc địa, nước Pháp có
nghĩa vụ bảo hộ, giữ gìn sự toàn vẹn lãnh thổ xứ An Nam. Ngày 9/6/1885, Hiệp ước
Pháp – Thanh tại Thiên Tân chấm dứt xung đột Pháp Thanh; Việt Nam vĩnh viễn
thoát khỏi chế độ phên thuộc. Ngày 26/6/1887, Hiệp ước Pháp – Thanh ấn định
biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa. Nghĩa là từ đây, mọi tuyên bố hay hành vi
của Pháp về Hoàng Sa, Trường Sa, được hiểu là và trên thực tế là, đại diện cho
Việt Nam, của Việt Nam.
Năm 1895 con tàu La Bellona và năm 1896 con tàu Imeji Maru bị đắm gần
Hoàng Sa. Những người đánh cá ở Hải Nam đến thu lượm đồng từ hai chiếc tàu đắm
này. Các công ty bảo hiểm của hai con tàu này phản đối chính quyền Trung Hoa.
Chính quyền Trung Hoa trả lời là không chịu trách nhiệm, lấy lý do là Hoàng Sa
không phải là lãnh thổ của Trung Hoa, cũng không phải là lãnh thổ Việt Nam.[13]
Năm 1899, Toàn quyền Paul Doumer đề nghị chính phủ Pháp xây ngọn hải
đăng nhưng việc này không thành vì lý do tài chính.
Vào năm 1909, Tổng đốc Lưỡng Quảng ra lệnh cho đô đốc Lý Chuẩn đổ bộ
lên quần đảo Hoàng Sa. Cuộc đổ bộ không quá 24 giờ. Họ kéo cờ và bắn súng để biểu
thị chủ quyền của Trung Quốc. Sự kiện này không gây ra phản ứng gì của các nước,
kể cả nước Pháp đại diện cho An Nam vì cho rằng đó chỉ là một nghi thức hải
quân nhân chuyến thám sát đảo xa.[14] Sự kiện
này cũng làm lộ ra mâu thuẫn trong lập luận của Trung Quốc. Nếu quần đảo Hoàng
Sa đã được Trung Quốc chiếm cứ thực sự từ lâu, thì tại sao Lý Chuẩn lại không
biết điều này và hành xử với tư cách là người lần đầu tiên phát hiện ra quần đảo.
Năm 1920, một công ty Nhật Bản là Mitsui Busan Kaisha xin phép Pháp
khai thác quần đảo Hoàng Sa, Pháp từ chối. Cũng bắt đầu năm 1920, Pháp kiểm
soát quan thuế và tuần tiễu trên đảo.
Ngày 30/3/1921, Tổng đốc Lưỡng Quảng tuyên bố sát nhập Hoàng Sa với Hải
Nam, Pháp không phản đối. Ngay sau đó các nhà nghiên cứu và hoạt động xã hội
người Pháp ở Hà Nội đã chỉ trích Toàn quyền Đông Dương về thái độ này. Ngày
8/3/1925 Toàn quyền Đông Dương là Martial Henri Merlin long trọng ra tuyên bố
quần đảo Hoàng Sa và Trương Sa là lãnh thổ của Pháp. Chính phủ bảo hộ nhận
trách nhiệm về chủ quyền của mình ở Hoàng Sa, Trường Sa và đẩy mạnh các hoạt động
tuần tra, kiểm soát và nghiên cứu khoa học.
Cũng bắt đầu từ năm 1925, Viện Hải dương học Nha Trang tiến hành những
thí nghiệm khoa học trên đảo Hoàng Sa do tiến sỹ Krempt tổ chức.
Năm 1927, Tàu De Lanessan viếng thăm quần đảo Trường Sa.
Đầu năm 1930, Ba tàu Pháp La Malicieuse, L’Alerte và L’Astrobale đã khảo
sát chuẩn bị cho việc chiếm hữu quần đảo Trường Sa.
Ngày 13/4/1930, toàn quyền Đông Dương Pasquier điều Thông báo hạm La
Malicieuse ra quần đảo Trường Sa. Tại đây, đại úy hải quân De Lattrie đã nhân
danh nước Pháp bắn 21 loạt đại bác, tuyên bố chủ quyền toàn bộ các đảo ở Trường
Sa với các vùng biển phụ cận và kéo cờ trên đảo “Île de la Tempête” (đảo Bão Tố,
tức đảo Spratly, nay gọi là đảo Trường Sa Lớn). Văn bản báo cáo ghi rõ, Trường
Sa nằm ở 8039 độ vĩ Bắc và 111055 kinh đông.
Ngày 23/9/1930 Pháp gửi thông báo ngoại giao tới các nước có liên quan
về chủ quyền của Pháp trên đảo Trường Sa, Nói rõ: “Phủ Toàn quyền Đông Dương
ra thông cáo để thông báo cho các nước thứ ba biết việc Cộng hòa
Pháp chiếm hữu toàn bộ quần đảo Spratly (Trường Sa)”. Thông báo này
cũng được đăng trên Công báo của Phủ Toàn quyền.
Năm 1931, Trung Hoa ra lệnh khai thác phân chim tại quần đảo Hoàng Sa,
bán quyền khai thác cho Công ty Anglo – Chinese Development. Pháp phản đối.
Năm 1932, Pháp chính thức tuyên bố An Nam có chủ quyền lịch sử lâu đời
trên quần đảo Hoàng Sa, sát nhập quần đảo Hoàng Sa với tỉnh Thừa Thiên. Nghĩa
là Pháp công nhận và chịu trách nhiệm kế thừa chủ quyền của Việt Nam từ
trước đó, tiếp tục thực thi chủ quyền tại hai quần đảo này. Đây là một bước
đi quan trọng và là sự kiện đặc biệt có ý nghĩa trong việc chiếm hữu và thực
thi chủ quyền một cách liên tục đối với lãnh thổ quốc gia.
Năm 1933, quần đảo Trường Sa được sáp nhập với tỉnh Bà Rịa. Ngày
26/7/1933 nước Pháp ra thông báo chính thức về sự chiếm hữu các đảo Trường Sa
trên nhật báo của Pháp. Pháp cũng đề nghị với Trung Hoa đưa vấn đề ra Toà án Quốc
tế, nhưng Trung Hoa từ chối.
Việc thuyết phục nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương quan tâm ngày càng
thiết thực hơn đến chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa vào những năm đầu thế kỷ XX, nên hiểu là một quá trình không đơn giản. Lúc
đó, khác với ngày nay, việc chiếm hữu các đảo xa mang lại tốn kém, phức tạp,
nguy hiểm nhiều hơn là lợi ích. Chính chủ quyền hiển nhiên đã có từ lâu trong lịch
sử của các vương triều An Nam đối với biển đảo mới là nguyên nhân chủ yếu thúc
đẩy các quan chức Pháp tại Hà Nội thiết tha hơn và cảm thấy trách nhiệm
nặng nề hơn với Hoàng Sa, Trường Sa. Công đầu trong việc này thuộc về
tờ tuần báo “Thức tỉnh kinh tế Đông Dương” (L’Éveil Économique de l’Indochine).
Tuần báo L’Éveil économique de l’Indochine ra số đầu
tiên vào thứ bảy, ngày 16/6/1917 và số cuối cùng vào năm 1934. Người sáng lập,
là Chủ bút và cũng là tác giả của nhiều bài viết trong tuần báo này là Henri
Cucheroussset (1879 – 1934, ông qua đời tại Hà Nội và cũng là người đặc biệt
yêu mến Hoàng Sa, chiến đấu không mệt mỏi cho chủ quyền của Việt Nam đối với
Hoàng Sa, Trường Sa). Trong 835 số tuần báo, Chính phủ Pháp và An Nam đã triệt
để giải quyết tranh chấp Hoàng Sa với chính quyền Quảng Đông (lúc đó ly khai khỏi
Trung Quốc và cũng không được Trung Quốc và các nước khác thừa nhận). Ông Henri
Cucheroussset đã đưa vấn đề ra Thượng viện và Hạ viện Pháp, vì lý do Toàn quyền
Đông dương ở Hà Nội không đủ nỗ lực quan tâm đến vấn đề. Trên tờ tạp chí này,
các sự kiện sau đây đã được phản ánh:
·
Các
đề nghị đối với chính quyền bảo hộ: Đặt trạm hải đăng, trạm khí
tượng, trạm phát sóng cực ngắn, các phao đèn và cọc tiêu, vẽ các bản đồ quần
đảo Hoàng Sa: tỷ lệ 1:200.000, & 1 :25.000; Xây dựng cảng cá và tổ chức
nơi trú ẩn cho ngư dân, phát triển công nghiệp cá, phát triển các tầu đánh cá
có thể đánh bắt xa bờ từ 2 đến 300 km ; Thiết lập hệ thống hành chính trên
hai quần đảo và cần thiết có quân đội thường trú bảo vệ và tuần tra khu vực.[15]
·
Trách
nhiệm của nước Pháp và các quan chức Pháp tại Đông Dương: Tác giả
trách cứ một số quan chức Đông Dương vô trách nhiệm đối với chủ quyền quần đảo
Hoàng Sa như Ông Monguillot (Thống sứ Bắc Kỳ, có lúc được cử làm quyền Toàn quyền
Đông Dương), Trung tá Rémy hạm trưởng Hải quân Pháp tại Sài Gòn và đặc biệt là
ông Toàn quyền Pière Pasquier. Và nhờ đó, các chính khách đã quan tâm đến vấn đề
quần đảo Hoàng Sa như Thượng nghị sĩ Albert Sarraut, Nghị sĩ Ernest Outrey, Thượng
nghi sĩ Bergeon … và đề nghị tổ chức một hội nghị về quần đảo này tại
Luxembourg (Thượng nghị viện Pháp) và lâu đài Bourbon (Hạ nghị viện Pháp).
·
Vỉa phốt phát có diện tích khoảng 4 triệu m2 có
độ dầy trung bình 2m, tức 8 triệu mét khối và với có thể thu được 2 tấn / m3 phốt
phát tức 16 triệu tấn. Phốt phát ở Hoàng Sa. Tuy nhiên, chính quyền quản lí lơ
là để Nhật Bản và Trung Quốc khai thác bất hợp pháp, không mang lại lợi ích nào
cho An Nam.
·
Bằng con tầu Malicieuse, ngày 13/4/1930, nước Pháp
đã chính thức đặt chủ quyền của An Nam dưới sự bảo hộ của Pháp đối với quần đảo
Trường Sa.[16]
·
Chính quyền Pháp và An Nam đã dựng lại bia chủ quyền
cho quần đảo Hoàng Sa trên đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) với dòng chữ: République
française – Royaume d’An Nam – Archipel des Paracels 1816 – île Pattle – 1938
(Cộng hòa Pháp – Vương quốc An Nam – Quần đảo Paracels 1816 – đảo Pattle 1938).
Chính quyền Pháp đã lần lượt đặt hai trạm khí tượng trên đảo Boisée (Phú Lâm)
và trên đảo Pattle (Hoàng Sa). Trước đó, vào năm 1933, Quần đảo Trường Sa đã được
sáp nhập với tỉnh Bà Rịa.
3.. Việt Nam “xác nhận chủ quyền đã có từ lâu
đời trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa” trước cộng đồng quốc tế tại
Sanfransico 1951
Ngày 14/3/1933, Pháp cho đội tàu gồm Malicieuse, tàu
pháo Arlete và hai tàu thuỷ văn Astrobale và de
Lanessan từ Sài Gòn đến Trường Sa với hàng loạt các đảo như đá
Chữ Thập (Fiery Cross Reef), cụm rạn London Reefs (Trường Sa Đông, đá
Đông, đá Tây và đá Châu Viên gọi là London Reefs), bãi
san hô Tizard (Ba bình, Bàn Than, Sơn ca, Núi thị, Én đất, Nam yết, Đá Lạc, Ga
ven), bãi san hô Loại Ta, cụm rạn Thị Tứ và rạn Thám hiểm Phía Bắc. Tại từng địa
điểm đi qua, người Pháp đã tổ chức nghi lễ chiếm hữu các đảo chính thuộc nơi
đó. White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly)
Islands Republic of Vietnam Ministry of Foreign Affairs Saigon, 1975.
Ngày 19/7/1933, Bộ Ngoại giao Pháp ra bản thông báo về tuyên
bố chủ quyền của Pháp, kèm theo danh sách liệt kê tên các đảo đã chiếm hữu, gồm:
6 thực thể
1.
Trường Sa Lớn; tuyên bố chủ quyền 13/4/1930 (île de
la Tempête, Spratly).
2.
An Bang; tuyên bố chủ quyền 7/4/1933
(Caye-d’Amboine, Amboyna Cay; Trung Quốc gọi là 安波沙洲: An Ba sa châu).
3.
Ba Bình; tuyên bố chủ quyền 10/4/1933 (Itu-Aba, Đài
Loan gọi là太平).
4.
Nhóm Song Tử; tuyên bố chủ quyền 10/4/1933 (Groupe
de Deux-îles; Song Tử Đông (Northeast Cay, tiếng
Filipino: Parola, Trung Quốc gọi là 北子岛 Bắc Tử đảo;
& Song Tử Tây (Southwest Cay, Trung Quốc gọi là 南子岛 Nam Tử đảo),
5.
Loại Ta, tuyên bố chủ quyền 11/4/1933 (Loaita
Island (South Island of Horsburgh); Trung Quốc gọi là 南钥岛 Nam Thược đảo)
6.
Thị Tứ; tuyên bố chủ quyền 12/4/1933 (Thitu Island;
Trung Quốc gọi là中业岛 Trung Nghiệp
đảo).
“Những hòn đảo nói trên và các đảo phụ thuộc từng đảo này thuộc chủ quyền
của Pháp”
Từ ngày 24/7/1933 đến 25/9/1933, Pháp lần lượt thông báo cho các quốc
gia có thể có lợi ích tại Trường Sa biết về hành động của Pháp. Trừ Nhật Bản, tất
cả các nước được thông báo đều không phản đối; Trung Quốc, Hà Lan (đang kiểm
soát Indonesia) và Mỹ đều im lặng.
Ngày 21/12/1933, thống đốc Nam Kỳ là Jean-Félix Krautheimer kí Nghị
định số 4702-CP sát nhập số đảo trên và “các đảo phụ thuộc” vào địa phận tỉnh
bà Rịa.
Năm 1939, Thứ trưởng Ngoại giao Anh là Butter tuyên bố rằng Pháp đã thực
thi đầy đủ chủ quyền trên quần đảo.
Năm 1937, bất chấp sự phản đối của Pháp, Nhật chiếm các đảo nằm ngoài
khơi Đông Dương, đổi tên thành Shinnan Gunto (Tân Nam Quần Đảo) và đặt dưới quyền
tài phán của Cao Hùng (Đài Loan). Trong suốt thời gian Thế chiến II, các quần đảo
bị Nhật tuyên bố là bị chiếm đóng.
Năm 1938, Pháp cho đặt bia đá, xây hải đăng, đài khí tượng và đưa đội
biên phòng người Việt ra để bảo vệ đảo Pattle (đảo Hoàng Sa) của quần đảo Hoàng
Sa. Ngày 4/4/1939, chính phủ Pháp gửi Công hàm phản đối các quyết định của Nhật
và bảo lưu chủ quyền của Pháp tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày
5/5/1939, Toàn quyền Đông Dương J. Brevie ký Nghị định số 3282 tách đơn vị hành
chính Hoàng Sa thành 2 đơn vị: “Croissant và các đảo phụ thuộc”, “Amphitrite và
các đảo phụ thuộc”.
Khi Chiến tranh Thế giới II sắp kết thúc, ba cường quốc Anh – Mỹ –
Trung (lúc đó Tưởng Giới Thạch đại diện cho Trung Quốc) đã nhóm họp tại Cairo,
Ai Cập ngày 27/11/1943 để bàn về những quyết định hậu chiến và ra Tuyên bố
Cairo. Về biển đảo ở Thái Bình Dương, Tuyên bố viết rõ: “Nhật Bản phải bị loại
ra khỏi tất cả các đảo ở Thái Bình Dương mà Nhật đã cướp hoặc chiếm đóng từ khi
bắt đầu Chiến tranh thế giới I năm 1914 và tất cả những lãnh thổ mà Nhật đã chiếm
của Trung Quốc như Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trả lại cho Cộng
hòa Trung Hoa”. Trong Tuyên bố này, Không có gì liên quan đến hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Điều này có nghĩa rằng, Tuyên bố Cairo khẳng định các
lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm của Trung Quốc chỉ có “Mãn Châu Lý, Đài Loan và
Bành Hồ”. Và ngày 26/7/1945, tại Posdam của nước Đức bại trận, các nguyên thủ
quốc gia gồm Harry Truman, Winston Churchill và Tưởng Giới Thạch khẳng định các
Điều khoản của Tuyên bố Cairo sẽ được thực hiện. Tuyên bố Potsdam về “các điều
kiện định cho sự đầu hàng của Nhật” tương tự như một tối hậu thư đối với Nhật Bản.
Sự thực thì Trung Quốc lúc đó đã quá thỏa mãn với phần thưởng hậu chiến là có
được Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ, mà không có Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 15/8/1945, Nhật Bản thua trận phải rút khỏi Đông Dương và ngày
26/8/1945, quân đội Nhật phải rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 6/1946,
Pháp khôi phục lại sự có mặt của mình tại Hoàng Sa tại đảo An Vĩnh, nhưng ngay
sau đó phải rút vì lý do chi viện cho chiến cuộc đang căng thẳng ở Bắc Việt
Nam.
Chúng
tôi một lần nữa muốn lưu ý rằng, suốt chiều dài lịch sử cho đến tận năm 1945,
ngoài nỗ lực thị uy của chính quyền Quảng Đông năm 1909, Trung Quốc không hề có
sự chiếm cứ thực sự, liên tục hay sự quản lý hành chính thực tế nào trên các đảo
ở biển Đông.
Cuối năm 1946, Trung Quốc (lúc đó là Chính thể Tưởng Giới Thạch) đưa
quân chiếm đóng đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa), sau khi Pháp đặt bia chủ quyền
ở đó. Tháng 1/1947, Trung Quốc đổ bộ lên đảo Woody (Phú Lâm) của quần đảo Hoàng
Sa. Pháp lập tức phản đối việc xâm phạm trái phép này của Trung Quốc và cử một
phân đội ra quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh và xây trạm khí tượng. Các trạm khí
tượng này hoạt động trong suốt 26 năm với những nhân viên Việt Nam cần mẫn cho
đến khi Trung Hoa đại lục cưỡng chiếm bằng quân sự vào năm 1974. Ngày nay thông
tin về khí tượng thủy văn phát đi từ Hoàng Sa vẫn được toàn thế giới biết đến với
danh nghĩa một trạm khí tượng của một hòn đảo nhiệt đới Việt Nam. Hai bên đàm
phán tại Paris. Cũng năm 1947, Pháp đề nghị đưa vấn đề tranh chấp ra Trọng tài
quốc tế nhưng Trung Hoa lại từ chối.
Tháng 10/1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, chính phủ Trung Hoa
Dân quốc chạy ra Đài Loan. Tháng 5/1950, Quân đội Quốc dân Đảng phải rút khỏi
các đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) và Ba Bình (quần đảo Trường Sa). Các trại đồn
trú của Pháp vẫn được tiếp tục duy trì ở Hoàng Sa.
Ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo
Đại quyền quản lý quần đảo này. Thủ hiến Trung phần Việt Nam lúc bấy giờ là
Phan Văn Giáo đã chủ trì việc chuyển giao quyền hành quản lý quần đảo Hoàng Sa.
Một năm sau đó, với thế giới và với Hoàng Sa – Trường Sa, đã diễn ra một sự kiện
quan trọng, đó là hội nghị San Francisco, California (Mỹ) giữa lực lượng Đồng
minh với Nhật Bản.
Trước khi hội nghị San Francisco diễn ra, Trung Quốc đại lục đã thể hiện
yêu sách của họ đối với các quần đảo qua tuyên bố của Bộ trưởng Ngoại giao Chu
Ân Lai ngày 15/8/1951. Nhưng chính quyền Tưởng Giới Thạch thì không phản ứng
gì. Lúc đó, đa số các nước vẫn công nhận chính phủ Trung Hoa Dân quốc của Tưởng
Giới Thạch là đại diện chính thức cho Trung Quốc.
Hội nghị San Fransisco diễn ra từ ngày 5/9 đến 8/9/1951, có phái đoàn của
51 quốc gia tham dự để thảo luận về vấn đề chấm dứt chiến tranh tại châu Á –
Thái Bình Dương và mở ra quan hệ với Nhật Bản thời hậu chiến. Trong hội nghị
này, Trung Hoa Đại lục và Trung Hoa Dân quốc không được mời tham dự do giữa Mỹ
và Liên Xô không thống nhất được ai là người đại diện chính thức cho quyền lợi
của Trung Hoa.
Ngày 5/9/1951, Ngoại trưởng Liên Xô Gromyko đã đề nghị 13 khoản tu
chính. Trong đó, có khoản tu chính liên quan đến việc Nhật Bản nhìn nhận chủ
quyền của Trung Hoa đại lục đối với đảo Hoàng Sa. Hội nghị bác bỏ với 46 phiếu
chống, 1 phiếu trắng và 2 phiếu thuận.[17] Danh
nghĩa chủ quyền Trung Quốc đối với các quần đảo ngoài khơi Biển Đông đã bị cộng
đồng quốc tế bác bỏ rõ ràng trong khuôn khổ của một hội nghị quốc tế.
Ngày 7/9/1951, cũng tại hội nghị, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Chính phủ
Bảo Đại là Trần Văn Hữu đã long trọng tuyên bố, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa là lãnh thổ của Việt Nam: “Cần phải thành thật lợi dụng tất cả mọi cơ hội để
dập tắt các mầm mống tranh chấp sau này, chúng tôi xác nhận chủ quyền đã có từ
lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”.[18] Kết
thúc hội nghị là việc ký kết Hòa ước với Nhật ngày 8/9/1951. Trong hòa ước này,
ở Điều 2, đoạn F, ghi rõ: “Nhật Bản khước từ mọi chủ quyền và đòi hỏi đối với
các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”. 50 phái đoàn nghe lời tuyên bố của phái
đoàn Việt Nam, không quốc gia nào phản đối.[19]
Sau Hội nghị San Francisco, 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn do
chính quyền Bảo Đại quản lý. Đến năm 1954, 2 quần đảo này được đặt dưới sự quản
lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Tháng 4/1956, quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, đội tuần
tra của Pháp trên đảo Hoàng Sa được thay thế bởi đội tuần tra của chính phủ Việt
Nam cộng hòa. Nhưng khi đó chính quyền Trung Quốc đại lục đã bí mật cho quân đổ
bộ chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa (cụm An Vĩnh, Amphitrite Group, 宣德群岛, Tuyên Đức quần đảo). Trong khi phía Tây, nhóm Lưỡi
Liềm, còn gọi là Nguyệt thiềm (Crescent Group, 永乐群岛, Vĩnh Lạc
quần đảo) vẫn do quân đội Việt Nam đóng trên đảo Pattle nắm giữ. Ngày 1/6/1956,
ngoại trưởng Việt Nam Cộng hoà Vũ Văn Mẫu xác nhận lại chủ quyền của Việt Nam
trên cả hai quần đảo. Ngày 22/8/1956, Một đơn vị hải quân của Việt Nam Cộng hoà
cắm cờ trên quần đảo Trường Sa và dựng bia. Ngày 13/7/1961, Tổng thống Việt Nam
Cộng Hoà Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 174-NV về việc đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc
tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy danh là xã Định Hải thuộc
quận Hoà Vang.[20]
4. Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực cưỡng chiếm toàn
bộ Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa là trắng trợn vi phạm tuyên ngôn 1970 của
Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc
Ngày 4/9/1958, Trung Quốc ra tuyên bố về hải phận 12 hải lý, áp dụng
cho cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 14/9/1958 Thủ tướng Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi công thư cho Thủ tướng Quốc vụ
viện Trung Quốc Chu Ân Lai thông báo “tán thành” và “tôn trọng” quyết định về hải
phận 12 hải lý của Trung Quốc. Công thư này không hề nói gì về Hoàng Sa và Trường
Sa.
Năm 1961, quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của tỉnh Quảng Nam. Năm
1973, thuộc tỉnh Phước Tuy.
Tháng 1/1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm các đảo do quân đội Việt Nam
Cộng hoà đóng, 75 sĩ quan và binh sỹ Sài Gòn hy sinh, Trung Quốc chiếm toàn bộ
quần đảo Hoàng Sa. Nghĩa là kể từ 1974, trong vấn đề chủ quyền Hoàng Sa,
Việt Nam đã bị tước mất yếu tố vật chất (Corpus), nhưng chủ quyền của Việt
Nam vẫn không bị gián đoạn do được đảm bảo bằng yếu tố tinh thần (Animus).
Tháng 12/1982, huyện Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng được thành lập.
Nhưng điều quan trọng hơn, theo luật quốc tế, từ đầu thế kỷ XX việc dùng vũ lực
để chinh phục một lãnh thổ đã bị lên án và không được chấp nhận. Nghị quyết của
Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc ngày 24/10/1970 ghi rõ: “Lãnh thổ của một quốc gia
không thể là đối tượng của một sự chiếm đóng quân sự, kết quả của việc sử dụng
vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một
quốc gia không thể là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia khác do đe doạ sử
dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lưc. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào bằng sự đe dọa
sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp pháp”.[21] Do đó,
các hành động dùng vũ lực trái ngược với luật quốc tế của Trung Quốc không thể
mang lại danh nghĩa pháp lý cho nước này đối với quần đảo Hoàng Sa.
Đối với quần đảo Trường Sa, theo Jan Rowiński, cho đến thời điểm tháng
1/1974 “Trung Quốc không có khả năng gây ảnh hưởng đối với khu vực quần đảo Trường
Sa, chứ chưa nói gì đến chuyện kiểm soát nó”.[22]
Ngày 14/2/1975, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa công bố Sách trắng về
chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo
Trường Sa.[23]
Tháng 5/1975, Việt Nam thống nhất, quân đội Nhân dân Việt Nam thay thế
quân đội Việt Nam Cộng hoà tại quần đảo Trường Sa. Năm 1977, Việt Nam ra tuyên
bố lãnh hải đất nước, kể cả lãnh hải của các đảo. Khoảng thời gian này, một số
quốc gia Đông Nam Á khác cũng đã chiếm một số đảo của quần đảo Trường Sa.
Tháng 3/1988, lần đầu tiên Trung Quốc có mặt trên quần đảo Trường Sa bằng
cách đưa quân tới xâm lược bãi đá Cô Lin, Len Đao và Gạc Ma, do ba bãi đá này
không có quân đội đồn trú nên Hải quân Việt Nam phải đưa quân ra bảo vệ. Ngày
11/3/1988, tàu HQ 604 (Lữ đoàn 125) của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ xuất phát từ
Cam Ranh với 70 bộ đội công binh của Trung đoàn 83 và 22 bộ đội của Lữ đoàn 146
ra xây dựng cụm đảo Gạc Ma. Khi đang chuyển vật liệu lên đảo thì ba tàu chiến
Trung Quốc áp sát, giật cờ, nã súng xâm chiếm đảo Gạc Ma trái phép. Sau đó, tàu
Trung Quốc tiếp tục tấn công tàu HQ 605 đang bảo vệ và xây dựng đảo Len Đao và
tàu HQ 505 canh giữ Cô Lin. Trận xung đột đã làm hai tàu của Việt Nam bị chìm,
một tàu hỏng, 64 sỹ quan và chiến sĩ hy sinh, 9 người bị phía Trung Quốc bắt
làm tù binh. Trung Quốc còn chặn không cho tàu mang cờ Chữ Thập Đỏ ra cứu hộ.
Trung Quốc bị hư hại tàu chiến, thương vong 24 thủy binh. Kể từ đó Trung Quốc
chiếm đóng Gạc Ma.
Tháng 4/1988, Trung Quốc thành lập tỉnh thứ 33 bao gồm đảo Hải Nam bao
gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 5/1989, Trung Quốc chiếm thêm một đảo nhỏ trên quần đảo Trường
Sa.
Năm 1990, Trung Quốc đề nghị khai thác chung quần đảo Trường Sa.
Năm 1992, Trung Quốc chiếm thêm một số đảo nữa.
Năm 1994, Đụng độ giữa Việt Nam và một chiếc tàu Trung Quốc nghiên cứu
cho Công ty Crestone.
Tháng 2/1995, Trung Quốc chiếm bãi đá Vành Khăn, một đảo đá nhỏ do
Philippines quản lý trên quần đảo Trường Sa.
Hiện nay Trung Quốc kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Còn quần đảo
Trường Sa thì do sáu quốc gia và vùng lãnh thổ chiếm giữ là Việt Nam, Trung Quốc,
Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei.
***
Những sự kiện điển hình vừa dẫn ra ở trên cho thấy ý đồ và bước đi của
nhà cầm quyền Trung Quốc trong nhiều thế kỷ qua đã diễn ra theo một logic đáng
ngại cho hòa bình và công pháp quốc tế. Nhưng không dừng ở đó, Ngày 26/5/2011
và này 30/11/2012 tàu Trung Quốc đã vào tận khu vực thềm lục địa Việt Nam và
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cắt cáp địa chấn, cáp thu tín hiệu của tàu
Binh Minh 02 thuộc Tập đoàn PetroViệt Nam. Tháng 5/2014 Trung Quốc đã đưa giàn
khoan khổng lồ Haiyang Shiyou 981 cùng với hàng chục máy bay chiến đấu, hàng
trăm tàu bán quân sự và quân sự vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam. Ngày 26/5/2014, tàu Trung Quốc số 11209 đã đâm chìm tàu cá ĐNa 90152
của ngư dân Đà Nẵng trong ngư trường truyền thống của Việt Nam ở vị trí cách
giàn khoan này 17 hải lý. Tháng 6/2014 Trung Quốc đưa tiếp nhiều giàn khoan
khác xuống biển Đông, trong đó giàn khoan Nam Hải 09 hạ đặt ngay tại cửa vịnh Bắc
Bộ, nơi đang chờ được phân định giữa Việt Nam và Trung Quốc. Thực chất đây là một
cuộc xâm lăng với tất cả các dấu hiệu vừa “cổ điển” vừa chưa có tiền lệ của nó.
Cổ điển vì đã vượt biên giới, có vũ khí, hành động đơn phương với mưu đồ cưỡng
chiếm lãnh thổ và thôn tính dài lâu. Nhưng lại chưa có tiền lệ vì sử dụng “lãnh
thổ di động”, chưa nổ súng và có thể không nổ súng nhưng vẫn có khả năng biến
lãnh thổ quốc gia khác thành vùng tranh chấp rồi mới cưỡng đoạt. Giấc mộng
Trung Hoa trên thực tế đã dần trút bỏ “lá nho che đậy không kém phần trơ trẽn”
của nó.[24]
“Những gì mà Trung Quốc đang làm khác rất xa những gì mà Trung Quốc
nói”, đây là nhận định của Thủ tướng Việt Nam tại cuộc họp báo ngày 22/5/2014 tại
Manila, nhân chuyến viếng thăm Philippines và tham dự Diễn đàn Kinh tế Thế giới
về Đông Á 2014. Tại cuộc họp báo này, người đứng đầu Chính phủ Việt Nam nói rõ:
“Chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn
có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển. Nhất định Việt Nam không chấp nhận đánh đổi điều
thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào
đó”.[25]
Điều Thủ tướng nói chính là điều thuộc về ý nguyện của nhân dân.
* GS.TS., Nguyên Viện trưởng Viện
Thông tin KHXH, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. Bài đã đăng trên tạp chí “Thông tin
Khoa học xã hội” số 6/2014.
————————————–
[1]. Xem: Lưu Văn Lợi (1995). Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nxb. CAND. // Trần Xuân Hiến
(2014). Tư liệu Hoàng sa Trường sa trong thư tịch cổ Trung Quốc (TL
Viện Thông tin KHXH). // Thư tịch cổ Trung Hoa thừa nhận Hoàng Sa Trường
Sa thuộc Việt Nam. http://www.biendong.net/hoang-sa-truong-sa/372-th-tch-trung-hoa-tha-nhn-hoang-sa-trng-sa-thuc-vit-nam.html.
Về tên gọi Hoàng sa: Năm 1838 nhà truyền giáo người Pháp
Joan-Luis-Taberu đã xuất bản cuốn “Dictionarium Latino-An Namiticum completum
et novo ordine dispositum (“Từ điển Việt-Latin”). Trong đó quần đảo Hoàng Sa được
định nghĩa là “Paracel seu Cát vàng”. Tiếp sau đó, nhà địa lý Hà Lan Villem
Blau chính thức đặt tên cho đảo này bằng tiếng châu Âu là “Pracel”. Về sau do sự
mai một của thời gian và các nhà đi biển người Pháp truyền khẩu không chính xác
nên “Pracel” đã bị gọi chệch đi thành “Le Paracel.” (Xem: Вьетнамцы
никогда не смирятся. газета.ru 1/6/2014. http://www.gazeta.ru/science/2014/06/01_a_6054413.shtml.).
[2]. Xem: Keith Johnson (2014). Lord of the
Sea, Foreign Policy, 2014, May 16. http://www.foreignpolicy.com/articles/2014/05/16/lord_of_the_sea // Phạm
Hoàng Quân (2013). Về địa danh và vị trí vạn lý trường sa, vạn lý thạch
đường trên địa đồ hàng hải thời Minh ở Thư viện Đại học Oxford. http://boxitvn.blogspot.com/2013/01/ve-ia-danh-va-vi-tri-van-ly-truong-sa.html // Phạm
Hoàng Quân (2013). Phân tích tổng quan nguồn sử liệu Trung Hoa liên
quan đến biển Đông Việt Nam. http://www.tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&News=6363&CategoryID=42.
[3]. Viking: thuật ngữ chỉ những nhà thám hiểm tài ba,
phiêu lưu trên biển.
[4]. Xem: Mạnh Kim (2014). Sự thật về các chuyến
Tây Dương của thái giám Trịnh Hòa. http://petrotimes.vn/news/vn/quoc-te/the-gioi-phang/su-that-ve-cac-chuyen-tay-duong-cua-thai-giam-trinh-hoa-183257.html //
Từ Đặng Minh Thu (2007). Chủ quyền trên hai quần đảoHoàng Sa và Trường
Sa. Thử phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc. http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai11/200711_TuDangMinhThu.htm.
[5]. Xem: Vũ Quang Việt (2010). Tranh chấp Biển
Đông Nam Á: đi tìm giải pháp hòa bình và công lý dựa trên chứng cứ lịch sử
và luật pháp quốc tế. Tạp chí “Thời đại mới”. Số 19-7/2010. http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai19/201019_VuQuangViet.htm#_edn51.
[6]. Những bản đồ sớm nhất vẽ Hoàng Sa, Trường Sa là
“Hồng Đức bản đồ” vẽ năm Hồng Đức thứ 21 (Canh tuất, 1490) dưới triều Lê Thánh
Tông và bộ bản đồ trong “Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư” hay “Toản Tập An Nam Lộ”
do Đỗ Bá Công Đạo soạn vào năm Chính Hoà thứ 7 (1686), trong đó Hoàng Sa, Trường
Sa được thể hiện với tên gọi chung là “Bãi Cát Vàng”. Nghĩa là, 2 quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đã được thể hiện trên các bản đồ Việt Nam cách đây khoảng
500 – 600 năm. (Xem: Võ Long Tê (1974). Les archipels de Hoàng – Sa et
de Trường – Sa selon les anciens ouvrages Vietnamiens d’ histoire et de
géographie. Ministere de la Culture, de l’ E’ducation et de la
Jeunesse. Sài Gòn. tr. 33-43 và Phụ lục). Trước thời Minh Mạng, hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa được xem như một quần đảo, nên gọi là Hoàng Sa, hoặc Vạn
Lý Trường Sa. Nhưng sau cuộc thám sát thời Vua Minh Mạng, và cuộc thám sát của
Kergariou-Locmaria năm 1787 – 1788, vị trí quần đảo Hoàng Sa mới được xác
định chính xác như hiện nay. Từ đó quần đảo Hoàng Sa mới được phân biệt
với quần đảo Trường Sa ở phía Nam. Bản đồ “Đại Nam nhất thống toàn đồ” được
vẽ sau đó đã ghi rõ hai tên khác nhau cho hai quần đảo. (Xem: Từ Đặng Minh Thu
(2007). Sđd.).
Nhiều tài liệu đã mô tả kỹ quá trình thực thi chủ quyền của Việt Nam. Mới
đây, TS. Trần Công Trục một lần nữa mô tả chi tiết lịch sử chiếm hữu và khẳng định,
Nhà nước phong kiến Việt Nam suốt từ thời chúa Nguyễn, qua thời Tây Sơn đến thời
các triều Nguyễn, với 3 triều đại khác nhau, đều đã thực hiện sứ mệnh thiêng
liêng với tư cách Nhà nước Đại Việt, tiến hành chiếm hữu và thực thi chủ quyền
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Xem: Trần Công Trục (2014). Hoàng
Sa, Trường Sa chưa từng thuộc về Trung Quốc. http://dantri.com.vn/chinh-tri/ky-2-chu-quyen-lich-su-khong-phai-de-chung-minh-chu-quyen-881793.htm
Cũng về quá trình này, sách trắng của Việt Nam “Các quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế” công bố 1988 cũng đã dẫn các nguồn
tài liệu có giá trị như Đại Nam thực lục tiền biên (1600-1775), Toản
tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (1630-1653), Phủ biên tạp lục (1776), Đại
Nam thực lục chính biên (1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (bộ
sách địa lý lịch sử chung của Đại Nam 1865-1882), Lịch triều
hiến chương loại chí (1821), Hoàng Việt địa dư chí (1833), Việt
sử cương giám khảo lược (1876), các châu bản triều Nguyễn về các bản tấu,
phúc tấu, các dụ của các Vua, và hàng loạt bản đồ, tài liệu… của nước ngoài.
[7]. Xem: François Froger. Relation du premier
voyage des François à la Chine fait en 1698, 1699 et 1700 sur le vaisseau «
l’Amphitrite », herausgegeben von E. A. Voretzsch. http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/jds_0021-8103_1929_num_6_1_2305.
[8]. Nguyên văn: “Tiền vương lịch triều
tri Hoàng Sa đội thất thập suất, dĩ An vĩnh nhân luân phiên
thái thủ. Tuế dĩ tam nguyệt thụ thị hành sai, tệ lục nguyệt lương, giá tiểu
thuyền ngũ chích, xuất dương tam nhật tam dạ thỉ chí thử đảo cư tứ tình thái thủ,
bổ ngư vi thực, sở đắc tào vật khí bửu thậm chúng, dữ thái thủ hải (vật) phả
đa, dĩ bát nguyệt hồi nhập yêu môn tựu Phú – xuân thành. (pp. 11a. 12a). (Trích
theo: Võ Long Tê (1974). Les archipels de Hoàng – Sa et de Trường – Sa
selon les anciens ouvrages Vietnamiens d’ histoire et de géographie.
Ministere de la Culture, de l’ E’ducation et de la Jeunesse. Sài Gòn. tr. 76.).
[9]. Lê Quý Đôn. Phủ biên tạp lục. Quyển
chi Nhị. Tờ 82b-85a: “Hoàng sa chử chính cận Hải nam Liêm Châu phủ. Thuyền nhân
thời ngộ Bắc quốc ngư châu, dương trung tương vấn, thường kiến Quỳnh châu Văn
xương huyện. Chính đường quan, tra thuận hóa công văn nội xưng, Càn long thập
bát niên, An nam Quảng nghĩa phủ Chương nghĩa huyện Cát liêm đội An bình xã
quan nhân thập danh, ư thất nguyệt vãng Vạn Lý Trường sa thái thập các vật. Bát
danh đăng ngạn, tầm mích các vật, chỉ tồn nhị danh thủ thuyền. Cuồng phong đoản
xúc phiêu nhập Thanh lan cảng, y quan tra thực áp tống hồi tịch. Nguyễn phúc
Chu lịnh Thuận hóa cai bạ thức lượng hầu vi thư dĩ phục”. (Trích theo: Võ Long
Tê (1974). Sđd. tr. 56.).
[10]. Võ Long Tê trích M.A. Dubois de Jancigny và Jean
Baptiste Chaigneau. Xem: Võ Long Tê (1974). Sđd. tr. 168.). // Вьетнамцы
никогда не смирятся. газета.ru 1/6/2014. http://www.gazeta.ru/science/2014/06/01_a_6054413.shtml.
[11]. Xem: Lưu Văn Lợi (1995). Cuộc tranh chấp
Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nxb. CAND.
[12]. Vũ Quang Việt (2010). Sđd.
[13]. Xem: L’Éveil économique de l’Indochine số
741.
[14]. Duy Chiến. Chủ quyền Hoàng Sa thời Pháp
thuộc. http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/180461/chu-quyen-hoang-sa-thoi-phap-thuoc.html // Nguyễn
Nhã. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến tranh chấp chủ quyền của Việt Nam ở hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: Nguyên nhân và giải pháp. Hội thảo Việt
Nam học lần thứ III. Hà Nội 2009. Tiểu ban 1.
[15]. L’Éveil économique de l’Indochine số
394, 398, 491, 602, 627, 644 …
[16]. L’Éveil économique de l’Indochine.
4/5/1930. – No 672, Tr. 18…
[17]. Theo sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng
hòa (1975). Xem: République du Vietnam, Ministère des affaires étrangères.
Saigon, 1975. Livre blanc sur Hoang SA (Paracel) et des îles de Truong
SA (Spratly). http://saigonfilms.com/official_documents_rvn/Livre%20blanc%20sur%20Hoang%20SA.htm. //
Bản tiếng Anh: White Paper on the Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa
(Spratly) Islands. http://www.spratlys.org/collection/claims/vietnam/vietnam2a.htm // Phạm
Ngọc Bảo Liêm (2010). Hội nghị San Francisco với vấn đề chủ quyền của
Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tạp chí Xưa
và Nay, Số 360, 7/2010 (tài liệu này ghi 48 phiếu chống, 3 phiếu thuận).
[18]. Les États Associés à la conference de San
Francisco. les 6 et 7 Septembre 1951: Viet-nam
Declaration du Président Trần Văn Hữu. France-Asie – Saigon, 1951, 6o
année, tome
VII, 66-67 (Déc. 1951), pp. 502-505.
[19]. Sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa
(1975). Sđd // Phạm Ngọc Bảo Liêm (2010). Sđd.
[20]. Sắc lệnh này in trong Công báo Việt Nam Cộng
Hoà, số ra ngày 29/7/1961, tr. 2695, cột 1, chụp từ microfilm kí hiệu “Film
S 3419 1961: no.25-58 (June-Dec.) reel 13“, barcode: HX7G6V,
Thư viện Lamont, Đại học Harvard. // Xem: Nguyễn Tuấn Cường (2014) Sắc
lệnh 1961 của Việt Nam cộng hòa về quần đảo Hoàng Sa. http://boxitvn.blogspot.com/2014/01/sac-lenh-nam-1961-cua-viet-nam-cong-hoa.html
[21]. Declaration on Princ Ples of
International Law Concerning Friendly Relations and Co-operation among States
in Accordance with the Charter of The United Nations. United Nations
General Assembly Resolution 2625 (XXV), 24 October 1970. http://thuvienphapluat.vn/archive/Dieu-uoc-quoc-te/Tuyen-bo-nguyen-tac-cua-Luat-Quoc-te-dieu-chinh-quan-he-huu-nghi-hop-tac-giua-cac-quoc-gia-phu-hop-voi-Hien-chuong-lien-hop-quoc-1970-vb65775t31.aspx.
[22]. Rowiński Jan (1990). Biển Đông, khu vực
tiềm tàng tranh chấp ở châu Á, Warszawa. (Trích theo: Nguyễn Thái Linh
(2014). Tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế. http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=62&CategoryID=42&News=4605).
[23]. République du Vietnam, Ministère des affaires
étrangères. Saigon, 1975. Livre blanc sur Hoang SA (Paracel) et des
îles de Truong SA (Spratly) http://saigonfilms.com/official_documents_rvn/Livre%20blanc%20sur%20Hoang%20SA.htm. Bản
tiếng Anh: http://www.spratlys.org/collection/claims/vietnam/vietnam2a.htm
[24].同主题阅读:[ZGPT]未来50年中国的六场战争:将彻底打破世界格局 http://www.mitbbs.com/article_t/MiscNews/31207047.html (Website
Chinanew nói về 6 cuộc chiến tranh mà Trung Quốc sẽ tiến hành để thực hiện Giấc
mộng Trung Hoa trong 50 năm tới: 1/ Đài Loan 2020-2025; 2/ Biển Đông 2025-2030;
3/ Tây tạng 2035-2040; 4/ Điếu Ngư-Lưu Cầu 2040-2045; 5/ Ngoại Mông 2045-2050;
Nga 2055-2060. Từ năm 2011 đến nay, 6/2014, bài viết này đã bị phản đối gay gắt
trên khắp thế giới. Nhưng Trung Quốc vẫn không chịu gỡ bỏ).
[25]. Thủ tướng: Không đánh đổi chủ quyền lấy hữu
nghị viển vông. http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/thu-tuong-khong-danh-doi-chu-quyen-lay-huu-nghi-vien-vong-2994075.html
=================================================
#15 – Quan điểm của VN về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa
Nguồn: Nguyen, Hong Thao (2012). “Vietnam’s Position on the
Sovereignty over the Paracels & the Spratlys: Its Maritime Claims”, Journal
of East Asia and International Law, 5(1), pp. 165-211. >>PDF
Biên dịch: Nguyễn Thái Giang, Nguyễn Thị Lan Hương, Quách Thị Huyền
| Hiệu đính: Việt Long Biển Đông từ lâu được coi là nguyên nhân chính
… Đọc tiếp#15 – Quan điểm của VN về chủ quyền trên quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa
No comments:
Post a Comment